Văn Học

Top 6 bài cảm nhận nhân vật bé Thu

Cảm nhận của em về nhân vật bé Thu trong đoạn trích Chiếc lược ngà

Cảm nhận về nhân vật bé Thu

Suy nghĩ của em về nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà – Truyện ngắn Chiếc lược ngà là những hình ảnh đẹp về tình cảm cha con sâu sắc. Thông qua tác phẩm người đọc có thể thấy một bé Thu hồn nhiên, bướng bỉnh với tình yêu thương cha vô tận. Sau đây là một số bài văn mẫu cảm nhận về nhân vật bé Thu hay và chi tiết giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về nhân vật bé Thu.

Bạn đang xem bài: Top 6 bài cảm nhận nhân vật bé Thu

1. Dàn ý cảm nhận bé Thu trong Chiếc lược ngà

a) Mở bài

– Giới thiệu vài nét về tác giả Nguyễn Quang Sáng và truyện ngắn Chiếc lược ngà

Nguyễn Quang Sáng (1932 – 2014) là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học cách mạng Việt Nam, tác giả của nhiều tác phẩm văn chương và kịch bản phim nổi tiếng.

Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” (1966) được tác giả viết khi đang hoạt động ở chiến trường Nam Bộ, nội dung kể về câu chuyện cảm động về tình cha con trong hoàn cảnh éo le, khốc liệt của chiến tranh.

– Giới thiệu khái quát nhân vật bé Thu:

Bé Thu là nhân vật chính trong tác phẩm với những nét tính cách vô cùng đáng yêu, cá tính, là biểu tượng cho tình cảm cha con sâu nặng, thiêng liêng.

b) Thân bài

* Khái quát về tác phẩm

– Tình huống truyện:

Cuộc gặp gỡ giữa hai cha con ông Sáu sau 8 năm xa cách: chỉ biết nhau qua tấm hình, trong lúc người cha mong mỏi được nghe tiếng con gọi ba thì người con lại không nhận cha, đến lúc nhận ra và biểu lộ tình cảm thì người cha phải ra đi.

Trở lại đơn vị, người cha dồn tất cả tình yêu thương vào việc làm cây lược ngà tặng con, nhưng chưa kịp trao cho con thì ông đã hi sinh trong một trận càn lớn của Mĩ – Ngụy.

– Cảnh ngộ của bé Thu: Ba đi chiến đấu từ khi bé còn rất nhỏ, nên hình ảnh người ba trong bé vô cùng ít ỏi. Gia đình chỉ cho bé xem hình ba mà thôi. Chính điều này đã gây ra những bi kịch giằng xé khi ba cô bé trở về thăm nhà mấy ngày sau tám năm xa cách.

* Bé Thu trong ngày đầu gặp cha

Khi mới gặp, ông Sáu đưa tay ra đón Thu:

Thu đã giật mình, tròn mắt nhìn, ngơ ngác, lạ lùng, rồi hoảng sợ, mặt tái đi

Khi thấy ba em bỏ chạy vụt vào trong nhà và cầu cứu má
-> Hồn nhiên, ngây thơ hòa chút sợ hãi.

=> Thu không chấp nhận sự thật vì người ba mà mình xem trong hình không giống như ông Sáu ở ngoài thực.

* Bé Thu trong khoảng thời gian ông Sáu ở nhà

Khi ba muốn gần gũi và vỗ về thì bé Thu xô ra, xem ông Sáu như người lạ

Thu quyết không chịu gọi ông là ba, nói trống không, bất chấp sự trách móc của mẹ.

Lúc phải chắt nước nồi cơm vừa to, vừa nặng quá sức mình, con bé cũng không chịu nhờ ông Sáu. Nó tự xoay sở để không phải gọi ông là ba, thậm chí gọi còn ông là “người ta”.

Khi ông Sáu gắp cho miếng trứng cá, nó liền hất luôn ra, làm đổ cả bát cơm.

Lúc ông Sáu không kìm được nỗi đau khổ nên đánh nó, nó lập tức bỏ sang nhà bà ngoại.
=> Bé Thu phản ứng rất quyết liệt, thể hiện sự bướng bỉnh, ngang ngạnh song cũng rất cá tính.

* Bé Thu khi nhận ra cha

– Khi bỏ sang nhà bà ngoại, Thu đã được ngoại giải thích, lí giải vì sao ba lại có vết thẹo dài đó, cuộc sống của ba gian khổ như thế nào, và chính chiến tranh đã khiến cho ba có một vết thương như thế.

-> Cô bé đã vô cùng buồn và áy náy, trằn trọc mãi không ngủ được, “nằm im, lăn lộn, thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn…”.

– Con bé đã thay đổi hoàn toàn thái độ trong sự ngỡ ngàng của ông Sáu và mọi người:

Không còn bướng bỉnh và lạnh lùng hay nhăn mày cau có như trước “vẻ mặt nó sám lại buồn rầu… nó nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa”.

Khi bắt gặp cái nhìn trìu mến, buồn bã của ba, đôi mắt nó bỗng xôn xao.

-> Đó là cái xôn xao của sự đồng cảm, nhận ra những tiếc nuối, xót xa, yêu thương trong ánh mắt của ba.

– Khi ông Sáu cất lời từ biệt:

Con bé bỗng cất lên tiếng gọi ba xé lòng – tiếng gọi bị kìm nén suốt tám năm, tiếng gọi chất chứa bao tình yêu thương thắm thiết.

“Nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó”

Nó “ôm chặt lấy cổ ba”, “nói trong tiếng khóc” để giữ không cho ba đi.

Nó khóc nức nở, hôn ba, hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả lên vết thẹo của ba.

-> Tiếng khóc vừa là tiếng khóc của sự ân hận, vừa là tiếng khóc của tình yêu thương, của nỗi buồn xa cách.

=> Dường như lúc này mọi khoảng cách giữa Thu với ba đã bị xóa bỏ. Cô bé không giấu giếm tình cảm của mình dành cho ba, nó lo sợ ba sẽ đi mất, cố mọi cách để giữ ba ở lại.

=> Tình yêu thương mãnh liệt Thu dành cho ba đã khiến tất cả mọi người xung quanh đều xúc động.

* Đánh giá nghệ thuật xây dựng nhân vật

Tạo dựng tình huống truyện đầy éo le, bất ngờ;

Lựa chọn thời gian ngắn ngủi ba ngày để tạo độ nén về thời gian, độ căng của cảm xúc;

Miêu tả tâm trạng nhân vật qua cử chỉ, hành động, lời nói thể hiện sự quan sát tỉ mỉ và am hiểu tâm lí trẻ thơ của nhà văn.

Nghệ thuật liệt kê được sử dụng hiệu quả.

c) Kết bài

Khẳng định lại giá trị của truyện, của hình ảnh nhân vật.

Nêu cảm nhận của em về nhân vật bé Thu.

2. Cảm nhận nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà chi tiết

Chiếc lược ngà là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách sáng tác của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Trong đó nổi bật lên hình ảnh cô bé Thu với nhiều phẩm chất vô cùng đáng quý. Để phân tích cũng như cảm nhận về nhân vật bé Thu, trước tiên chúng ta cần tìm hiểu đôi nét về tác giả và tác phẩm như sau.

Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932, với bút danh là Nguyễn Sáng. Quê hương của nhà văn thuộc ở Chợ Mới, tỉnh An Giang. Ông là bộ đội thời đánh Pháp, sau năm 1954 tập kết ra miền Bắc mới bắt đầu viết văn. Trong những năm kháng chiến đánh Mĩ, ông sống và hoạt động tại chiến trường Nam Bộ. Cảnh vật, con người và hơi thở nhịp sống trong tác phẩm Nguyễn Quang Sáng đậm đặc màu sắc Nam Bộ.

Màu sắc bi tráng với bao sự tích anh hùng, những tình huống hấp dẫn đầy kịch tính và giàu chất thơ tạo nên cốt cách và vẻ đẹp trang văn Nguyễn Quang Sáng. Tác giả để lại nhiều tác phẩm đặc sắc bằng nhiều thể loại. Các tập truyện ngắn: “Con chim vàng”, “Người quê hương”, “Chiếc lược ngà”, “Bông cẩm thạch”, “Người con đi xa” … Tiểu thuyết có: “Đất lửa”, “Mùa gió chướng”, “Dòng sông thơ ấu”. Ngoài ra ông còn có một số kịch bản phim, lưu giữ trong lòng người “một thời để nhớ, một thời để yêu”.

Tác phẩm này ra đời vào tháng 9 năm 1966 tại chiến trường Nam Bộ, trong hoàn cảnh những ngày tháng sôi sục đánh Mĩ. Truyện kể về ông Sáu, một cán bộ “nằm vùng tại miền Đông” da diết thương nhớ vợ con, dùng ngà voi làm thành chiếc lược ngà xinh xắn, trước lúc từ thương đã nhờ bạn chiến đấu trao lại chiếc lược ngà cho đứa con gái bé bỏng, yêu thương.

Qua đó, tác giả Nguyễn Quang Sáng đã thể hiện tình cha con sâu nặng, tình đồng đội thiết tha trong cảnh ngộ éo le thời chiến tranh, đồng thời ca ngợi truyền thống cách mạng yêu nước của người nông dân Nam Bộ.

Những cảm nhận về nhân vật bé Thu hiện lên đầu tiên chính là hình ảnh một cô bé miền Nam khác thiếu thốn tình cha từ nhỏ do cuộc chiến tranh. Khi anh Sáu ra đi, em chưa đầy một tuổi, tám năm trời, cha con em chỉ biết nhau qua hai tấm ảnh. Lần về phép ba ngày của anh Sáu là cơ hội hiếm hoi để ba con Thu gặp gỡ nhau, bày tỏ tình phụ tử.

Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã đặt bé Thu vào một tình huống đầy éo le: vì một sự hiểu lầm trẻ con, Thu không chịu nhận anh Sáu là ba, đến lúc nhận ra thì cũng là giây phút ba em lên đường tập kết. Và lần gặp mặt ấy, là lần gặp mặt đầu tiên, duy nhất, cuối cùng của cha con em. Khi cảm nhận về nhân vật bé Thu, có lẽ đây là tình huống oái oăm và trớ trêu của tác phẩm.

Tuy nhiên, từ tình huống truyện éo le ấy, người đọc vẫn nhận ra đặc điểm riêng, cá tính riêng của nhân vật bé Thu: một cô bé tám tuổi bướng bỉnh nhưng dễ thương và đặc biệt có tình yêu ba sâu sắc, mãnh liệt. Tình yêu ấy được thể hiện trong hai hoàn cảnh trái ngược nhau, trước và sau khi nhận ra ba.

Lúc chưa chịu nhận anh Sáu là ba, Thu là một cô bé trẻ con, bướng bỉnh và đáo để đến nỗi làm anh Sáu đau lòng vì thái độ khước từ tình thương ba dành cho em. Phút đầu tiên hai ba con gặp mặt, trái ngược với nỗi mong nhớ, sự sốt ruột và suy nghĩ của anh Sáu, bé Thu vụt chạy đi, nét mặt đầy sợ hãi kêu “má, má” để lại anh Sáu đứng một mình “nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai cánh tay buông xuống như bị gãy”.

Cảm nhận về nhân vật bé Thu còn thể hiện ở khoảng thời gian khi ông Sáu ở nhà. Trong ba ngày đó, anh không dám đi đâu vì muốn ở bên con, vỗ về, chăm sóc và bù đắp sự thiếu thốn trong 8 năm qua cho nó nhưng bé Thu lại tỏ ra cứng đầu, không chịu nhận anh, cũng không chịu gọi anh một tiếng “ba” dù chỉ một lần.

Nhà văn đã xây dựng một loạt các chi tiết để miêu tả tâm lí, thái độ rất trẻ con, cố chấp của bé Thu. Khi má bắt kêu ba vào ăn cơm, dọa đánh để cô bé gọi ba một tiếng, Thu vẫn chỉ nói trống không “vô ăn cơm! cơm chín rồi”, “con kêu rồi mà người ta không nghe”. Hai tiếng “người ta” mà Thu thốt lên làm anh Sáu đau lòng đến mức “không khóc được, chỉ khe khẽ lắc đầu cười”.

Thậm chí, ngay cả khi bị má đặt vào một hoàn cảnh khó khăn để buộc Thu gọi anh Sáu một tiếng ba là chắt nước nồi cơm to đang sôi, Thu cũng lại nói trống không “cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái”. Sự im lặng của anh Sáu và cả sự gợi ý của bác Ba đều không thể làm cô bé gọi tiếng “ba” đơn sơ, giản dị. Tiếng gọi mà mỗi đứa trẻ đều ghi nhớ và bập bẹ lần đầu tiên trong cuộc đời mình.

Khi cảm nhận về nhân vật bé Thu, người đọc thấy đỉnh điểm của sự kiên quyết chối từ tình yêu thương của anh Sáu trong bé Thu là chi tiết cái trứng cá trong bữa cơm gia đình. Bằng lòng thương con của người cha, anh Sáu gắp cái trứng cá ngon nhất vào chén cơm của Thu nhưng con bé bất thần hất nó ta khỏi chén cơm.

Nỗi đau khổ trong ba ngày nén chịu trào lên, anh Sáu đánh con, lúc đó Thu không khóc, lầm lì bỏ trứng cá lại vào chén cơm và bỏ sang nhà bà ngoại, lúc đi còn cố ý khua dây xuống cho thật to. Những chi tiết bình thường mà tinh tế này chứng tỏ nhà văn rất thấu hiểu tâm lí trẻ em. Trẻ con vốn rất thơ ngây nhưng cũng đầy cố chấp, nhất là khi chúng có sự hiểu lầm, chúng kiên quyết chối từ tình cảm của người khác mà không cần cân nhắc, nhất là với một cô bé cá tính như Thu.

Người đọc nhiều khi thấy giận em, thương cho anh Sáu. Nhưng thật ra em vẫn là cô bé dễ thương. Sự ương ngạnh của Thu không hoàn toàn đáng trách. Trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, nó còn quá nhỏ để có thể hiểu được những tình thế éo le, khắc nghiệt của đời sống và người lớn cũng không ai kịp chuẩn bị cho nó đón nhận những khả năng bất thường.

Chính thái độ ngang ngạnh, quyết liệt của bé Thu lại thể hiện sâu sắc tình cảm yêu thương dành cho ba. Đơn giản Thu không nhận ra cha là vì người tự nhận là cha kia không hề giống người cha mà em đã thấy trong bức ảnh. Ba em trong ảnh không có vết sẹo dài trên mặt như thế. Cô bé không tin, thậm chí là ngờ vực.

Không ai tháo gỡ được thắc mắc thầm kín trong lòng của Thu, nghĩa là bé Thu chỉ dành tình cảm cho người cha duy nhất trong bức ảnh. Sự bướng bỉnh của cô bé phải chăng còn là mầm sâu kín, sau này làm nên tính cách cứng cỏi ngoan cường của cô giao liên kiến định có lập trường. Phân tích và cảm nhận về nhân vật bé Thu, người đọc thấy đây là những diễn biến hoàn toàn hợp lý.

Phân tích và cảm nhận về nhân vật bé Thu còn thể hiện khi cô bé nhận cha của mình. Những nghi ngờ của Thu được giải tỏa khi nghe bà ngoại giải thích vì sao ba lại có vết thẹo dài trên má. Nghe những điều ấy, “nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Bởi thế, tình yêu ba trong Thu đã trỗi dậy mãnh liệt vào cái giây phút bất ngờ nhất, giây phút ông Sáu lên đường.

Cái tiếng “ba” mà ông Sáu đã chờ đợi từ lâu bất ngờ vang lên “Nhưng thật lạ lùng, đến lúc ấy, tình cha con như bỗng nổi dậy trong người nó, đến lúc không ai ngờ đến thì nó bỗng kêu thét lên: – Ba…a…a…ba! Tiếng kêu của nó như một tiếng xe, xé sự im lặng, xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa.

Cảm nhận về nhân vật bé Thu đến đây đã khiến mỗi người đọc không khỏi rơi lệ. Đó là tiếng “ba” nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay như vỡ tung từ đáy lòng nó”. Tiếng gọi thân thương ấy đứa trẻ nào cũng gọi đến thành quen nhưng với cha con Thu là nỗi khát khao của 8 năm trời xa cách thương nhớ. Đó là tiếng gọi của trái tim, của tình yêu trong lòng đứa bé 8 tuổi mong chờ giây phút gặp ba.

Nó vừa kêu, vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Nó vừa ôm chặt lấy cổ ba nó vừa nói trong tiếng khóc: – Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!”. Tình cảm con với ba được thể hiện một cách mãnh liệt, mạnh mẽ, cuống quýt, hối hả và có xen lẫn phần hối hận.

Đó là những cảm xúc đã dồn nén từ lâu bỗng vỡ òa ra: “Ba bế nó lên. Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc,hôn cổ, hôn vai, và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”. Bà con và người kể chuyện cũng như người đọc không thể kìm được nỗi xúc động như có ai đang nắm chặt tim mình bởi vì cái éo le của tình cha con ở đây. Thật xúc động biết bao, chỉ với những hành động này đã giúp ta cảm nhận về nhân vật bé Thu một cách đầy sâu sắc.

Lúc cha con nhận nhau lại cũng chính là lúc người cha phải ra đi. Sự níu kéo của đứa con càng khắc nhấn sự éo le của chiến tranh: “Con bé hét lên, hai tay nó siết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó và đôi vai nhỏ bé của nó run run”. Những nỗ lực của Thu không giữ được ba nó.

Ông Sáu vẫn phải ra đi dù giây phút cha con nhận nhau thật ngắn ngủi! Xót thương thay cho Thu bởi cô đâu hiểu rằng cuộc gặp gỡ đầu tiên này cũng là lần cuối cùng. Ba cô đã hi sinh trong một trận càn. Chứng kiến những biểu hiện tình cảm ấy trong cảnh ngộ cha con ông Sáu phải chia tay, có người không cầm được nước mắt và người kể chuyện thì cảm thấy như có bàn tay ai nắm lấy trái tim mình.

Có thể thấy, xuyên suốt đoạn trích, trong hai hoàn cảnh và hai cách ứng xử hoàn toàn khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một tấm lòng yêu cha sắt son của bé Thu – một em bé mới chỉ tám tuổi. Tuy nhiên, Thu trước sau vẫn chỉ là một cô bé ngây thơ, em đồng ý cho ba đi để ba mua một chiếc lược, món quà nhỏ mà bất cứ em bé gái nào cũng ao ước. Bắt đầu từ chi tiết này, chiếc lược ngà bước vào câu chuyện, trở thành một chứng nhân âm thầm cho tình cha con thiêng liêng, bất tử.

Đoạn trích kết thúc trong ánh mắt thiết tha của anh Sáu trước lúc hy sinh nhờ bác Ba trao cây lược ngà cho Thu. Với bé Thu, cây lược nhỏ mang dòng chữ đầy yêu thương “yêu nhớ tặng Thu con của ba” là kỉ vật chứa đựng tình thương, nỗi nhớ, hình bóng, tấm lòng người cha. Chiếc lược ngà đã động viên em vững vàng trong cuộc chiến đấu.

Khi bác Ba tình cờ gặp lại Thu và trao cây lược, thì cô bé bướng bỉnh cá tính ngày nào đã trở thành cô giao liên dũng cảm. Và nguồn sức mạnh tiếp thêm cho Thu là tình yêu ba, tình yêu đất nước. Đến đây, những cảm nhận về nhân vật bé Thu còn cho thấy đó chính là sức mạnh của tình yêu gia đình cùng tình yêu quê hương đất nước.

Nguyễn Quang Sáng đã rất thành công trong việc xây dựng nhân vật bé Thu – một nhân vật trẻ em có tính cách cứng cỏi , mạnh mẽ , dứt khoát “đến nỗi, nhìn thoáng qua, người ta có thể cho là ương ngạnh, bướng bỉnh, khó bảo” nhưng cũng hết sức hồn nhiên, đáng yêu, ngoan ngoãn và có tình yêu cha sâu sắc. Chỉ với những chi tiết trên, cảm nhận về nhân vật bé Thu đã hiện lên thật chân thực và rõ nét.

Có thể kể đến cách tạo tình huống bất ngờ, sự am hiểu tâm lí và tính cách trẻ em, cách chọn chi tiết nghệ thuật “đắt”, điển hình như chi tiết bé Thu không gọi ba, chi tiết bé Thu loay hoay chắt nước cơm, hất cái trứng cá ba gắp cho, chi tiết cây lược mà Thu xin ba trước lúc ba đi.

Nhờ những thành công nghệ thuật này mà nhân vật bé Thu để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về tình người – tình cha con trong những năm tháng chiến tranh xa cách, thương đau; để lại ấn tượng về một em bé Nam Bộ thời chiến với tính cách đáng yêu, đáng mến.

3. Cảm nhận về bé Thu trong Chiếc lược ngà

Nhân vật bé Thu được nhà văn chú ý xây dựng với những nét vừa hồn nhiên vừa hết sức sâu sắc. Bé Thu là một đứa bé bướng bỉnh, gan lì, đáo để nhưng lại thương cha hết mực. Có thể nói, hình ảnh ông Sáu trong lòng bé Thu được bao bọc bởi sự tinh khiết, mãnh liệt, bất khả xâm phạm.

Khi gặp ông Sáu ở bến xuồng, nghe tiếng gọi tên mình, Thu “giật mình tròn mắt nhìn”. Nó ngơ ngác, lạ lùng, mặt nó bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: “má, má”.

Trong ba ngày nghỉ phép, Thu xa lánh ông Sáu trong lúc ông tìm cách vỗ về, gần gũi nhưng Thu nhất quyết không chịu gọi tiếng ba. Má dọa đánh, Thu buộc phải gọi ông Sáu vô ăn cơm, gọi chắt nước cơm nhưng lại nổi trổng. Dù bác Ba nói mẫu nhưng Thu vẫn không gọi. Bị dồn vào thế bí, nó nhăn nhó muốn khóc nhưng tự lấy rá chắt nước chứ không chịu gọi “ba”.

Xung đột đạt đến cao điểm khi bé Thu đã hất tung cái trứng cá ra mâm, cơm văng tung toé – bị đòn, không khóc, chạy sang nhà bà ngoại, cố ý khua cho dây xuồng kêu thật to.

Bé Thu thật là bướng bỉnh, cứng đầu và gan lì. Đến bác Ba cũng phải nghĩ “con bé đáo để thật”, còn ông Sáu thì không nén được: “mày cứng đầu quá vậy?”. Chính thái độ ương ngạnh, ngang bướng đó lại là biểu hiện tuyệt vời của tình cha con. Lý do nó không nhận ba thật đơn giản, trẻ con, bất ngờ mà hợp lý.

Trước khi ông Sáu trở về, ngày nào nó cũng mong nhớ. Nhiều lần chị Sáu lên thăm ông Sáu, nó muốn đi nhưng mẹ nó không cho vì đường xa nguy hiểm. Lúc biết được ông Sáu chính là cha nó, nó hối hận lắm, nằm thở dài và nghĩ đến ngày mai. Trước lúc ông Sáu lên đường, tình cha con của ông đã trở lại vào thời khắc ngắn ngủi nhất, đem lại cho người đọc nỗi xúc động nghẹn ngào nhất.

Trong cái ngày trước khi ông Sáu lên đường vào chiến khu, con bé cùng ngủ với bà ngoại. Trong đêm ấy, bà đã giảng giải cho nó nghe, phân tích cho nó hiểu. Con bé đã biết được rằng ông Sáu chính là cha mình. Nó cũng hiểu vết sẹo ghê sợ trên mặt ông là vết thương của ông trong chiến đấu. Sau khi hiểu được nguồn gốc lai lịch vết sẹo trên mặt cha, con bé lăn lộn suốt một đêm không ngủ được. Có lẽ nó hối hận lắm vì đã từng đối xử không tốt với ông. Lúc này, không chỉ yêu cha, nó còn rất thương ba nữa.

Người đọc đã chứng kiến một cuộc chia tay cảm động sáng hôm sau, trước khi cha nó lên đường Thu cũng có mặt trong buổi đưa tiễn cha nhưng lại mang tâm trạng hoàn toàn khác trước: “Nó không bướng bỉnh hay nhăn mày cau có nữa, mặt nó sầm lại buồn rầu. Khi đối diện với ông Sáu, “đôi mắt mênh mông của con bé bống xôn xao”. Người đọc cảm nhận được đằng sau đôi mắt mênh mông, xôn xao ấy đang xáo động biết bao tình cảm.

Tiếng gọi ba võ òa từ sâu thẳm trong tâm hồn bé bỏng của nó. Sự khao khát tình cha con lâu nay bị kìm nén bỗng bật lên. Bắt đầu là tiếng thét “Ba…a…a ba”. Tiếng gọi thân thương, tiếng gọi ông Sáu chờ đợi suốt hơn 7 năm ròng, cuối cùng ông cũng được nghe.

Thế rồi “nó vừa kêu vừa chạy xô tới…dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba Nó hôn khắp người ông Sáu, hôn cả vết sẹo dài trên má ông, cái vết sẹo trước kia nó ghê sợ và cảm thấy xấu xí vô cùng. Đến bây giờ, hiểu được vì sao cha có vết sẹo, Thu thương cha nó lắm. Hành động của em như muốn xoa dịu nỗi đau đã gây ra cho cha. Sau khi nghe ông Sáu nói: “Ba đi rồi ba về với con”, bé Thu thét lên: “Không!”, hai tay ôm chặt lấy cổ cha, 2 chân cấu chặt người nha. Em khóc vì thương cha, vì ân hận đã không phải với cha, vì không biết đến bao giờ mới được gặp lại cha. Lúc này tất cả hành động của Thu đều gấp gáp dồn dập, trái hẳn lúc đầu.

Trong tâm hồn cô bé, tình yêu với cha đã có sự thay đổi. Ngoài tình yêu còn có tình thương rồi cao hơn cả là niềm tự hào vô bờ bến, niềm kiêu hãnh vô cùng vì người cha chiến sĩ, người cha hy sinh tuổi thanh xuân, cống hiến cả cuộc đời cho cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Giờ đây người cha ấy lại tiếp tục đi theo con đường vinh quang mà cả dân tộc ta đang đi.

Qua nhân vật bé Thu, người đọc nhận thấy, tác giả quả rất am hiểu tâm lý trẻ em nên đã diễn tả sinh động tình cảm của bé Thu trong cuộc chia tay cha con đầy cảm động. Ông còn rất yêu thương trẻ thơ và quý trọng những cảm xúc hồn nhiên, phẩm chất anh hùng cao đẹp của tuổi trẻ.

4. Cảm nhận của em về nhân vật bé Thu trong truyện Chiếc lược ngà

Chiếc lược ngà là một trong những tác phẩm hay và nhiều xúc cảm về tình cha con trong thời chiến. Câu chuyện cha con của bé Thu và ông Sáu thực chất không hề lạ lẫm nhưng lại có màu sắc rất riêng. Nguyễn Quang Sáng đã có nhiều dụng công để phân tích nhân vật Thu, điển hình của những cô bé nhỏ nhắn nhưng có sức mạnh phi thường, tuy có chút ngang ngạnh nhưng lại nhiều chiều sâu cảm xúc, sâu sắc vô cùng.

Bé Thu là một nhân vật của văn chương nhưng bé Thu được miêu tả và hiện hữu một cách rất chân thực trong đời sống của Việt Nam ta trong những năm tháng ròng rã của chiến tranh khi đó. Thời kì đó, những em bé có hoàn cảnh như Thu là nhiều vô kể, tất cả đều do chiến tranh, khói lửa bom đạn mà ra. Chiếc lược ngà được kể lại qua sự chứng kiến của anh Ba, người đồng đội của ông Sáu. Người đã lặng lẽ dõi theo từ đầu đến cuối câu chuyện cảm động về tình cảm cha con giữa ông Sáu và bé Thu. Qua sự quan sát tinh tế, sâu sắc của anh Ba, người đọc có thể hiểu sâu sắc hơn tình cảm cha con thiêng liêng, bất tử của hai cha con ông Sáu.

Bé Thu trong câu chuyện, cũng như bao cô bé miền Nam khác đều thiếu thốn tình cha từ nhỏ do chiến tranh gian khổ và kéo dài. Khi ông Sáu ra đi, em chưa đầy một tuổi, tám năm trời, cha con em chỉ biết nhau qua hai tấm ảnh. Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến ròng rã tám năm mới về thăm nhà, thăm con. Bé Thu không nhận ra cha vì vết sẹo trên mặt làm cha không giống trong bức ảnh chụp chung với má. Tám năm đã là cả quãng đời của một đứa trẻ như Thu, tám năm trong đời không biết mặt cha, không rõ nổi hình dung, bởi vậy, việc nhận cha một cách đột ngột với Thu quá bất ngờ, không dễ dàng gì để chấp nhận. Em đối xử với ba như người xa lạ. Thu không chịu nhận ông Sáu là ba.

Bé Thu còn rất nhỏ tuổi nhưng rất có cá tính. Một cô bé tám tuổi bướng bỉnh nhưng dễ thương và đặc biệt có tình yêu ba sâu sắc, mãnh liệt. Tình yêu ấy được thể hiện trong hai hoàn cảnh trái ngược nhau, trước và sau khi nhận ra ba.

Lúc chưa chịu nhận anh Sáu là ba, phút đầu tiên hai ba con gặp mặt, trái ngược với nỗi mong nhớ, sự sốt ruột của ông Sáu, bé Thu vụt chạy đi, nét mặt đầy sợ hãi kêu “má, má” để lại anh Sáu đứng một mình “nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai cánh tay buông xuống như bị gãy”. Trong ba ngày anh Sáu ở nhà, anh không dám đi đâu vì muốn ở bên con, vỗ về, chăm sóc và bù đắp sự thiếu thốn trong tám năm qua cho nó nhưng bé Thu lại tỏ ra cứng đầu, không chịu nhận anh, cũng không chịu gọi anh một tiếng “ba” dù chỉ một lần.

Thu vẫn cố chấp với suy nghĩ riêng của bản thân. Khi má bắt kêu ba vô ăn cơm, dọa đánh để cô bé gọi ba một tiếng, Thu vẫn chỉ nói trống không “vô ăn cơm! cơm chín rồi”, “con kêu rồi mà người ta không nghe”. Hai tiếng “người ta” mà Thu thốt lên làm ông Sáu đau đớn tột cùng. Thậm chí, ngay cả khi bị má đặt vào một hoàn cảnh khó khăn để buộc Thu gọi ông Sáu một tiếng ba là chắt nước nồi cơm to đang sôi, Thu cũng lại nói trống không “cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái”. Chính thái độ ngang ngạnh , quyết liệt của bé Thu lại thể hiện sâu sắc tình cảm yêu thương dành cho ba. Đơn giản Thu không nhận ra cha là vì người tự nhận là ba kia không hề giống người cha mà em đã thấy trong bức ảnh. Ba em trong ảnh không có vết sẹo dài trên mặt như thế. Cô bé không tin, thậm chí là ngờ vực. Không ai tháo gỡ được thắc mắc thầm kín trong lòng của Thu, nghĩa là bé Thu chỉ dành tình cảm cho người cha duy nhất trong bức ảnh.

Sự nghi ngờ của Thu được giải tỏa khi nghe bà ngoại giải thích vì sao ba lại có vết thẹo dài trên má. Nghe những điều ấy, “nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Bởi thế, tình yêu ba trong Thu đã trỗi dậy mãnh liệt vào cái giây phút bất ngờ nhất, giây phút ông Sáu lên đường. Cái tiếng “ba” mà ông Sáu đã chờ đợi từ lâu bất ngờ vang lên Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng, xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay như vỡ tung từ đáy lòng nó. Đó là tiếng gọi của trái tim, của tình yêu trong lòng đứa bé tám tuổi mong chờ giây phút gặp ba không kém gì so với nỗi lòng của ông Sáu. Nó vừa kêu, vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. “Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!”. Tình cảm con với ba được thể hiện một cách mãnh liệt, mạnh mẽ, cuống quýt, hối hả và có xen lẫn phần hối hận. Đó là những cảm xúc đã dồn nén từ lâu bỗng vỡ òa ra, trong hoàn cảnh này là có chút đau đớn vì sắp phải xa ba.

Bé Thu là một cô bé rất đặc biệt, sự thể hiện tình cảm ra bên ngoài cũng rất đặc biệt, mới có 8,9 tuổi nhưng lại có chính kiến rất rõ ràng, rất chín chắn và chững chạc so với lứa tuổi. Tình cảm cha con của ông Sáu được bùng nổ mạnh mẽ từ những cảm xúc của Thu. Tình cha con cao đẹp, thiêng liêng và bất diệt.

5. Cảm nhận nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà

Nguyễn Quang Sáng viết truyện ngắn Chiếc lược ngà năm 1966, khi cuộc chiến chống Mĩ cứu nước ở miền Nam đang trong thời kì ác liệt nhất. Truyện được viết dựa trên một câu chuyện mà nhà văn đã nghe kể lại. Tác phẩm ra đời cỗ vũ mạnh mẽ cho phong trào đấu tranh chống giặc của quân và dân miền Nam.

Truyện ngắn Chiếc Lược Ngà của Nguyễn Quang Sáng đã gây ấn tượng vào lòng các bạn đọc vì tác giả xây dựng hình ảnh bé Thu đáng yêu với tình yêu ba tha thiết. Câu chuyện được xây dựng với nhiều tình tiết cảm động, lôi cuốn người đọc: Khi ông Sáu đi kháng chiến chống Pháp lúc đó bé Thu chưa đầy một tuổi. Khi anh có dịp về thăm nhà thì con gái anh đã lên 8 tuổi,

Nhưng bé Thu nhất quyết không chịu gọi ông Sáu là ba vì vết sẹo trên má của ông Sáu không giống với bức ảnh chụp chung với má bé Thu. Ông Sáu dùng mọi cách để gần gũi nhưng bé Thu cũng không chịu gọi là ba. Đến khi bé Thu nhận ra ba mình thì lúc đấy ông Sáu phải đi. Ông Sáu hứa sẽ mang về tặng chiếc lược ngà cho con. Chiếc lược ngà đã làm xong nhưng chưa kịp trao tận tay cho con mà anh đã hi sinh, trước khi nhắm mắt anh nhờ người bạn chuyển lại chiếc lược ngà cho con gái .

Nhân vật bé Thu chỉ mới 8 tuổi, là một cô bé giàu cá tính, bướng bỉnh. Bé Thu gây ấn tượng cho người đọc về một cô bé lì lợm khi trong mọi tình huống em nhất quyết cũng không gọi tiếng ba, hay khi hất cái trứng mà ông Sáu gắp cho bé Thu , cuối cùng ông Sáu tức giận đánh một cái thì bỏ về nhà ngoại. Tác giả Nguyễn Quang Sáng đã khéo léo xây dựng nhiều thử thách cá tính của bé Thu, dù là bị mẹ quơ đũa đánh hay bị dồn vào thế bí, bé Thu luôn bộc lộ là người kiên quyết, mạnh mẽ. Trong tâm trí bé Thu chỉ có hình ảnh một người ba là người chụp chung với má . Người ba ấy không giống ông Sáu bởi vì trên má ông Sáu có vết sẹo là dấu tích của chiến tranh để lại , bé Thu còn quá nhỏ để có thể biết sự khốc liệt của chiến tranh, bom đạn và sự khắc nghiệt của cuộc sống người chiến sĩ .

Nhưng bé Thu có bướng bỉnh, gan góc đi chăng nữa thì cũng chỉ là một cô bé 8 tuổi, tâm hồn còn rất trong sáng và hồn nhiên . Nhà văn tỏ ra rất am hiểu tâm lý trẻ thơ nên miêu tả rất chân thực và sinh động. Khi bị ba đánh, bé Thu đã gắp lại trứng vào mâm rồi lặng lẽ bước ra , có lẽ là do bé Thu đã cảm thấy mình sai. Rồi còn những hành động như: “Xuống xuồng , mở lòi tói, cố làm dây khua thật to rồi lấy dầm bơi qua sông”. Bé Thu bỏ đi lúc bữa cơm rồi cố gây tiếng động để gây sự chú ý để mọi người ra dỗ dành bé. Điều đó cho thấy bé Thu dù bướng bỉnh cứng cỏi nhưng một khía cạnh nào đó bé vẫn muốn được sự dỗ dành, vỗ về từ mọi người .

Ở đoạn cuối khi bé Thu nhận ra ba thì cho thấy bé Thu là một người rất giàu tình cảm và tình yêu ba sâu sắc. Tình cha con trong Thu giữ gìn bấy lâu nay trỗi dậy vào giây phút mà cha con phải tạm biệt nhau. Có ai ngờ là một cô bé không được ở cùng với cha khi một tuổi mà vẫn luôn thể hiện một tình yêu bền bỉ và mãnh liệt đối với cha mình, dù người cha ấy chưa từng săn sóc , chăm lo cho nó. Và khi ba nó chào trước khi đi, có cảm giác mọi tình cảm trong lòng bé Thu trào lên. Bé Thu không nén nỗi cảm xúc mà thét lên tiếng “Ba ..” vừa kêu vừa chạy xô đến ông Sáu và ôm ông Sáu khiến cho người đọc không thể nào không cảm động với tình cha con ấy. Tiếng ba ấy không chỉ khiến ông Sáu bật khóc mà còn mang một giá trị thiêng liêng trong nó.

Trong quá trình thể hiện diễn biến tâm lí nhân vật bé Thu có một chi tiết vô cùng quan trọng chính là vết sẹo. Chính cái sẹo là nguyên nhân gây ra những hiểu lầm trong tình cảm của cha con mà Thu dành cho ba. Vì cái sẹo là vết thương mà giặc Mĩ gây ra cho ba Thu. Sự chia cắt gia đình không chỉ riêng gia đình bé Thu mà còn hàng triệu gia đình người Việt cũng là do giặc Mĩ gây ra. Sau này, Thu đã trở thành một nữ giao liên dũng cảm, can đảm. Cô đã quyết tâm tiếp bước con đường cha cô đã đi để đánh đuổi kẻ thù của dân tộc.

Nhân vật bé Thu trong Chiếc Lược Ngà của Nguyễn Quang Sáng đã gây ấn tượng cho người đọc một cách sâu sắc với hình ảnh một bé gái bướng bỉnh nhưng giàu tình cảm . Tác phẩm còn là một áng văn ca ngợi tình phụ tử giản dị mà thiêng liêng.

6. Suy nghĩ của em về nhân vật bé Thu

Đọc truyện “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng, bé Thu hiện lên trước mắt ta rất hồn nhiên, bướng bỉnh, ương ngạnh nhưng rất đáng yêu. Lớn lên Thu còn lại một cô gái giao liên dũng cảm, gan dạ, có nhiều kinh nghiệm trong công tác, có ý chí quật cường, dũng cảm trước quân thù. Không những thế Thu còn là một cô gái hiếu thảo, yêu cha mẹ hết lòng.

Trước hết Thu là đứa trẻ tinh nghịch, tính tình rất ương bướng. Sau bao năm gặp lại cha mình, nó không nhận ra cha nó, nó cứ nghĩ: Không phải ba! Ba không giống cái hình ba chụp với má, mặt ba đâu có cái thẹo như vậy… Những ý nghĩ đó cứ xoáy sâu vào tâm trí nó khiến con bé mới tám tuổi đầu đã phải đau khổ, phải tức giận. Nó yêu ba nó lắm cơ mà! Nó mong ba nó về tùng ngày từng giờ. Vậy mà tất cả đều lật ngược lại với nó: Ba nó thật đây, sao nó không nhận? Tại sao nó lại coi ba nó như người xa lạ? Tất cả sự vỏ vế của người cha đều bị nó gạt đi: Suốt ngày ông chẳng đi đâu xa, lúc nào cũng vồ về con. Nhưng càng vỗ về con bé càng đẩy ra. Nó chẳng bao giờ gọi người ấy một tiếng bằng ba. Đã vậy nó còn nói trống không: Cơm sôi rồi, chắt nước giùm đi!…, Vô ăn cơm…

Ôi! Sao Thu lại bồng bột thế nhỉ? Cái bồng bột của tuổi thơ ngây ấy chúng ta không nên trách làm gì cả. Ba Thu thật đấy! Tại sao Thu lại không nhận? Tuy vậy cái ương ngạnh của Thu rất có lí, vì Thu nghi ngờ, sự nghi ngờ bất bình rất trẻ con mà cùng rất đáng thương. Điều khiến chúng ta phải chú ý và cảm phục cô bé nhiều hơn vì Thu có trí thông minh tuyệt vời Nó đã kịp nhận ra ba nó, kịp nhận ra lỗi lầm và ân hận vô cùng. Nó hối hận vì trong ba ngày qua, một thời gian ngắn ngủi là vậy thế mà nó đã đối xử bao điều không đúng với ba nó. Đó cũng là lúc nó chợt hiểu rằng: ba khác xưa không phải là ba già đi, ấy là do vết thương mà cuộc chiến tranh tàn khốc đả gây ra… Có lẽ lúc này từ một đứa con nít, nó đã trở thành một người lớn thực sự. Nó cảm thấy lòng hận thù lù giặc đang trào dâng trong lòng nó. Điều này khiến nó phải nằm im lăn lộn và thớ dài. Tất cả sự hờn dỗi của bé Thu lúc này đều chuyển thành lòng thương yêu sâu sắc cha nó. Trong cái ương ngạnh bướng bỉnh, trong cái giận dỗi và cả sự hối hận của Thu, ta vẫn thấy bé thật ngây thơ, thật đáng yêu.

Khi ba nó chuẩn bị lên đường làm nhiệm vụ, lúc đó tình cha con bỗng trỗi dậy trong người. Nó bỗng kêu thất thanh: “Ba”. Tiếng kêu của nó như xé ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Tiếng “Ba” nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay đang vỡ tung từ đáy lòng nó… Tất cả lời nói, hành động của Thu thể hiện rất rõ tính cách của một cô bé bồng bột, thơ ngây và chứng tỏ lòng yêu thương vô bờ của em đối với ba. Thật sâu sắc và cao đẹp biết bao tình cảm của Thu.

Giờ đây Thu không còn là cô bé của ngày xưa nữa, mà là một cô gái đang gánh những trách nhiệm nặng nề: là cô giao liên cho một tuyến đường dây hoạt động bí mật của ta. Thu đã đi con đường mà ba Thu đã chọn. Thu đã di để trả thù cho ba cô bị bọn giặc giết hại. Bé Thu ngày xưa gan lì bướng bỉnh, đáng yêu bây giờ đã là cô giao liên thông minh, bình tĩnh và dùng cảm biết nhường nào. Hình ảnh cô giao liên Thu còn đọng mãi trong em không bao giờ phai mờ. Trước hết, ta thấy Thu rất tự tin và hiểu tâm trạng của mọi người. Mọi người thất thanh kêu “Máy bay”, Thu trả lời: Không phải đâu, sao trên trời đó mà… Và cùng một lần nhờ sự thông minh, lanh lợi mà cô đã đưa được khách qua sông một cách an toàn và còn diệt được mấy tên địch khi chẳng may lọt vào ổ phục kích của quân thù. Điều này khiến ta càng khâm phục Thu hơn vì cô đã chọn được con đường đúng đắn mà đi.

Chúng ta thấy xúc động bồi hồi trong lòng biết bao nhiêu khi Thu nhận được chiếc lược ngà mà người cha yêu quý nhất đã tự tay mình làm và gửi tặng cho con gái. Ta thấy cảm động vô cùng khi niềm hạnh phúc lớn ấy đang trào dâng trong lòng cô. Trông cô rất tội nghiệp và đáng thương như ngày nào còn thơ dại: Đôi mắt của cháu lại tròn to hơn, xúc động đến thẫn thờ… Cây lược như đánh thức kỉ niệm ngày chia tay (…) Cháu còn muốn nói gì nữa nhưng giọng bị tắc nghẹn… Đó là hình ảnh sâu đậm nhất trong tôi về Thu khi gấp trang sách lại.

Càng đọc tác phẩm “Chiếc lược ngà” ta càng như phát hiện được một hình ảnh Thu mỗi ngày một mới, đẹp hơn lên. Tình cha con sâu nặng, lòng dũng cảm, kim cương, sự gan dạ, khôn kéo, thông minh ở cô giao liên Thu – đứa con của người chiến sĩ cách mạng, mãi mãi sống trong lòng tôi, mãi mãi là tấm gương cho mọi thế hệ học tập.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Tài liệu của Tmdl.edu.vn.

Bạn có thể tải về tập tin thích hợp cho bạn tại các liên kết dưới đây.

Trang chủ: tmdl.edu.vn
Danh mục bài: Văn Học

Lương Sinh

Lương Sinh là một tác giả đầy nhiệt huyết trong lĩnh vực giáo dục, ngoại ngữ và kiến thức. Với hơn 10 năm kinh nghiệm làm việc trong ngành, cô đã tích lũy được rất nhiều kiến thức và kỹ năng quan trọng. Với tình yêu với ngôn ngữ và mong muốn chia sẻ kiến thức, Lương Sinh đã quyết định sáng lập blog tmdl.edu.vn. Trang web này không chỉ là nơi chia sẻ những kinh nghiệm và kiến thức cá nhân của cô, mà còn là một nguồn thông tin hữu ích cho những người quan tâm đến giáo dục, kiến thức và ngoại ngữ. Đặc biệt là tiếng Anh và tiếng Trung Quốc.
Back to top button