Phân tích các tác phẩm văn học lớp 9Phân tích tác phẩm

Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá – tác giả, hoàn cảnh sáng tác, nội dung, dàn ý, phân tích

Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá mà TMDL đã tổng hợp đầy đủ, chi tiết về tác giả, sáng tác, nội dung, dàn ý, phân tích, thông tin văn bản và giúp các em hệ thống hóa ý tưởng. Chúng tôi mời bạn cùng tham gia!

Đề bài: Đoàn thuyền đánh cá

1. Tác giả Huy Cận

– Huy Cận (1919 – 2005)
– Tên đầy đủ là Cù Huy Cận, quê ở làng Phú, huyện Ngô Quảng, tỉnh Hà Tĩnh.

– Sự nghiệp:
+ Ông tham gia cách mạng trước năm 1945 và giữ nhiều chức vụ quan trọng trong chính quyền cách mạng sau Cách mạng tháng Tám.
+ Là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam, nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với tập thơ Lửa thiêng (1940).
+ Nhận Giải thưởng Nhà nước Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (1996).

– Phong cách sáng tác:
+ Trước năm 1945: hồn thơ thể hiện nỗi buồn nhân thế.
+ Sau năm 1945: hồn thơ dồi dào cảm hứng phát triển về thiên nhiên, công việc và niềm vui của đất nước trước cuộc sống mới.

2. Điều kiện thành phần thuyền đánh cá

Giữa năm 1958, Huy Cận đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi này, hồn thơ Huy Cận lại bừng nở và trong anh tràn đầy cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về công việc và niềm vui của con người hướng tới cuộc sống mới. Bài thơ được viết vào tháng 10 năm 1958. In trong tập “Mặt trời lại tỏa sáng mỗi ngày” (1958).

3. Tiêu đề của “Đội tàu đánh cá”

– Nhan đề ám chỉ bức tranh xuyên suốt tác phẩm: đoàn thuyền đánh cá.
– Tác giả sử dụng hình ảnh “đoàn thuyền đánh cá” thay cho “chiếc thuyền”, nghĩa là không chỉ có một chiếc thuyền mà có nhiều chiếc thuyền cùng đánh cá.
=> Nó thể hiện tinh thần đoàn kết, sức mạnh cộng đồng trong công việc của nhân dân ta trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới.
=> Nhan đề bộc lộ cảm hứng và mạch cảm xúc chủ đạo của bài thơ:

+ Cảm hứng: Tự hào về thiên nhiên đất nước, công việc và niềm vui trong cuộc sống mới.
+ Mạch cảm xúc: Được áp dụng gắn với quá trình làm việc trên biển của thuyền viên từ khi cất cánh trở về.

4. Chỉnh sửa

– Phần 1 (hai lục đầu): Hình ảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi.
– Phần 2 (bốn châu lục tiếp theo): Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển.
– Đoạn 3 (khổ thơ cuối): Cảnh trở về của đoàn thuyền đánh cá.

5. Giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật

1. giá trị nội dung

Đoạn thơ đã miêu tả một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ hòa hợp với con người trong ngày lao động, qua đó bộc lộ niềm tự hào của nhà thơ trước con người và cuộc sống mới.

B. giá trị nghệ thuật

– Sử dụng nhiều hình ảnh gắn với trí tưởng tượng phong phú, độc đáo.
– Giọng thơ da diết, hào hùng, lạc quan.

6. Bản đồ tư duy

Lông nghe giống như bạn

7. Vẽ bài thơ Đoàn thuyền đánh cá

a, Mở: Khai trương đầu tiên

– Giới thiệu ngắn gọn về tác giả Huy Cận.
– Trình bày bài thơ Đoàn thuyền đánh cá với hình ảnh thiên nhiên được miêu tả trong tác phẩm.

b, Thân

* Ảnh thiên nhiên với thuyền đánh cá ra khơi lúc hoàng hôn
– Phép ví von “Mặt trời lặn xuống biển như ngọn lửa”: Gợi sự nguy nga, tráng lệ.
– Biện pháp nhân hoá “Sóng đêm sập cửa”: Vũ trụ bao la, rộng lớn được hình dung như một ngôi nhà lớn bước vào trạng thái nghỉ ngơi.

* Khi có đoàn thuyền đánh cá ra khơi, sự trù phú, trù phú của biển trời bao la và hình ảnh thiên nhiên.
– Liệt kê: Các nhóm cá “Cá bạc ở biển đông êm đềm”, “Cá thu ở biển đông như con thoi”, “Cá bạc má, cá diêu ​​hồng”.
– Trông con cá sống động, chân thực nhưng cũng vô cùng hùng vĩ, tráng lệ: “Cá đỏ đuốc đỏ rực”, “Cá đuôi mình vẫy gấu vàng”.
=> Gợi nhớ đến sự trù phú, dồi dào và lộng lẫy của biển về đêm.

* Bức chân dung thiên nhiên với vẻ đẹp thơ mộng khi đoàn thuyền đánh cá trở về

– Vẻ đẹp của thiên nhiên được kể lại trong bộ phim truyền hình “Mặt trời mọc với màu biển mới”.

– Ảnh chụp hàng triệu mắt cá nhỏ bé dưới ánh bình minh.
+ Thể hiện sự phong phú của thiên nhiên
+ Nó ẩn chứa niềm vui và thành quả lao động của người dân chài.

c, Kết

Đánh giá được nghệ thuật miêu tả thiên nhiên và ý nghĩa của hình tượng thiên nhiên trong đoạn thơ.

1. Phân tích đội tàu đánh cá

Huy Cận là một trong những tên tuổi tiêu biểu của phong trào Thơ mới trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, với những tác phẩm nổi tiếng như Lửa thiêng, Vũ trụ ca… Sau Cách mạng, ông nhanh chóng hòa nhập vào công cuộc kháng chiến vĩ dại của dân tộc chống thực dân Pháp. Hòa bình lập lại, từng trang thơ Huy Cận ấm áp hơi thở của cuộc sống mới đang lên. Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác ở Hòn Gai, năm 1958. Sau một chuyến tác giả đi thực tế dài ngày, được đánh giá là một trong những bài hay của thơ ca Việt Nam hiện đại.

Với đôi mắt quan sát sắc sảo, trí tưởng tượng phong phú, trái tim nhạy cảm và tài năng nghệ thuật điêu luyện, nhà thơ đã vẽ nên trước mắt chúng ta một khung cảnh lao động tuyệt vời trên biển. Cả bài thơ như một bức tranh sơn mài lộng lẫy với những màu sắc huyền ảo, cuốn hút vô cùng:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Đoàn thuyền đánh cá rời bến vào lúc hoàng hôn. Phía ấy mặt trời như một hòn lửa đỏ rực đang lặn dần vào lòng đại dương mênh mông. Màn đêm buông xuống, kết thúc một ngày. Chính vào thời điểm ấy ngư dân bắt tay vào công việc quen thuộc của mình: ra khơi đánh cá. Mặt biển đêm không lạnh lẽo mà ấm áp hẳn lên bởi tiếng hát âm vang náo nức, thể hiện niềm vui to lớn của con người lao động được giải phóng: Cậu hát căng buồm cùng gió khơi. Đây là cách nói độc đáo, sáng tạo của Huy Cận, khiến chúng ta tưởng như tiếng hát hòa cùng gió mạnh, thổi căng cánh buồm, đẩy thuyền phăng phăng rẽ sóng. Cánh buồm no gió tượng trưng cho khí thế phơi phới đi lên của công cuộc dựng xây đất nước.

Lời hát ngợi ca sự giàu có và hào phóng của biển cả cùng vẻ đẹp lung linh, diệu kì của nó trong đêm. Bút pháp lãng mạn của nhà thơ vẽ nên khung cảnh vừa thực vừa ảo:

Hát rằng: Cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đàn cá ơi!

Vẻ đẹp của biển đã làm giảm bớt nỗi nhọc nhằn vất vả, đem lại niềm vui và sức mạnh cho con người đang chinh phục thiên nhiên, làm chủ cuộc đời.Cảnh đánh cá trong đêm dược nhà thơ quan sát và miêu tả với một cảm hứng trữ tình mãnh liệt. Tác giả như nhập thân vào thiên nhiên, vào công việc, vào con người:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Những hình ảnh lái gió, buồm trăng, mây cao, biển bằng phảng phất phong vị thơ cổ điển nhưng vẫn tươi mới chất hiện thực. Một chuyến ra khơi đánh cá cũng giống như một trận đánh. Cũng thăm dò tìm cho ra bãi cá; cũng dàn đan thế trận để giăng lưới, bủa lưới sao cho trúng luồng cá bạc, để sáng mai lúc trở về, thuyền nào thuyền nấy đầy ắp cá.

Đã bao đời, người ngư dân có mối quan hệ chặt chẽ với biển cả. Họ thuộc biển như thuộc lòng bàn tay. Bao loài cá họ thuộc tên, thuộc dáng, thuộc cả thói quen của chúng:

Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vầng chóe.
Đêm thở: Sao lùa nước Hạ Long.

Trên mặt biển đêm, ánh trăng long lanh dát bạc, cá quẫy đuôi, sóng sánh trăng vàng. Bài ca gọi cá vẫn tiếp tục ngân vang, lúc náo nức, lúc thiết tha. Trăng thức cùng ngư dân, trăng cùng sóng dập dờn bên mạn thuyền, như gõ nhịp phụ họa cho tiếng hát. Trăng chiếu sáng cho ngư dân kéo được những mẻ cá đầy. Thiên nhiên, con người thật là hoà hợp.

Bóng đêm đang tan, ngày đang đến, nhịp độ công việc càng sôi nổi, khẩn trương:

Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.

Bao công lao vất vả đã được đền bù. Dáng người ngư dân đang choãi chân, nghiêng người, dồn tất cả sức mạnh vào đôi cánh tay cuồn cuộn để kéo lên những mẻ lưới nặng trĩu mới đẹp làm sao! Bóng dáng họ in trên nền trời hồng rực của buổi bình minh. Những tia nắng sớm chiếu trên khoang cá đầy làm lấp lánh thêm vảy bạc, đuôi vàng và màu sắc phong phú của bao loài cá cũng khiến cho cảnh rạng đông thêm rực rỡ. Nhịp điệu câu thơ cuối chậm rãi, gợi cảm giác thanh thản, vui tươi, phản ánh tâm trạng thoải mái của ngư dân trước kết quả tốt đẹp của chuyến ra khơi.

Khố thơ cuối cùng miêu tả cảnh trở về của đoàn thuyền đánh cá:

Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.

Vẫn là tiếng hát khoẻ khoắn của người ngư dân dạn dày sóng nước đang vươn lên làm chủ cuộc đời. Tiếng hát hoà trong gió, thổi căng cánh buồm đưa đoàn thuyền ra khơi đêm trước, nay lại cùng đoàn thuyền đầy ắp cá hân hoan về bến. Hình ảnh Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời rất hiện thực mà cũng rất hào hùng. Nó phản ánh một thói quen lâu đời của ngư dân là đưa cá về bến trước khi trời sáng, đồng thời cũng thế hiện khí thế đi Lên mạnh mẽ của họ trong công cuộc xây dựng đất nước sau giải phóng.

Hoà cùng niềm vui to lớn của mọi người, nhà thơ chắp cánh cho trí tưởng tượng của mình bay bổng. Đoàn thuyền lao vun vút trên mặt biển. Mặt trời đội biển nhô màu mới một màu hồng rạng rỡ, tinh khôi và ánh mặt trời phản chiếu trong muôn ngàn mắt cá trên thuyền khiến nhà thơ liên tưởng tới hàng ngàn mặt trời nhỏ xíu đang tỏa sáng niềm vui. Đến đây, bức tranh biển cả ngập tràn sắc màu tươi sáng và ăm ắp chất sống trong từng dáng hình, đường nét của cảnh vật, của con người.

Đoàn thuyền đánh cá là một bài ca lao động hứng khởi, hào hùng. Nhà thơ ca ngợi biển cả mênh mông – nguồn tài nguyên bất tận của Tổ quốc, ca ngợi những con người lao động cần cù, gan góc, ngày đêm làm giàu cho đất nước. Cảm hứng trữ tình của Huy Cận và nghệ thuật điêu luyện của ông đã cuốn hút người đọc thực sự. Chúng ta cùng chia sẻ niềm vui to lớn với nhà thơ, với tất cả. Những người lao động mới đang kiêu hãnh ngẩng cao đầu trên con đường đi tới tương lai tươi sáng. Nửa thế kỉ đã trôi qua, bài thơ vẫn giữ nguyên vẹn giá trị ban đầu của nó. Phần nào, bài thơ giúp chúng ta hiểu được chân dung tinh thần mới của Huy Cận sau bao biến cố lịch sử trọng đại của đất nước và dân tộc – một Huy Cận trữ tình cách mạng.

2. Phân tích khổ đầu và khổ cuối của bài thơ Đoàn thuyền đánh cá.

Thiên nhiên là nguồn cảm hứng vô tận đối với mỗi nhà văn, nhà thơ và điều này cũng không ngoại lệ đối với nhà thơ Huy Cận. Nếu cảnh sông nước “Tràng giang” gợi lên “nỗi buồn xưa” của nhà thơ thì cảnh “Đoàn thuyền đánh cá” cũng mang âm hưởng rộn ràng, tươi vui. Khổ đầu và khổ cuối của bài thơ là hình ảnh thiên nhiên tuần hoàn miêu tả một ngày làm việc của người lính thủy.

Huy Cận là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Nếu trước Cách mạng tháng Tám những sáng tác của ông đều gợi một nỗi buồn man mác gửi vào thiên nhiên, vũ trụ thì sau cách mạng, phong cách sáng tác của nhà thơ trở nên vui tươi rõ rệt và được thể hiện cụ thể qua bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được viết năm 1985 trong chuyến đi thực tế của nhà văn tại Quảng Ninh và được in trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng”.

Nhà thơ mở đầu bài thơ bằng một bức tranh hoàng hôn tráng lệ khi thiên nhiên dần chìm vào giấc ngủ thì con người mới bắt đầu công việc của mình:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”

Cảnh hoàng hôn trên biển được miêu tả ở điểm nhìn và vị trí đặc biệt đó là điểm nhìn di động trên con thuyền ra khơi. Vì thế khi người quan sát nhìn về phía mặt trời lặn qua một khoảng biển rộng lớn thì sẽ thấy rằng mặt trời đang dần ngâm mình xuống dưới biển. Mặt trời như một hòn than cháy hồng đang lặn xuống mặt biển, gợi cho ta thấy bước đi của thời gian đó là dấu hiệu của một ngày sắp hết. Khi đó, màn đêm là tấm cửa khổng lồ cũng dần buông xuống “sóng cài then”, “đêm sập cửa” gợi cho ta cảm giác gần gũi, thân thương vì vũ trụ như một ngôi nhà lớn có then, có cửa. Nhà thơ đã miêu tả rất chân thực khoảnh khắc chuyển đổi giữa ngày và đêm khiến cho cảnh biển hiện ra trước mắt người đọc trở nên thật đẹp, kì vĩ, tráng lệ như thần thoại đồng thời gợi sự gần gũi, thân quen như ngôi nhà của những người dân chài vậy.

Khi thiên nhiên bước vào trạng thái nghỉ ngơi thì con người mới bắt đầu công việc hàng ngày của mình. Đoàn thuyền đánh cá ra khơi với tâm thế vui tươi, sảng khoái:

“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”

Hình ảnh “đoàn thuyền” gợi ra sự tấp nập đã tạo nên không khí sôi nổi trên mặt biển. Đoàn ngư dân cất cao câu hát khởi hành tràn đầy khí thế bởi tiếng hát sẽ xua đi sự mệt mỏi. Nhà thơ sử dụng từ “lại” để chỉ nhịp điệu công việc của người lao động đã góp phần tô đậm sự đối lập giữa thiên nhiên và con người. Con người lao động khi thiên nhiên chìm vào giấc ngủ là việc vô cùng quen thuộc với những ngư dân vùng biển. Hình ảnh câu hát, cánh buồm, gió khơi đã cho ta thấy niềm vui, niềm phấn chấn của người lao động, đó chính là sức mạnh vô hình để đẩy căng cánh buồm. Họ ra khơi trong tâm thế hứng khởi bởi vì họ tìm thấy niềm vui trong lao động, yêu biển và say mê với công việc chinh phục biển khơi làm giàu Tổ quốc.

Nếu như ở khổ thơ đầu của bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” ta thấy được cảnh ra khơi của đoàn thuyền trong hoàng hôn rực lửa thì đến khổ thơ cuối, đoàn thuyền ấy đã trở về đầy ắp cá trong bình minh tráng lệ:

“Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.”

Hình ảnh “câu hát” được lặp lại như một điệp khúc ngân nga có tác dụng nhấn mạnh niềm vui lao động, làm giàu quê hương của những người dân chài. Có lẽ, câu hát lúc ra khơi của những ngư dân vùng biển là câu hát lạc quan, tin tưởng khi trở về con tàu sẽ đầy ắp cá tươi còn câu hát lúc trở về là câu hát vui sướng trước thành quả lao động sau một đêm đầy vất vả, cực nhọc của họ. Đoàn thuyền như một sinh thể sống động, chạy đua với thiên nhiên bằng tốc độ ánh sáng. Qua đó, ta thấy được khí thế khẩn trương, sức lực dồi dào, hăng say làm việc sau một đêm vất vả của người lao động cho nên đoàn thuyền vẫn còn sức để “chạy đua cùng mặt trời”. Bằng hình ảnh thơ bay bổng, tác giả đã làm nổi bật tư thế của những con người lao động đó là tư thế sánh ngang với vũ trụ, chiến thắng thiên nhiên và làm chủ thiên nhiên trong mọi cuộc đua. Đoàn thuyền trở về lúc mình minh khi mặt trời “nhô màu mới”, đây là dấu hiệu của sự sống sinh sôi, nảy nở với vô vàn niềm vui, niềm hạnh phúc của người lao động vùng biển có được sau một chuyến hành trình vất vả, cực nhọc. Ở câu thơ cuối cùng của bài thơ, ta lại bắt gặp một hình ảnh mặt trời khác, tuy nhiên đây không phải mặt trời của thiên nhiên mà của muôn ngàn “mắt cá”. Mắt cá lấp lánh như sao trời chính là ánh sáng của thành quả lao động, gợi ra niềm tin, niềm hi vọng của người lao động về tương lai tươi sáng. Khổ thơ cuối mang âm hưởng của bản hùng ca lao động với niềm vui phơi phới của con người khi thắng lợi trở về và làm chủ cả thiên nhiên, đất trời.

Mỗi một tác phẩm nghệ thuật đều thể hiện phong cách sáng tác riêng biệt của mỗi nhà văn, nhà thơ. Khổ đầu và khổ cuối bài thơ đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên có hoàng hôn, có bình minh vô cùng đặc sắc và tràn đầy sức sống với những hình ảnh thơ phong phú, giàu sức gợi. Từ đó ta thấy được một tâm hồn yêu thiên nhiên, trân trọng vẻ đẹp con người lao động của ngòi bút sôi động, phóng khoáng mang tên Huy Cận.

Khổ đầu và khổ cuối bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” giống như tấm bản lề mở ra và khép lại hành trình một ngày ra khơi của những người dân vùng biển với vô vàn niềm vui và sự phấn khởi. Bằng những cảm nhận tinh tế, nhà thơ Huy Cận đã phác họa thành công bức tranh thiên vùng biển tuyệt đẹp với những nét lao động khỏe khoắn của con người nơi đây.

3. Phân tích vẻ đẹp của người lao động trong bài Đoàn thuyền đánh cá

Trước Cách mạng Tháng Tám, thơ Huy Cận day dứt bởi nỗi buồn sâu thẳm, một nỗi buồn mênh mông, mênh mông, mơ hồ, nhưng có lẽ hồn thơ Huy Cận đã tiếp thu ông kể từ sau Cách mạng Tháng Tám thành công. Công việc xây dựng ở miền bắc vẫn tiếp tục với sự hăng hái. Bác viết những vần thơ với tâm huyết ca ngợi sức lao động không ngừng nghỉ của nhân dân ta, vẻ đẹp của người lao động và cảnh đẹp của đất nước. Một trong những bài thơ tiêu biểu của thơ ca thời kỳ này là tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá, trong đó Huy Cận miêu tả vẻ đẹp của người dân làng chài với nhiệt huyết và cuộc sống, như một khúc hùng ca thuở bắt đầu công cuộc xây dựng quê hương.

Huy Cận (1919-2005), quê ở Hà Tĩnh, một số tác phẩm tiêu biểu bao gồm tập thơ Lửa thiêng. Nguồn cảm hứng chính của Huy Cận là thiên nhiên, vũ trụ và con người, trước cách mạng tháng tám thơ ông giàu chất triết lý và ngập tràn nỗi sầu nhân thế, sau cách mạng thơ ông có sự đổi dời về cảm hứng, ông thường viết về những bài ca lao động và thiên nhiên với giọng điệu vui tươi, hào hứng. Tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác năm 1958, trong một chuyến đi thực tế ở vùng biển Quảng Ninh, chứng kiến cảnh lao động của ngư dân tác giả đã viết nên bài thơ với một niềm hứng khởi. Bài thơ được trích trong tập Trời mỗi ngày lại sáng (1958).

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”

Ngay từ trong khổ thơ đầu khúc hát lao động đã vang lên đầy náo nức, say mê và hăng hái đã được cất lên. Khung cảnh lúc đoàn thuyền đánh cá ra khơi có nhiều điểm khác biệt, không phải là bình minh tươi sáng, cũng không phải là một buổi trưa đầy nắng, mà lại bắt đầu khi hoàng hôn tắt nắng, vạn vật sắp nghỉ ngơi, thì những ngư dân lại dong buồm ra biển. Cảnh hoàng hôn trên biển không hề u ám, tối tăm mà lại mang một vẻ đẹp yên bình, dưới cái ráng chiều hồng nhạt.

Từ xa xa, trên mạn thuyền Huy Cận thấy mặt trời như một viên ngọc đỏ chói đang dần chìm xuống biển, “hòn lửa” mang một vẻ đẹp ấm áp, bừng sáng lên giữa biển khơi bao la, không hề gợi nên nỗi buồn cô tịch. Bên cạnh hình ảnh so sánh, Huy Cận còn sử dụng những hình ảnh nhân hóa đặc sắc “Sóng đã cài then, đêm sập cửa”, tác giả xem cả vũ trụ tựa như một ngôi nhà mà màn đêm buông xuống chính là cánh cửa, những con sóng chính là cái then cài. Giữa lúc thiên nhiên nghỉ ngơi, thì con người lại lao vào công cuộc lao động, “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi”, từ “lại” vừa tạo ra sự đối lập giữa tứ thơ ở hai câu trên và hai câu thơ dưới, vừa biểu hiện sự lặp lại của công việc giống như mọi ngày, giống như bao nhiêu năm tháng đã đã qua đoàn thuyền đánh cá vẫn tiếp tục ra khơi không ngừng nghỉ. Con người lao động không mệt mỏi, luôn vững tinh thần, công việc dù có lặp lại nhưng không hề nhàm chán vẫn mang đến những cảm giác, phấn chấn, náo nức, say mê ở người ngư dân. Điều ấy được nhà thơ thể hiện rõ nhất qua câu thơ “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”, tiếng ca của con người hợp sức với ngọn gió biển khơi cùng nhau thổi căng cánh buồm, đẩy thuyền về khơi xa. Những câu hát thể hiện niềm say mê phấn chấn, lạc quan của con người trong lao động, ngay từ trong những dòng thơ đầu Huy Cận đã tạo ra một không khí lao động hết sức sôi động, say mê, chan chứa niềm vui đó đúng là không khí của những ngày đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”

Những câu hát vui tươi cất lên, đã sưởi ấm cái màn đêm tăm tối, khơi gợi niềm phấn khởi trong con người, xua đi những khó khăn mệt mỏi, mang lại một không khí lao động vô cùng hào hùng và lãng mạn. Huy Cận liệt kê một loạt các loài cá như cá bạc, cá thu như “đoàn thoi”, phần nào thể hiện sự giàu có của biển cả, những đoàn cá ấy đêm ngày “dệt biển” vô cùng nhộn nhịp đông đúc. Thế nên mới có câu thơ thật hay: “Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”, những ngư dân hát mới một tâm hồn ngập tràn niềm vui và sức sống, niềm trông đợi vào một mẻ lưới đầy, sao cho cá vào “dệt lưới”. Cách xưng hô thân thiết mời gọi ấy càng kéo gần khoảng cách giữa mẹ thiên nhiên và con người, đồng thời cũng thể hiện tấm lòng giản dị, chất phác của người ngư dân trên biển cả, ngày ngày hăng say với công việc lao động.

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé,
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.”

Đến hai khổ thơ tiếp, chủ yếu nói về hình ảnh con thuyền đánh cá giữa đêm trăng, vừa mang vẻ đẹp lãng mạn, thi vị lại cũng vừa hào hùng và mạnh mẽ, đồng thơi miêu tả dáng vẻ phì nhiêu, giàu có nơi biển cả với biết bao nhiêu loài cá, nào cá nhụ, cá chim, rồi cá đé, cả cá song. Dường như không chỉ riêng con người mới sôi động, rộn ràng mà biển cả cũng không kém phần say mê, cá đông như trẩy hội, con thì “lấp lánh đuốc đen hồng”, con thì mải “quẫy trăng vàng chóe”, bức tranh thiên nhiên biển cả trở nên sôi động hơn bao giờ hết, hòa cùng với cái khí thế đầy phấn khởi của người lao động, khiến ta liên tưởng đến một khung cảnh đầy say mê giữa biển khơi. Ở đây con người không chỉ lao động bằng sức mạnh mà còn dựa vào lòng dũng cảm, sẵn sàng ra tận khơi xa “dò bụng biển”, đồng thời còn vận dụng đầu óc để vạch ra kế hoạch rõ ràng, tạo “thế trận lưới vây giăng” sao cho được nhiều cá, tôm.

“Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.”

Ở khổ thơ này, hình ảnh con người lao động lại tiếp tục xuất hiện, vẫn khúc hát gọi cá đầy say mê. Vẻ đẹp của người ngư dân còn hiện lên thông qua tấm lòng yêu mến và trân trọng thiên nhiên, đối với người ngư dân, biển chính là người mẹ vĩ đại, ngày ngày chắt chiu cho ta dòng cá ngon, để cho những đứa con ngư dân được sống, được tồn tại và phát triển. Như vậy trong lòng người ngư dân không chỉ có tinh thần hăng say lao động mà còn ẩn chứa lòng biết ơn sâu sắc đối với mẹ thiên nhiên.

“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng,
Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.”

Khúc hát gọi cá vào ca mãi rồi thì cũng đến hồi kết, lưới đã thả thì phải thu lại, ở khổ thơ này hình ảnh người ngư dân với sức mạnh trong lao động được thể hiện một cách chân thực. “Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng”, câu thơ vừa thể hiện chuyến ra khơi bội thu của những người nông dân, cũng thể hiện sức mạnh của họ trong công việc kéo lưới giữa biển khơi đầy vất vả. Thế nhưng cá càng nhiều, lòng người ngư dân càng phấn khởi, càng hăng say, dẫu lưới cá có nặng thêm nữa cũng chẳng hề chi, bởi niềm vui niềm phấn khởi trong lao động đã xóa hết những mệt mỏi, nặng nề.

“Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.”

Một lần nữa câu thơ “Câu hát căng buồm với gió khơi” lại xuất hiện, nếu như ở khổ thơ đầu ấy là khúc hát khuấy động tinh thần, nâng cao ý chí ra khơi, với tinh thần quyết thắng, mong mỏi một chuyến đi thuận lợi, thì ở đây câu khác lại giống như khúc ca khải hoàn của những người chiến thắng trở về. Vẫn ngữ điệu hăng say, phấn khởi, kết hợp với những hình ảnh “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”, “Mặt trời đội biển nhô màu mới”, tạo nên một không khí vui tươi, nhộn nhịp. Dường như đâu đây ta nghe thấy tiếng cười sảng khoái, giữa bình minh, cuộc sống lại bắt đầu trong một khung cảnh rực rỡ và náo nhiệt, sau khi trải qua bao nhiêu khó khăn vất vả của một đêm dong buồm ngoài khơi xa, thì kết quả thu được là hoàn toàn xứng đáng. Thêm vào đó hình ảnh “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” mang một tầng nghĩa sâu sắc, chúng ta có thể thấy rằng khác với trong những văn tự trước đây, con người thường nép mình vào thiên nhiên, nhỏ bé trước thiên nhiên, thì giờ đây con người đã trở nên thật mạnh mẽ và tự tin. Dám sánh ngang hàng với vũ trụ, với mặt trời, trong tư thế oai hùng, hiên ngang, thiên nhiên và con người trở nên dung hòa lẫn nhau, làm bức tranh cuộc trở nên hài hòa hơn hẳn. Điều đó cũng đánh một dấu son trong công cuộc chinh phục thiên nhiên của con người và xây dựng đất nước.

Đoàn thuyền đánh cá là khúc tráng ca bất tận về công cuộc lao động và chinh phục thiên nhiên biển cả của con người, ở đó ta thấy được không khí sôi nổi, hào hứng và say mê của những con người lao động. Tầm vóc của con người trở nên lớn lao, kì vĩ với những vẻ đẹp phẩm chất tâm hồn và sức mạnh trong công cuộc chinh phục biển cả. Với giọng thơ say mê, đầy phấn khởi, từ ngữ, hình ảnh giàu sức gợi Huy Cận đã thành công trong việc khắc họa vẻ đẹp của người lao động và không khí của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng năm sau cách mạng tháng Tám ở miền Bắc nước ta.

4. Đóng vai người đánh cá và nhắc lại bài thơ Đoàn thuyền đánh cá.

Nói về cuộc sống mới khiến tôi nhớ đến năm 1958, 10 năm sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. Lúc bấy giờ nhân dân ta lao động sản xuất, xây dựng xã hội mới, những ngư dân như chúng ta trở lại biển, bám biển để nuôi sống bản thân, gia đình và làm giàu cho quê hương. , bố mẹ.

Một ngày như bao ngày khác, tôi cùng anh em trai tráng khỏe mạnh lên con thuyền ra khơi vào lúc trời nhá nhem tối. Khi mặt trời xuống biển, không gian bước vào màn đêm cũng là lúc khởi đầu chuyến ra khơi của đoàn thuyền. Thuyền tôi ra khơi mạnh mẽ như một con chiến mã, thuyền có gió làm lái, có trăng làm buồn, cứ băng ra biển, xé tan màn đêm. Biển Đông giàu có với rất nhiều loài cá quý, nào là cá bạc, cá thu đang lấp lánh giữa biển trăng, là cá nhụ, cá chim, cá đé. Anh em ngư dân chúng tôi ra khơi với tâm thế vô cùng hứng khởi, lòng phơi phới niềm tin về một chuyến đi bội thu. Không còn là nô lệ chịu áp bức, được tự do làm chủ công việc khiến ai cũng hăng say lao động chẳng màng mệt nhọc, vất vả. Để xua tan những nỗi lo trước biển lớn, những nặng nhọc đêm dài đánh cá, chúng tôi ngân nga những câu hát, đó như là bài ca lao động đầy niềm vui cùng thiên nhiên. Dàn lưới ra xung quanh thuyền như một thế trận bủa vây, chúng tôi bắt đầu nghêu ngao hát, hát và gõ vào thuyền để dụ cá vào lưới. Mỗi ngư dân chúng tôi đều rất biết ơn biển cả, biển cho nguồn sống là cá, biển cho công việc và giúp chúng tôi được lớn lên thành người, biển cả như là người mẹ thứ hai của mỗi người. Tờ mờ sáng, khi sao vẫn còn, chúng tôi phải nhanh tay kéo lưới để kịp trời sáng, mẻ lưới đầy cá nặng trĩu, mấy anh em chung tay kéo mới lên được. Chuyến ra khơi đã bội thu, chúng tôi xếp lưới, căng buồm quay thuyền trở về. Ra khơi hào hứng bao nhiêu thì trở về càng thêm phơi phới bấy nhiêu.

Qua công việc ra khơi đánh cá hàng ngày, tôi luôn thầm ấp ủ ước mơ hòa hợp và chinh phục thiên nhiên. Tôi muốn mình có thể làm giàu từ biển nhưng mong muốn bảo vệ sự trù phú, giàu có của biển.

Kết luận: 

Trên đây là Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá gồm – tác giả, hoàn cảnh sáng tác, nội dung, dàn ý, phân tích mà TMDL sưu tầm chọn lọc hay nhất, cảm ơn các bạn đã tham khảo.

Để biết thêm nhiều bài đoạn văn hay hãy tham khảo ở tmdl.edu.vn nhé

Lương Sinh

Lương Sinh là một tác giả đầy nhiệt huyết trong lĩnh vực giáo dục, ngoại ngữ và kiến thức. Với hơn 10 năm kinh nghiệm làm việc trong ngành, cô đã tích lũy được rất nhiều kiến thức và kỹ năng quan trọng. Với tình yêu với ngôn ngữ và mong muốn chia sẻ kiến thức, Lương Sinh đã quyết định sáng lập blog tmdl.edu.vn. Trang web này không chỉ là nơi chia sẻ những kinh nghiệm và kiến thức cá nhân của cô, mà còn là một nguồn thông tin hữu ích cho những người quan tâm đến giáo dục, kiến thức và ngoại ngữ. Đặc biệt là tiếng Anh và tiếng Trung Quốc.
Back to top button