Bài văn mẫu Phân tích nhân vật viên quản ngục trong Chữ người tử tù Văn 11 tuyển chọn, hay nhất sẽ giúp các em học trò đưa ra các lập luận, phép tắc xác thực và ý nghĩa nhất để hoàn thành xuất sắc bài viết của mình.
Bài văn mẫu số 1: Phân tích nhân vật viên quản ngục trong Chữ người tử tù
Nguyên Tuân viết truyện “Chữ người tử tù” năm 1939 đăng trên tạp chí “Tao Đàn”, năm 1940, in trong tác phẩm “Vang bóng một thời”. Đoản thiên tiểu thuyêt này có khoảng 2800 chữ, xứng đáng là một tờ mây, trang hoa thực thụ.
Xuất hiện kế bên Huấn Cao – tử tù cho chữ, là nhân vật quản ngục – người xin chữ, hai nhân vật đó đã được Nguyễn Tuân mô tả một cách rực rỡ, đầy ấh tượng.
Ngục quan có một ngoại hình ưa nhìn xinh đẹp. Đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu. Khuôn mặt tư lự, nhăn nheo, có một đời sống nội tâm thâm thúy, cả nghĩ. Sau lúc nhân được phiến trát của Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường về chuyện nhận sáu tên tử tù, trong đó có Huấn Cao “người đứng đầu bọn phản nghịch” lại “có tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp”, ngục quan đăm chiêu “nghĩ ngợi”. Hình ảnh ngục quan thao thức giữa đêm khuya lúc đĩa dầu sở đã “vợi lần mực dầu”, lúc đầu thì “tư hỉ” càng vể khuya thì trên mặt ông “chỉ còn là mặt nước ao xuân, bình lặng, kín đáo và êm nhẹ”. Viộc nhận tù sắp tới đã gây ra nhiêu xao động gớm ghê trong tâm tư vị ngục quan này. Ông là một người từng trải, có “tính cách dịu dàng” khác hẳn với những kẻ “sống bằng tàn nhẫn bằng lừa lọc” trong chốn đề lao.
Quản ngục ko phải là một hung thần với đôi bàn tay vấy máu. Ông cũng là một nhà nho “biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền” có nhiểu đức tính tốt. Kín đáo và thận trọng trong cử chỉ, tiếng nói. Cách hỏi dò viên thư lại vể tử tù: ‘Tôi nghe ngờ ngợ. Huấn Cao!..”. Qua câu nói của viên thư lại, ông nghĩ: “Có nhẽ lão bát này cũng là một người khá đây (…). Một kẻ biết kính mến khí phách, một kẻ biết tiếc, biết trọng người có tài, hẳn ko phải là kẻ xấu hay là vô tình”. Ngục quan muốn “biệt đãi” Huấn Cao, nhưng vẫn sợ viên thư lại “tố giác”, nên ông rất cảnh giác, thận trọng: “Để mai ta dò ý tứ hắn lần nữa xem sao rồi sẽ liệu”.
Làm quản ngục có thể thét ra lửa, bộ hạ tay chân là bọn côn đồ “lũ quay quắt”, “tàn nhẫn”, “lừa lọc”, nhưng ông ta lại khác thường. Tính cách thì “dịu dàng”. Tấm lòng thì nhân hậu bao dung “biết giá người, biết trọng người ngay”. Lúc nhận tù, ngục quan thật đáng trọng, với “cặp mắt hiền lành”, với “lòng kiêng nể” được giữ kín đáo, lại còn có “biệt nhỡn đối riêng với Huấn Cao”. Trước thái độ nhâng nháo, hống hách, tàn nhản của bọn lính ngục, ông ta chỉ nhẹ nhõm nhưng nghiêm trang nói: “Việc quan, ta có phép nước. Các chú chớ nhiều lời”.
Văn học lãng mạn thòi tiền chiến thường sử dụng thủ pháp tương phản đối lập để làm nổi trội nghịch lí của hoàn cảnh, thảm kịch của số phận. Nguyễn Tuân cũng vậy, qua cảnh nhận tù, đã tương phản giữa ngục quan và lũ lính ngục, đối lập “cái tinh khiết” với “đống cặn bã”, “người có tâm điền tốt” với “lũ quay quắt”. Qua đó làm nổi trội tư cách tốt đẹp của quản ngục, khác nào “một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn nhưng nhạc luật đêu hỗn loạn xô bồ”.
Mọi cái tốt đẹp (cả cái xấu xa nữa) đều được bộc lộ ở hành động. Đã nửa tháng tử tù Huấn Cao sống trong trại giam đã được “biệt đãi” như một thượng khách. Trước mỗi bữa cơm tù, Huấn Cao được “dâng rượu với thức nhắm” đó là “quà mọn” nhưng quản ngục “biếu” tử tù dùng cho “ấm bụng”. Sự “biệt đãi” đó đã trình bày thái độ tâm phục, ” lòng biết giá người, trọng người ngay” của ngục quan đối với Huấn Cao.
Xưa nay, bậc quân tử lấy chữ lẽ trong giao tiếp, tự biết mình và biết người trong quan hệ. Tiếp cận với tử tù, quản ngục thật tâm ngỏ ý: “… Ngài có cần thêm gì nữa xin cho biết. Tôi sẽ phấn đấu chu tất..”. Ngục quan liền bị tử tù nạng lời, khinh bạc xua đuổi: Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. “Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Trước tình huống đó, người nắm quyền uy trong tay rất tĩnh tâm. Ko nổi trận lôi đình để trả thù. Ko giở trò tiểu nhân thị uy. Ngục quan chỉ lui ra lễ phép với một câu: “Xin lĩnh ý”, Huấn Cao và năm đồng chí của ông vẫn được “biệt đãi”, cơm rượu lại có phần “hậu hơn trước”. Vì sao ngục quan lại xử sự như thế? về vị thế, ông ta chỉ tự coi mình là “là kẻ tiểu lại giữ tù”, còn Huấn Cao là một người hùng tài tử “chọc trời quấy nước”, nổi danh trong người đời về cái tài “viết chữ rất nhanh và rất đẹp”. Vả lại, quản ngục còn hi vọng chờ cho Huấn Cao “dịu bớt tính nết” để xin chữ. Nếu được tử tù cho chữ thì ông ta “toại nguyện”. Qua đó, Nguyễn Tuân đã làm nổi trội bao phẩm chất của ngục quan: tĩnh tâm, lễ phép, nhẫn nhục. Quản ngục đã lấy câu châm ngôn của cổ nhân để xử sự: “Tiểu bất nhẫn bất thành đại sự”. Ngục quản ko “lớn” vì uy quyền nhưng “đẹp” lở tư cách, ở tâm thế của một kẻ sĩ “biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền”.
Ngục quan có một tâm hồn trong sáng thanh cao, biết trọng người tài, rất thích thú cái đẹp. Mặc dù đã “chọn nhầm nghẹ”, nhưng thiết nghĩ trên cõi đời này đã có chúa ngục nào có “cái sở nguyện” cao quý như ông? Cái ước ao của ông thật là thanh cao, thật là sang trọng. Ông ước ao là có một ngày nào đó “được treo ở nhà riêng mình một vài câu đối do tay ông Huấn Cao viết”. Ông say mê, ông khát khao vì “chữ Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm”. Với quản ngục thì có vinh hạnh nào hơn nếu “có được chữ ông Huấn Cao nhưng treo, là có một háu vật trên đời”. Vì thế, lúc chưa xin được chữ Huấn Cao thì ngục quan sống trong tâm trạng đầy thảm kịch. Nỗi “khổ tâm” của ông là có một ông Huấn Cao trong tay mình, dưới quyền mình nhưng ko dám “giáp lại mặt” vì ông cảm thấy tư cách tử tù “xa cách ông nhiều quá!”. Hơn thế nữa, ông càng “khổ tâm” lo lắng, mai mốt đây, Huấn Cao bị hành quyết nhưng ko kịp xin được mấy chữ thì ông “hối hận suốt đời”. Có thể nói, đó là một thảm kịch cao quý được Nguyễn Tuân cảm nhận ở phương diện văn hoá nghệ thuật.
Trước lúc ra pháp trường, qua lời viên thư lại, Huấn Cao thấu hiểu nỗi lòng của quản ngục, đã nói: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây nhưng lại cố những thị hiếu cao quý tương tự. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong người đời”. Tư cách văn hoá cao quý của ngục quan đã làm Huấn Cao xúc động và quý trọng. Cảnh cho chữ diễn ra trong phòng giam tử tù là sự kì ngộ giữa khách người hùng tài tử với kẻ biệt nhỡn liên tài. Trước cái đẹp của thư pháp, ngục quan đã trở thành tri kỉ, tri kỉ của tử tù. Ngục quan “khúm núm” cất những đồng tiền kẽm ghi lại trên ô chữ… Ngục quan lắng tai lời khuyên của tử tù “nên lui về quê nhà” để giữ lấy thiên lương rồi hãy “nghĩ tới chuyện chơi chữ… Ngục quan vái tử tù một vái và nói qua dòng nước mắt: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Tất cả đã trình bày vẻ đẹp tâm hổn của ngục quan dưới ánh sáng của thư pháp và thiên lương.
Cảnh xin chữ trong “Chữ người tử tù” thật cảm động. Hình ảnh quản ngục là một trong những thành công của Nguyễn Tuân trong nghệ thuật mô tả và xây dựng nhân vật ở phương diện tài hoa lạ mắt của nghệ sĩ bậc thầy. Yêu cái đẹp với tấm lòng biệt nhỡn liên tài là tâm hồn tính cách của ngục quan. Từ ngoại hình, tiếng nói, tâm tư tình cảm tới cử chỉ, hành động của ngục quan đã được Nguyễn Tuân mô tả với tất cả sự gạn lọc của một ngòi bút tài hoa, đã làm hiện lên một con người có cốt cách rất đẹp: “Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”.
Có thể nói, nhân vật quản ngục là con người có sở nguyện cao quý “con người thức tỉnh”, con người “vang bóng” trong “Vang bóng một thời”.
Bài văn mẫu số 2: Phân tích nhân vật viên quản ngục trong Chữ người tử tù
Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân, kế bên nhân vật Huấn Cao, ta còn thấy hiện lên nhân vật quản ngục biết trọng người và biết quý người thẳng thắn, viên quản ngục là một thanh âm trong trẻo chen giữa bản đàn nhưng nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ. Nhân vật đã được Nguyễn Tuân khắc họa vô cùng rực rỡ, đầy ấn tượng.
Quản ngục là một người đã lớn tuổi, đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu. Khuôn mặt luôn tự lự, nhăn nheo chứng tỏ ông có một đời sống nội tâm thâm thúy, phong phú. Sau lúc thu được phiến trát gửi về, trong sáu tên tử tù có ông Huấn Cao, người nhưng ông hằng ngưỡng mộ về tài viết chữ đẹp, điều đó làm ông vô cùng băn khoăn, nghĩ ngợi.
Quản ngục là người có số phận thảm kịch. Ông là người “tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay” “là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn nhưng nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”. Nhưng tính cách đó, con người đó lại bị đặt trong hoàn cảnh đề lao chỉ có lừa dối, tàn nhẫn. Hoàn cảnh sống và phẩm chất của nhân vật hoàn toàn trái ngược nhau: quản ngục tâm điền tốt và thẳng thắn nhưng lại phải ăn ở đời đời kiếp kiếp, kiếp kiếp với một lũ cặn bã. Đó chính là thảm kịch của cuộc đời ông.
Sống trong hoàn cảnh đó, nhưng quản ngục vẫn giữ được cho mình một tâm hồn và cốt cách cao đẹp. Thu được phiến trát, biết được trong số tử tù có Huấn Cao điều đó đã làm ông suy nghĩ cả đêm, việc nhận tù sắp tới gây xáo động lớn trong tâm từ của ông: khuôn mặt “tư lự” dần thay thế bằng “mặt nước ao xuân, bình lặng, kín đáo và êm nhẹ”. Có phải chăng trong đêm thanh vắng đó, ông đã suy nghĩ, đã đề bạt để quyết định sẽ có biệt đãi riêng với người tư tù mang tên Huấn Cao này, cũng bởi vậy từ khuôn mặt tư lự, lo lắng chuyển sang sự thanh thản, bình lặng.
Niềm say mê nghệ thuật, lòng trân trọng người tài chính là yếu tố đã khiến ông quyết định biệt đãi với Huấn Cao. Nhưng đi tới quyết định này, chính bản thân quản ngục cũng phải đương đầu với nguy hiểm. Nhưng bằng tình yêu cái đẹp, bằng khí phách của chính mình viên quản ngục vẫn quyết định biệt đãi với Huấn Cao. Biệt đãi Huấn Cao, quản ngục cũng mang trong mình niềm hi vọng sẽ xin được chữ của ông, nhưng đó chỉ là hi vọng mỏng manh, bởi tính ông Huấn vốn khoảnh, điều này quản ngục hiểu rất rõ. Ngày cả lúc đem tất cả dũng khí vào gặp Huấn Cao, thu được thái độ khinh thường từ Huấn Cao, nhưng quản ngục chỉ lễ phép lui ra và nói: “Xin lĩnh ý” và mọi sự biệt đãi vẫn diễn ra như cũ. Hành động đó, cử chỉ nhún nhường đó là cả tấm lòng của quản ngục dành cho Huấn Cao, cũng chính ông đã tự bộc bạch: “những người chọc trời quấy nước, tới trên đầu người ta, người ta cũng còn chẳng biết có người nào nữa, huống chi cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù”. Sự biệt đã và thái độ nhún nhường đó cho hấy thái độ tâm phục, lòng biết giá người và trọng người ngay của quản ngục với Huấn Cao.
Trong những ngày Huấn Cao dưới sự cải quản của mình, quản ngục còn mang trong mình hi vọng: ông Huấn sẽ dịu bớt tính nết lúc đó ông sẽ xin ông Huấn chữ lên chữ lần lụa vuông vắn, trăng tinh đã được ông sẵn sàng từ lâu. Nếu được Huấn Cao cho chữ thì cả đời này của ông coi như đã thỏa ý, đã toại nguyện. Điều ông đau lòng nhất là ông Huấn dưới quyền mình nhưng chẳng biết làm cách nào để có thể xin chữ. Ông sợ rồi đây ông Huấn bị giải đi thì ông sẽ hối hận cả đời.
Ngày thu được công văn, quản ngục “tái nhợt người đi”, nốt đêm nay thôi, ngày mai ông Huấn Cao đã bị giải đi để hành quyết, vậy là sở nguyện xin chữ của ông có nhẽ sẽ mãi mãi ko thể thực hiện. Nhưng kế bên ông còn có một thầy thư lại cũng mang trong mình tấm lòng biệt nhỡn liên tài, nghe lời tâm tình của quản ngục, thầy thư lại đã tìm ông Huấn và kể về nỗi lòng sâu kín của quản ngục. Huấn Cao thấu hiểu nỗi lòng viên quản ngục: “Ta cảm cái tầm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Nào ta có biết đâu một người như thầy Quản đây nhưng lại có những thị hiếu cao quý tương tự. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong người đời”. Chính tư cách, phẩm chất của viên quản ngục đã làm cho Huấn Cao cảm phục và xúc động. “Cảnh cho chữ diễn ra trong phòng giam tử tù và sự kì ngộ giữa khách người hùng tài tử với kẻ biệt nhỡn liên tài”. Trong ko gian nhà tù tối tăm, ẩm thấp, chật hẹp đã diễn ra cảnh cho chữ chưa từng có. Tấm lụa bạch trắng còn nguyên vẹn lần hồ, những đồng tiền kẽm ghi lại ô, mùi mực thơm đều đã được viên quản ngục thận trọng sẵn sàng với tất cả lòng thành kính. Dưới ánh đuốc tỏa ra đỏ rực, ba chiếc đầu chụm lại chuyên chú từng nét chữ người tù đang viết. Mỗi chữ Huấn Cao viết xong, viên quản ngục đều “khúm núm cất những đồng tiền kẽm ghi lại ô chữ” thầy thư lại “run run bưng chậu mực”. Trên lần lụa trắng, những nét chữ được viết ra, viên quản ngục lắng tai lời khuyên thật tâm của tử tù, lui về quê nhà, bỏ nghề để giữ vững thiên lương trong sạch của mình. Cảm về tài năng, cảm về tư cách, viên quản ngục vội vái người tù một vái, trong hàng nước mắt nói: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Ông tự nhận mình là kẻ mê muội, bao lâu nay sống trong cảnh đề lao, thiếu chút nữa đã làm hoen ố tư cách và thiên lương của chính mình. Nhờ có ánh sáng của cái đẹp, của tư cách Huấn Cao, quản ngục mới được khai sáng, mới có thể sống nốt phần đời còn lại trong sự thanh vắng, trong sạch.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc trưng, đặt nhân vật vào tình huống gặp mặt lạ mắt, liên kết với nghệ thuật phóng đại, phóng đại, tương phản giúp bộc lộ tính cách nhân vật. Nhân vật được khắc họa thiên về chiều sâu tâm lí trình bày qua các lời độc thoại nội tâm.
Bằng nghệ thuật khắc họa nhân vật rực rỡ, lạ mắt, Nguyễn Tuân đã vẽ lên chân dung của một quản ngục thật đẹp tươi, cao cả về tư cách. Đồng thời ông cũng cho thấy trong mỗi một con người luôn có một phần con người nghệ sĩ, tâm hồn yêu cái đẹp, trọng cái tài.
Bài văn mẫu số 3: Phân tích nhân vật viên quản ngục trong Chữ người tử tù
Nguyễn Tuân – nhà văn suốt một đời đi tìm cái đẹp. Trước cách mệnh tháng Tám nhân vật trong trang văn của đều là những người hiện thân của cái đẹp. Chắc hẳn chúng ta không thể quên một ông Huấn Cao tài hoa tài tình, thiên lương cao đẹp nhưng quả cảm, quật cường. Không những thế nhân vật viên quản ngục được tác giả khắc họa là một người trọng nghĩa khí, biết yêu và trân trọng cái đẹp càng làm nổi trội lên tư cách cao đẹp của nhà văn.
Xét về địa vị xã hội viên quản ngục là người đại cho quyền lực, pháp luật của triều đình và đại diện cho cái xấu cái ác lúc bấy giờ. Tuy nhiên xét về phương diện nghệ thuật ông lại là người ham mê, thích thú cái đẹp và say đắm nét chữ của Huấn Cao vô cùng.
Viên quản ngục là một người có tâm hồn nghệ sĩ biết yêu và trân trọng cái đẹp. Điều đó được trình bày trước tiên là ở thị hiếu chơi chữ. Xưa nay lúc nhắc quan lại sức ta thường nghĩ ngay tới những tên “đầu trâu mặt ngựa” hống hách, thị uy chứ nào người nào biết vẫn có một viên quan có tâm hồn nghệ sĩ với thú chơi tao nhã như viên quản ngục. Ông say mê điều đó vô cùng, ông luôn khát khao có được chữ ông Huấn treo trong nhà riêng của mình bởi “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm”, ông coi đó là một vật báu trên đời. Sở nguyện đó còn được trình bày ở tâm trạng hồ hởi vui tươi của ông lúc biết tin trong số tội nhân được dẫn giải về có Huấn Cao. Ông vừa băn khoăn ko biết làm thế nào để xin được chữ ông Huấn, vừa tiếc nuối vô cùng cho người tài nhưng lại chịu cảnh ngục tù đao phủ cũng vừa day dứt khổ tâm lúc sở nguyện chưa thành. Ông chỉ lo rồi đây ông Huấn bị hành quyết nhưng chưa kịp xin chữ thì thật đáng tiếc và hối hận suốt đời. Nguyễn Tuân đã nhìn nhận nét đẹp tư cách của nhân vật ở phương diện văn học nghệ thuật thật thâm thúy và đáng trân trọng.
Viên quản ngục là người có con mắt tinh tường biết nhìn nhận và thẩm định người tài năng đồng thời cũng là người có tấm lòng biệt nhỡn liên tài. Trong phần hội thoại với thầy thư lại ông một thể hiện sự thành kính thật tâm của mình đối với Huấn Cao. Hằng ngày biệt đãi ông Huấn và những người bạn tù bằng rượu thịt thơm ngon. Lúc bị Huấn Cao khinh miệt, khinh thường ông ko hề trách móc tức giận hay tìm cách trả thù nhưng vô cùng kính cẩn, lễ phép và thấu hiểu “Những người chọc trời quấy nước, tới trên đầu người ta, người ta cũng chẳng biết có người nào nữa, huống chi cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù”. Quả là một viên quan có tấm lòng đáng kính.
Ông còn là người có thiên lương trong sáng, biết cúi mình trước cái đẹp. Trong buổi tối đêm trước nhất lúc Huấn cao ở trong ngục ông băn khoăn, trằn trọc suy nghĩ về cái nghề của mình với “khuôn mặt suy tư lự” vì “chọn nhầm nghề mất rồi”. Nguyễn Tuân đã nhận xét viên coi ngục là “một âm thanh trong trẻo chen vào giữa một bản đàn nhưng nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”. Lúc được Huấn Cao đồng ý cho chữ ông vô cùng hạnh phúc. Ông cúi mình trước cái đẹp trình bày trong tư thế, tâm thế lúc nhận chữ trong ko gian u tối, dơ bẩn chốn ngục tù. Viên quản ngục “khúm núm cất những đồng tiền kẽm ghi lại ô chữ trên mặt phiến lụa óng”. Cái khúm núm đó ko phải là hèn kém nhưng càng tôn lên sự thanh cao cuả một tư cách đẹp tươi. Đặc thù lúc được Huấn Cao cho lời khuyên để giữ được thiên lương thì hãy thoát khỏi cái nghề này đi thì cảm động vái người tù và rỉ nước mắt vào kẽ mồm thốt lên lời thật tâm “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” cho thấy thiên lương trong sáng của viên quan coi ngục đáng được trân trọng ở “Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc”.
Với tài năng liên kết hài hòa giữa văn pháp lãng mạn và tả thực. Tiếng nói nghệ thuật sinh động có sử dụng từ Hán Việt xen lẫn từ thuần Nôm, những câu văn chừng mực, nhẹ nhõm sâu lắng đã khắc họa được hình tượng nhân vật viên quản ngục trọng nghĩa trọng tài để sánh ngang với ông Huấn quả cảm tài hoa, làm nên những hình tượng nhân vật hiện thân cho cái đẹp của “một thời vang bóng” trong trang văn Nguyễn Tuân.
Qua nhân vật viên quản ngục cho ta thêm bài học về cách nhìn nhận, quan niệm về con người. Trong mỗi chúng ta luôn có một tâm hồn nghệ sĩ biết yêu cái đẹp và trân trọng người tài, ko phải người nào cũng xấu, kế bên những con người chưa tốt vẫn có những tấm lòng cao cả, thiên lương trong sáng. Điều đó cũng cho thấy quan niệm mới mẻ về nghệ thuật là cái đẹp có thể phát sinh trong môi trường cái xấu cái ác nhưng ko vì thế nhưng nó lụi tàn, trái lại càng bừng sáng rực rỡ và mang ý nghĩa nhân văn cao đẹp.
Bài văn mẫu số 4: Phân tích nhân vật viên quản ngục trong Chữ người tử tù
Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc, tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quản ngục này là một âm thanh trong trẻo chen giữa một bản đàn nhưng nhạc luật đều hỗn loan xô bồ.
Nguyễn Tuân viết truyện Chữ người tử tù năm 1939 đăng trên tạp chí Tao Đàn, năm 1940, in trong tác phẩm Vang bóng một thời. Đoản thiên tiểu thuyết này có khoảng 2800 chữ, xứng đáng là một tờ mây, trang hoa thực thụ.
Kế bên Huấn Cao — tử tù cho chữ, là nhân vật viên quản ngục — người xin chữ đã được Nguyễn Tuân mô tả một cách rực rỡ, đầy ấn tượng.
Ngục quan có một ngoại hình ưa nhìn. Đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu. Khuôn mặt tư lự, nhăn nheo, có một đời sống nội tâm thâm thúy, cả nghĩ. Sau lúc thu được phiến trát của Sơn Hưng Tuyên Đốc bộ đường về chuyện nhận sáu tên tử tù, trong đó có Huấn Cao, người đứng đầu bọn phản nghịch lại có tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp đã làm cho ngục quan nghĩ ngợi. Hình ảnh ngục quan thao thức giữa đêm khuya lúc đĩa đầu sở đã vợi lần mực dầu, lúc đầu thì tư lự, càng về khuya thì trên mặt ông chỉ còn là mặt nước ao xuân, bình lặng, kín đáo và êm nhẹ. Việc nhận tù sắp tới đã gây ra nhiều xáo động gớm ghê trong tâm tư vị ngục quan này. Ông là một con người từng trãi, có tính cách dịu dàng khác hẳn với những kẻ sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc trong chốn đề lao.
Quản ngục ko phải là một hung thần với bàn tay vấy máu. Ông cũng là một nhà Nho biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền có nhiều đức độ. Kín đáo và thận trọng trong cử chỉ, tiếng nói. Cách thăm dò viên thư lại về tử tù: “Tôi nghe ngờ ngợ Huấn Cao…”. Qua câu nói của viên thư lại, ông nghĩ: có nhẽ lão bát này cũng là một người khá đây (…). Một kẻ biết kính mến khí phách, một kẻ biết tiếc, biết trọng người có tài, hẳn ko phải là kẻ xấu hay vô tình. Ngục quan muốn biệt đãi Huấn Cao, nhưng vẫn sợ viên thư lại tố giác nên ông rất cảnh giác, thận trọng: để mai ta dò ý tứ hắn lần nữa xem sao rồi sẽ liệu.
Làm quản ngục có thể thét ra lửa, bộ hạ tay chân là bọn côn đồ “lũ quay quắt, tàn nhẫn, lừa lọc” nhưng ông lại khác thường. Tính cách thì dịu dàng, tấm lòng thì nhân hậu, bao dung biết giá người, biết trọng người ngay. Lúc nhận tù, ngục quan thật đáng trọng, với cặp mắt hiện lành, với lòng kiêng nể được giữ kín đáo, lại còn có biệt nhỡn đối với Huấn Cao. Trước thái độ nhâng nháo, hống hách, tàn nhẫn của bọn lính ngục, ông chỉ nhẹ nhõm nhưng nghiêm trang nói: “việc quan, ta đã có phép nước. Các chú chớ nhiều lời”.
Văn học lãng mạn tiền chiến thường sử dụng thủ pháp tương phản đối lập để làm nổi trội nghịch lí của hoàn cảnh, thảm kịch của số phận. Nguyễn Tuân cũng vậy, qua hình ảnh nhận tù, đã tương phản giữa ngục quan với lũ lính ngục, đối lập cái tinh khiết với cái cặn bã, giữa người có tâm điền tốt với lũ quay quắt. Qua đó làm nổi trội tư cách tốt đẹp của quản ngục, khác nào “âm thanh trong trẻo chen giữa một bản đàn đều hỗn loạn, xô bồ”.
Mọi cái tốt đẹp và cái xấu xa đều được bộc lộ ở hành động. Nửa tháng tử tù Huấn Cao sống trong trại giam đã được thầy quản biệt đãi như một thượng khách. Trước mỗi bữa cơm tù, Huấn Cao được dâng rượu với thức nhắm; đó là món quà nhưng viên quản ngục biếu tử tù dùng cho ấm bụng. Sự biệt đãi đó đã trình bày thái độ tâm phục, lòng biết giá người và trọng người ngay của ngục quan đối với Huấn Cao.
Xưa nay, bậc quân tử lấy chữ lễ trọng giao tiếp, tự biết mình và biết người trong quan hệ. Tiếp cận với tử tù, quản ngục thật tâm ngỏ ý: “… Ngài có cần thêm gì nữa xin cho biết. Tôi sẽ phấn đấu chu tất…”. Ngục quan liền bị tử tù nặng lời khinh bạc xua đuổi: “Ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Trước tình huống đó, người nắm uy quyền trong tay rất tĩnh tâm, ko nổi trận lôi đình để trả thù, ko giở trò tiểu nhân để thị uy. Ngục quan chỉ lễ phép lui ra sau lúc nói: “Xin lĩnh ý”. Huấn Cao và bạn tù của ông vẫn được tiếp tục biệt đãi, cơm rượu lại có phần hậu hơn trước. Vì sao ngục quan lại xử sự như thế? Vì xét về vị thế, ông ta chỉ tự coi mình là kể tiểu lại giữ tù, còn Huấn Cao là một người hùng tài tử đầu đội trời, chân đạp đất, chọc trời khuấy nước nổi danh trong người đời về cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp. Vả lại, quản ngục còn hi vọng chờ cho Huấn Cao dịu bớt tính nết để xin chữ. Nếu được Huấn Cao cho chữ thì ông rất toại nguyện. Nguyễn Tuân đã làm nổi trội bao phẩm chất của quản ngục: tĩnh tâm, lễ phép, nhẫn nhục. Quản ngục đã lấy câu châm ngôn của cổ nhân để xử sự: “Tiểu bất nhẫn bất thành đại sự”. Ngục quan ko lớn vì quyền uy nhưng đẹp ở tư cách, ở tâm thế của một kẻ sĩ biết đọc vở nghĩa sách thánh hiền.
Ngục quan có một tâm hồn trong sáng thanh cao, biết trọng người tài và rất yêu cái đẹp. Mặc dù đã chọn nhầm nghề,nhưng thiết nghĩ trên cõi đời này đã có chúa ngục nào có cái sở nguyện cao quý như ông? Cái ước ao của ông thật thanh cao, sang trọng. Ông ước ao có một ngày nào đó được treo ở nhà riêng câu đối do chính tay Huấn Cao viết. Ông say mê, khát khao vì chữ Huấn Cao đẹp và vuông lắm. Với viên quản ngục, có vinh hạnh nào hơn nếu có được chữ ông Huấn Cao nhưng treo, đó là một báu vật trên đời. Vì thế, lúc chưa xin được chữ, quản ngục sống trong tâm trạng đầy thảm kịch. Nỗi khố tâm của ông là có Huân Cao trong tay, dưới quyền mình nhưng ko dám giáp mặt vì ông cảm thấy tư cách tử tù xa cách ông quá nhiều, ông càng khổ tâm, lo lắng hơn lúc biết chỉ vài ngày nữa Huấn Cao sẽ bị hành quyết; nếu ko xin được chữ thì ông hối hận suốt đời. Có thể nói đó là một thảm kịch cao quý được Nguyễn Tuân cảm nhận ở phương diện văn hóa nghệ thuật.
Trước lúc ra pháp trường, qua lời viên thư lại, Huân Cao thấu hiểu nỗi lòng của viên quản ngục, đã nói: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy Quản đây nhưng lại có thị hiếu cao quý tương tự. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tâm lòng trong người đời”. Chính tư cách cao quý của ngục quan đã làm Huấn Cao xúc động và quý trọng. Cảnh cho chữ diễn ra trong phòng giam tử tù là sự kì ngộ giữa khách người hùng tài tử với kẻ biệt nhỡn liên tài. Trước cái đẹp của thư pháp, ngục quan đã trở thành tri kỉ, tri kỉ của tử tù. Ngục quan khúm núm cất những đồng tiền kẽm ghi lại trên ô chữ và lắng tai lời khuyên thật tâm của tử tù nên lui về quê nhà để giữ lấy thiên lương trong sạch, rồi hãy nghĩ tới chuyện chơi chữ. Ngục quan đã vái người tù một vái và nói qua dòng nước mắt: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Tất cả đã trình bày vẻ đẹp tâm hồn của ngục quan dưới ánh sáng của thư pháp và thiên lương.
Cảnh cho chữ thật cảm động. Nhân vật quản ngục là một trong những thành công của Nguyễn Tuân trong nghệ thuật mô tả và xây dựng nhân vật ở phương diện tài hoa nghệ sĩ rất lạ mắt. Yêu cái đẹp với tấm lòng biệt nhỡn liên tài là tính cách, tâm hồn của ngục quan. Ngoại hình, tiếng nói, tâm tư tình cảm tới cử chỉ, hành động của ngục quan đã được Nguyễn Tuân mô tả với tất cả sự gạn lọc của một ngòi bút tài hoa, đã làm trình bày lên một con người có cốt cách tốt đẹp: “nhất sinh đê thủ bái mai hoa” — ko cúi đầu trước cường quyền, chỉ cúi đầu trước hoa mai, trước cái đẹp trong đời.
Có thể nói, nhân vật quản ngục là con người tài hoa, con người thức tỉnh, con người vang bóng trong Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân.
Bài văn mẫu số 5: Phân tích nhân vật viên quản ngục trong Chữ người tử tù
Với hành trình suốt đời đi tìm cái đẹp của mình, Nguyễn Tuân được người ta biết tới là một gương mặt tiêu biểu của nền văn học hiện đại. Vốn tri thức vô cùng uyên bác cùng tài năng nghệ thuật bậc thầy đã giúp ông để lại rất nhiều tác phẩm văn học có trị giá cho nền văn học Việt Nam và “Chữ người tử tù” là một tác phẩm như thế. Trong tác phẩm, kế bên sự xuất hiện của Huấn Cao – một con người tài hoa, uyên bác thì viên quản ngục với những phẩm chất đáng quý cũng là một nhân vật rất đáng được quan tâm.
Truyện ngắn “Chữ người tử tù” được trích từ tập “Vang bóng một thời”. Lúc đầu, truyện có tên là “Dòng chữ cuối cùng” và đã được in trên tạp chí Tao Đàn vào năm 1938. Tới lúc được in trong tập “Vang bóng một thời” tác phẩm đã được đổi tên thành “Chữ người tử tù”. Truyện kể về cuộc gặp mặt trái ngang giữa hai con người với song đường phận hoàn toàn đối lập nhau, một bên là người tử tù Huấn Cao còn một bên là viên quản ngục. Trước sự đối đãi tử tế cùng tấm lòng của viên quản ngục, Huấn Cao đã đồng ý trước lời xin chữ của quản ngục. Câu chuyện đã tái tạo lại một quang cảnh cho chữ xưa nay chưa từng có trong buồng giam chật hẹp, dơ bẩn để rồi kết lại với những dư vị thấm thía trong lòng độc giả.
Để nói về nhân vật quản ngục, trước hết đó là một người trung niên “đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu”. Khuôn mặt ông được Nguyễn Tuân mô tả vô cùng điềm đạm, tĩnh tâm, phúc hậu với “mặt nước ao xuân, bình lặng, kín đáo và êm nhẹ”. Có thể thấy rõ ông đã được mô tả với một ngoại hình vô cùng ưa nhìn. Cái vẻ nền nã của ông còn được trình bày ở vẻ mặt đăm chiêu “nghĩ ngợi” sau lúc biết tin về sáu tên tử tù trong đó “người đứng đầu bọn phản nghịch” là Huấn Cao lại “có tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp”. Với tất cả sự từng trải cùng “tính cách dịu dàng” quản ngục đã biến trở thành một nhân vật đặc trưng giữa trốn ngục tù, khác hẳn với những bọn “sống bằng tàn nhẫn bằng lừa lọc” nơi đây.
Kế bên là một người có “tính cách dịu dàng”, viên quản ngục còn có đời sống nội tâm vô cùng thâm thúy. Lúc biết Huấn Cao ko chỉ nổi tiếng với tài cho chữ nhưng còn là một bậc trượng phu đầy nghĩa khí nhưng lại là một trong những trọng phạm triều đình ông đã vô cùng thống khổ. Nguyễn Tuân đã có một so sánh hết sức thú vị rằng nếu xã hội ngục tù là “một bản đàn nhưng nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ” thì viên quản ngục được ví như một thanh âm trong trẻo “chen vào giữa bản đàn đó”.
Và cái đáng quý nhất ở viên quản ngục là tình yêu dành cho cái đẹp và tấm lòng biệt nhỡn liên tài. Sự xuất hiện của Huấn Cao dù là trong trại giam nhưng vẫn khơi lên khát khao muốn “được treo ở nhà riêng một vài câu đối” do ông Huấn viết. Yêu quý cái đẹp cũng là yêu quý, kính trọng người tạo ra cái đẹp bởi vậy “hằng ngày vẫn cho thầy thư lại mang rượu thịt vào khoản đãi ông Huấn… ngày càng hậu hĩnh”. Vì yêu cái đẹp, kính trọng người tạo ra cái đẹp, ông đã “biệt đãi” đối với một tử tù – hành động có thể làm nguy hại tới địa vị, thậm chí là tính mệnh của ông. Ông “biệt đãi” với Huấn Cao ngày cả lúc bị người ta xua đuổi “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn ngươi đừng đặt chân vào đây nữa”. Bị xua đuổi ông ko hề than trách, cũng ko gắt phạt Huấn Cao, thậm chí đồ ăn được mang tới còn hậu hĩnh hơn trước.
Viên quản ngục luôn mong muốn có được chữ ông Huấn, chỉ mong ông Huấn dịu bớt tính cách để ông có thể trình diễn sở nguyện của mình. Mặc dù đã chọn sai nghề, nhưng trên đời này làm gì còn viên coi ngục nào lại có một tâm hồn trong sáng, có một tình yêu với cái đẹp tới thế? Tình yêu cái đẹp càng được trình bày ở sự “khổ tâm” của ông trước lúc Huấn Cao sắp bị đưa ra pháp trường nhưng ông ko kịp xin chữ thì ông sẽ “hối hận suốt đời”. Nhưng thật may rằng, qua lời kể của thầy thư lại, ông Huấn đã hiểu ra tấm lòng của viên quản ngục và đồng ý cho chữ. Chính tư cách cao quý đó đã làm cho Huấn Cao cảm động: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người.
Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây nhưng lại có những thị hiếu cao quý tương tự. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong người đời”. Từ tấm lòng của viên quản ngục, từ sự cảm động của ông Huấn nhưng cảnh cho chữ xưa nay chưa từng có đã xuất hiện. Đó là nơi trại giam dơ bẩn, u tối nhưng người ta đã ví nó như cuộc gặp mặt giữa người khách người hùng tài tử với một tấm lòng biệt nhỡn liên tài. Vẻ đẹp tâm hồn cao quý và tình yêu, sự say mê cái đẹp đã kết nối hai phía đối lập lại với nhau. Cảnh tượng xưa nay chưa từng có này chính là chìa khóa làm nổi trội chủ đề của truyện rằng cái đẹp, cái thiện sẽ xoành xoạch thắng lợi cái ác, cái xấu dù trong hoàn cảnh nào đi chăng nữa.
Việc khắc họa thành công vẻ đẹp khác thường, mới lạ của viên quản ngục giữa chốn ngục tù u tối đã cho thấy tâm hồn “suốt đời đi tìm cái đẹp” của Nguyễn Tuân. Xuyên suốt tác phẩm ta ko chỉ bắt gặp thủ pháp tương phản đối lập nhưng còn thấy cả nghệ thuật hội họa, điêu khắc được Nguyễn Tuân sử dụng vô cùng khôn khéo và chính điều này đã làm nên sức hút cho tác phẩm. Chỉ bằng một vài nét phác họa lạ mắt, Nguyễn Tuân đã thành công trong việc khắc họa một nhân vật với tấm lòng biệt nhỡn liên tài cùng sở nguyện cao quý trong mắt người đọc.
Có thể nói, cùng với nhân vật Huấn Cao, viên quản ngục cũng góp phần trình bày chủ đề của truyện cũng như điều nhưng Nguyễn Tuân luôn muốn hướng tới đó là cái đẹp và cái đẹp luôn đủ sức đánh bại mọi sự xấu xa, dơ bẩn trong cuộc sống này.
Bài văn mẫu số 6: Phân tích nhân vật viên quản ngục trong Chữ người tử tù
Nguyễn Tuân viết truyện “Chữ người tử tù” năm 1939 đăng trên tạp chí “Tao Đàn”, năm 1940, in trong tác phẩm “Vang bóng một thời”. Đoản thiên tiểu thuyết này có khoảng 2800 chữ, xứng đáng là một tờ mây, trang hoa thực thụ. Kế bên nhân vật Huấn Cao – tử tù cho chữ, là nhân vật quản ngục – người xin chữ, nhân vật đó đã được Nguyễn Tuân mô tả một cách rực rỡ, đầy ấn tượng, góp phần tạo nên thành công của tác phẩm.
Nhưng vai trò cực kì quan trọng đó của nhân vật quản ngục ko dễ nhìn thấy, bởi vì nhân vật này dường như được Nguyễn Tuân “giấu” đi, ẩn xuống hàng thứ hai đằng sau nhân vật Huấn Cao. Cảm giác thuở đầu lúc đọc Chữ người tử tù, người đọc choáng váng, ngập trong ánh sáng tỏa ra từ hình tượng Huấn Cao uy nghi, rực rỡ. Từng dòng chữ, từng trang sách cứ nhấp nhánh Huấn Cao. Người đọc chẳng thiết nghĩ điều gì khác ngoài nghĩ về Huấn Cao. Nhưng đọc thêm một vài lần nữa, gấp trang sách lại, ngẫm nghĩ kĩ, thấy nhân vật quản ngục từ từ hiện lên, ngày một rõ nét và cuốn hút ta bằng một sức mạnh kì lạ. Ta càng thấm thía, cảm phục ngòi bút tài hoa, thâm thúy của Nguyễn Tuân. Lúc được khám phá, phát hiện, nhân vật quản ngục sẽ đem lại cho ta nhiều khoái cảm thẩm mĩ mới mẻ, thú vị.
Tính cách của nhân vật Huấn Cao có phần một chiều, ổn định và đơn giản, ít những bất thần. Trái lại, nhân vật viên quản ngục có sự vận động về tính cách. Trước lúc là quản ngục, ông ta cũng là người đèn sách, “biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền”. Là người lương thiện, tử tế, lại có chữ thánh hiền bồi đắp cho “thiên lương” nảy nở tốt đẹp, ông ta yêu tới say mê cái đẹp, “cái sở nguyện của viên quan coi ngục này là có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một vài câu đối do tay ông Huấn Cao viết”.
Nhưng sự đời run rủi, và “ông trời nhiều lúc chơi ác, đem đày cửa ải những cái tinh khiết vào giữa một đống cặn bã. Và những người thẳng thắn lại phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt”, quản ngục sa vào chỗ tối tăm, phẩm chất từ đó đã hoen ố đi ít nhiều. Giữa chốn tù ngục hầu như chỉ tồn tại hai thứ : cái ác, cái xấu, tàn nhẫn, lừa lọc và những nỗi thống khổ, vô vọng. Tình cờ, viên quản ngục gặp được ông huấn Cao, gặp thần tượng của mình, gặp trong hoàn cảnh cực kì trái ngang : giữa chốn nhà lao, thần tượng của ông giờ đây lại là một tử tù, còn ông là cai ngục. Một tình huống đầy kịch tính được mở ra : ở phương diện xã hội, họ là những kẻ đối địch nhau ; ở phương diện nghệ thuật, họ lại là tri kỉ, tri kỉ của nhau. Kẻ cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình lại là một nghệ sĩ tài hoa tầm cỡ “người đời đệ nhất thư pháp”, kẻ đại diện cho pháp luật của triều đình lại là người có “tấm lòng biệt nhỡn liên tài”’ ngưỡng mộ tài thư pháp đó. Cuộc “kì ngộ” làm cho lòng yêu cái đẹp trong quản ngục sống dậy mãnh liệt tới mức ông có thể bất chấp cả tính mệnh và địa vị, mong sao có được mấy chữ của ông Huấn.
Người đọc bồn chồn theo dõi từ đầu chí cuối tác phẩm, ko biết quản ngục có xinh nổi chữ của ông Huấn hay ko ? Nhân vật quản ngục bị đặt vào một thử thách khá gay go quyết liệt. Mấy ngày ngắn ngủi ông Huấn Cao tạm bị giam trong ngục tử tù của y, quản ngục luôn sống trong tình trạng vô cùng căng thẳng, bồn chồn. Y thừa biết tính ông Huấn “vốn khoảng, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. Làm sao đây, chỉ trong ít ngày để có thể lấp đầy khoảng cách giữa “cai ngục” và “tử tù”, để thành “tri kỉ” của ông Huấn ? “Viên quản ngục khổ tâm nhất là có một ông Huấn Cao trong tay mình, dưới quyền mình nhưng ko biết làm thế nào nhưng xin được chữ. Ko dũng cảm giáp lại mặt một người cách xa y nhiều quá, y chỉ lo mai mốt đây, ông Huấn bị hành quyết nhưng ko kịp xin được mấy chữ, thì hối hận suốt đời mất”. Mặt khác, viên quản ngục xoành xoạch phải dò xét, ngừa cả bọn thuộc hạ, ông sợ “tên bát phẩm thư lại này đem tố giác với quan trên thì khó nhưng ở yên”, ông phải “dò ý tứ hắn lần nữa xem sao rồi sẽ liệu”.
Nhân vật viên quản ngục được xây dựng với văn pháp giàu chất hiện thực, gần với cuộc đời hơn, thật hơn. Và chính ở đây trình bày tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Đọc truyện, người đọc như thấy xuất hiện trước mắt dáng đi, điệu đứng, lời ăn tiếng nói của viên quản ngục này. Lúc ở công đường, dáng điệu của y rõ đường bệ, quan cách, uy phong, trầm tĩnh, rõ là chu đáo, cần mẫn trong công việc. Tiếp được công văn để lĩnh nhận sáu tên tù án chém, ông ta đọc tên từng người và ngừng lại ở cái tên Huấn Cao, rồi hỏi viên thư lại để xác minh cho rõ. Nhân vật viên quản ngục ko chỉ là kẻ biết thi hành phận sự, cần mẫn, tận tụy, nhưng còn là nhân vật có đời sống nội tâm thâm thúy. Có lúc khuôn mặt tỏ rõ sự nghĩ ngợi đăm chiêu, “ngục quan băn khoăn ngồi bóp thái dương”, “người ngồi đấy, đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu. Những đường nhăn nheo của khuôn mặt tư lự, hiện giờ đã mất tích hẳn. Ở đấy, giờ chỉ còn là mặt nước ao xuân, bình lặng, kín đáo và êm nhẹ”.
Trong nhận xét rất tinh tế của người dẫn truyện thì viên quản ngục có “tính cách dịu dàng và lòng biết giá người”. Ông được coi “là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn nhưng nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”, là “cái tinh khiết” bị đày cửa ải “vào giữa một đống cặn bã”, là “người thẳng thắn lại phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt”. Là quản ngục, nhưng ông ta cũng chính là tù nhân chung thân của cái nhà tù do ông cai quản. Cái danh, cái lợi, trách nhiệm, phận sự của một ngục quan là những thứ gông xiềng, xiềng xích vô hình siết chặt tâm hồn quản ngục suốt đời. “Lũ người quay quắt”, cái “đống cặn bã” xung quanh ông chẳng khác gì nơi buồng tối giam tử tù “một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất lộn xộn phân chuột, phân gián”. Đã có lúc, ngục quan thấm thía thân phận lạc loài, lẻ loi giữa chốn tù ngục của chính mình, y than vãn một mình : “Có nhẽ lão bá này, cũng là một người khá đây. Có nhẽ hắn cũng như mình, chọn nhầm nghề mất rồi”. Nếu như thảm kịch của ông Huấn là thảm kịch của người người hùng thất thế, thất thế nhưng vẫn kiêu hùng, lẫm liệt ; thì thảm kịch của ngục quan là thảm kịch lầm đường. kẻ lầm đường lạc lối, may thay, vẫn còn có lương tri, lương năng, còn có “lòng biệt nhỡn liên tài”, còn có khát vọng giải thoát. Y tôn thờ cái đẹp, say mê cái đẹp để hi vọng tự giải thoát. Lúc ngục quan gặp huấn Cao thì “đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu”, “khuôn mặt tư lự” đã hằn nhiều nếp nhăn của cuộc đời “tù nhân” nhọc nhằn, nhưng khát vọng giải thoát biểu thị ở khát vọng hướng tới cái đẹp vẫn mãnh liệt vô cùng. Âm ỉ lâu nay, nay nó bùng cháy lên thành lửa ngọn. Ngục quan tự hạ mình xuống trước tử tù, nhẫn nhục chấp nhận sự “khinh bạc tới điều” của ông Huấn. Y ko thù oán, y biết người ta, “y cũng thừa hiểu những người chọc trời khuấy nước, tới trên đầu người ta, người ta cũng còn chẳng biết có người nào nữa, huống chi cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù”. Về thực chất, đó là sự ngưỡng mộ trước cái đẹp một cách hoàn toàn tự nguyện. Hành động biệt đãi ông Huấn cũng là xuất phát từ lòng say mê đó. Nhưng tới cuối tác phẩm thì ko chỉ còn là chuyện say mê, tôn thờ mấy cái chữ đẹp nữa, nhưng cao hơn thế, đó là sự trân trọng, tôn thờ tư cách cao quý của một bậc tài danh. Bị cái đẹp và tư cách cao thượng của ông Huấn thuyết phục, viên quản ngục thực sự cảm động cũng giống như ông Huấn Cao đã cảm động trước “thị hiếu cao quý” và “tấm lòng biệt nhỡn liên tài” của ngục quan. Đó là điểm gặp mặt để trở thành tri kỉ, tri kỉ của hai con người cách nhau quá xa về vị trí xã hội. Sự tri kỉ đó được ghi lại bằng dòng lệ và tiếng nói nghẹn ngào : “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” và kèm theo một cái vái.
Vận mệnh nghệ thuật của tính cách ông Huấn Cao đã kết thúc cùng với sự kết thúc của thiên truyện ; trong lúc đó, vận mệnh vẫn còn tiếp tục ở nhân vật viên quản ngục : người đọc có thể tin rằng sau những lời khuyên bảo quan tâm của ông Huấn, viên quản ngục đã luống tuổi đó sẽ từ bỏ nghề bất nhân về quê ở để giữ thiên lương cho trong sạch, lành vững.
Nhân vật viên quản ngục là một thông minh rất mực sinh động của Nguyễn Tuân, để vừa tô đậm vẻ đẹp lí tưởng của nhân vật Huấn Cao, lại vừa trình bày vẻ đẹp của một con người đang được dắt dẫn bởi cái đẹp và cái thiện. Đây là kiểu thông minh nhân vật rất mới trong văn học hiện đại Việt Nam, cái cách để cho nhân vật tự tạo tính cách.
CLICK NGAY vào nút TẢI VỀ dưới đây để tải các bài văn mẫu: Phân tích nhân vật quản ngục trong Chữ người tử tù Văn lớp 11 file word, pdf hoàn toàn miễn phí.
Bạn thấy bài viết Bài văn hay: Phân tích nhân vật viên quản ngục trong Chữ người tử tù lớp 11 có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Bài văn hay: Phân tích nhân vật viên quản ngục trong Chữ người tử tù lớp 11 bên dưới để tmdl.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường Trung Cấp Nghề Thương Mại Du Lịch Thanh Hoá
Phân mục: Soạn Văn 11
Bạn đang xem bài: Bài văn hay: Phân tích nhân vật viên quản ngục trong Chữ người tử tù lớp 11
Nguồn: tmdl.edu.vn
#Bài #văn #hay #Phân #tích #nhân #vật #viên #quản #ngục #trong #Chữ #người #tử #tù #lớp
Trang chủ: tmdl.edu.vn
Danh mục bài: Tổng hợp