Tổng hợp

Bình giảng đoạn 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Bình giảng đoạn 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Hướng dẫn

Quang Dũng là một thi sĩ, họa sĩ, nhạc sĩ,… một nghệ sĩ đa tài với tâm hồn hào hoa, lãng mạn. Cuộc đời thanh xuân của ông gắn liền với trận đấu tranh chống Pháp.

Mặc dù trong hoàn cảnh đấu tranh rất gieo neo và thiếu thốn nhưng những người lính vẫn rất sáng sủa yêu đời và luôn giữ được ý thức yêu nước. Đoạn thơ thứ 2 thể hiên được những trị giá nghệ thuật rực rỡ trong thủ pháp của ông.

Dưới đây là những bài văn Bình giảng đoạn 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng đều các em cùng tham khảo:

Bài 1: Bài văn của em Lê Thanh Hoàng đã bình giảng đoạn 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng:

Quang Dũng là nghệ sĩ đa tài: viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc… nhưng thành công nhất vẫn là thơ ca. Các tập thơ tiêu biểu của Quang Dũng được độc giả biết tới nhiều như “Mây đầu ô”, “Mùa hoa gạo”… Nhưng tên tuổi của Quang Dũng có nhẽ đã gắn liền với bài thơ Tây Tiến. Bài thơ ra đời vào năm 1948 in trong tập “Mây đầu ô” là bài thơ tiêu biểu nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp.

Bình giảng đoạn 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Bài thơ có trị giá nội dung và nghệ thuật rực rỡ nhưng tiêu biểu là đoạn thơ sau đây:“Doanh trại bừng lên hội hoa chúc…Trôi dòng nước lũ hoa đu đưa”Tây Tiến là một phân hiệu quân nhân được thành lập đầu năm 1947. Thành phần chủ yếu là thanh niên trí thức Hà Nội. Nhiệm vụ của họ là phối hợp với quân nhân Lào bảo vệ biên giới phía Tây. Năm 1948, Tây Tiếngiải thể để thành lập trung đoàn 52. Quang Dũng cũng chuyển sang đơn vị khác.

Sau lúc rời đơn vị cũ chưa được bao lâu Quang Dũng đã sáng tác bài thơ này. Đoạn thơ ta bình giảng là đoạn thơ thứ hai trong bài Tây Tiến. Bốn câu đầu, thi sĩ mang tới cho người đọc ko khí tươi vui của đêm liên hoan văn nghệ đậm tình quân dân. Doanh trại bừng lên hội hoa chúc. Kia em xiêm áo tự bao giờ. Khèn lên man điệu nàng e ấp.

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ“Doanh trại” là nơi đóng quân của Tây Tiến cũng là nơi diễn ra lễ hội văn hóa đặm đà tình quân dân. Đồng bào dân tộc đã tụ họp về đây để sinh hoạt và góp vui ý thức với quân nhân Tây Tiến. Từ “Bừng” gợi cảm giác ấm áp, gợi thú vui lan tỏa. Đêm rừng núi thành đêm hội. Ngọn đuốc nứa, đuốc lau thành “đuốchoa” (“Hoa chúc” là hoa chúc – cây nến đốt lên trong phòng cưới, đêm tân hôn)

Ở đây, “hoa chúc” có ýnghĩa là gợi ko khí êm ấm gợi thú vui, niềm hạnh phúc trong lòng các chiến sĩ. “Bừng” chỉ ánh sáng của hoa chúc, của lửa trại sáng bừng lên; cũng còn có tức là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười nói tưng bừng rộn ràng. Tố Hữu lúc nhớ về Việt Bắc cũng từng viết về đêm liên hoan: “Nhớ sao lớp học i tờ/ Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan”.

Có thể tưởng tượng đêm hội nhưng Quang Dũng viết trên đây như một đám cưới tập thể. Từ “Kìa em” trong câu thơ thứ hai trình bày sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng của lính Tây Tiến trước vẻ đẹp của cô gái vùng cao trong y phục “xiêm áo” lộng lẫy cùng dáng vẻ “e ấp” rất thiếu nữ.

Quang Dũng phát xuất hiện vẻ đẹp rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu, niềm say tới cảm phục. Yêu say từ vóc dáng tới trangphục. Chính y phục truyền thống đặm đà bản sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của họ. Quang Dũng ko khỏi ko thán phục tới ngạc nhiên trước vẻ đẹp đấy. Em trở thành hạt nhân của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phương xa.

Những thiếu nữ Mường, những thiếu nữ Thái, những cô gái Lào xinh đẹp, duyên dáng “e ấp”, xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ. Cũng có thể hiểu người lính đang đóng giả con gái trong những y phục dân tộc rất lạ mắt, tạo tiếng cười vui cho đêm văn nghệ. Ngỡ ngàng nữa là tiếng khèn “man điệu”.

Khèn là một loại nhạc cụ của người dân tộc miền núi Tây Bắc còn “man điệu” là một điệu nhạc “lạ” đặc trưng văn hoá của những con người nơi đây. Và hòa vào tiếng khèn ngây ngất đấy là điệu múa Lam vông quyến rũ của những cô gái Lào đã “xây hồn thơ” trong lòng cácchàng lính trẻ. Chính cái lạ đấy làm đắm say tâm hồn những chàng trai Tây Tiến gốc Hà Nội hào hoa. Chính trong ko khí của âm nhạc, vũ điệu đấy đã chắp cánh cho tâm hồn những người lính Tây Tiến thăng hoa, mọi mỏi mệt như bị đẩy lùi, thêm vào đó là lòng yêu đời, yêu miền đất lạ.

Chính vì thế mọi cảm giác mỏi mệt, mọi vất vả đều tan biến. Thay vào đó là niềm sáng sủa, yêu đời nâng bước họ mạnh mẽhơn trên trục đường hướng về “Viên Chăn xây hồn thơ”. Từ đó, ta có thể thấy được rằng các chiến sĩ của chúng ta dù trong những giờ phút vui vẻ, thoải mái nhất thì tâm hồn của họ vẫn luôn hướng về lí tưởng cách mệnh cao đẹp.Bốn câu sau là quang cảnh chia tay trên nền sông nước Tây Bắc vừa thực vừa mộng hoang vắng, yên ắng, buồn thi vị.

Cả bốn câu là cảnh sắc Tây Bắc gợi cảm giác mênh mang, huyền ảo: Người đi Châu Mộc chiều sương ấyCó thấy hồn lau nẻo bến bờCó nhớ dáng người trên độc mộcTrôi dòng nước lũ hoa đu đưa.So với bốn câu thơ trên là hình ảnh ko khí đêm lễ hội tưng bừng hoà hợp với ánh sáng lung linh và tâm hồn trẻ trung, yêu đời của các chiến sĩ Tây Tiến thì bốn dòng thơ tiếp theo, Quang Dũng đưa người đọc tới với hình ảnh của con người và núi rừng Tây Bắc trong một buổi chiều sương … Một ko gian bảng lảng khói sương như trong cõi mộng cứ thế xuất hiện.

Tự nhiên Tây Bắc hiện lên theo chiều hướng nhẹ hoá. Cái dữ dội, khốc liệt được đẩy lùi đi và thay vào đó là những hình ảnh nhẹ nhõm và thơ mộng. Hình ảnh trước hết là hình ảnh chiều sương cho ta thấy nét đặc trưng vốn có của núi rừng nơi đây. Nhưng sương ở đây ko phải là sương lấp, sương che hay sương phủ nhưng là ”Người đi Châu Mộc chiều sương đấy”. Nó gợi màu sắc bảng lảng, sương khói vừa có nỗi buồn man mác. Đại từ ”đấy” làm rõ nghĩa hơn cho từ chiều sương để nhấn mạnh rằng đây là một buổi chiều sương rất đặc thù, chiều sương trong nỗi nhớ đã thành kỷ niệm nên tình người cũng man mác, bâng khuâng.

Đoạn thơ đậm màu sắc hội họa. Cái thực của khí trời Tây Bắc, cái mộng của ko khí bảng lảng sương khói hiện lên như một miền cổ tích. Có nhẽ chất họa sĩ của Quang Dũng đã ăn vào thơ ở đoạn này. Nét bút phác thảo của Quang Dũng thật là tài hoa. Chỉ một vài nét chấm phá vậy nhưng cái hồn của cảnh vật và con người hiện lên thật sinh động đầy sức cuốn hút.Sông nước hoang dại như một bờ tiền sử, bên bờ lau lách và tác giả đã cảm nhận những cánh lau qua hai từ vô cùng tinh tế, đó là ”hồn lau”… gợi cảm giác hoang vắng, yên ắng, giàu chất thơ sâu lắng vừa có chút gì đó thiêng liêng phảng phất chút tâm linh rừng núi.

“Nẻo bờ bến” có tức là: nẻo – lối đi. Nẻo bờ bến là nhìn đâu cũng thấy mênh mang hồn lau. “Hồn lau” – những cây lau ko còn vô tri vô giác nhưng có vong hồn. Phải là một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế, tài hoa và lãng mạn mới cảm thu được vẻ đẹp nên thơ đấy.“Nghìn lau cười trong nắngHồn của mùa thu vềHồn của mùa thu điNgàn lau xao xác trắng”(Chế Lan Viên) Ko gian nên thơ đấy làm nền cho người thơ xuất hiện: Giữa hình ảnh tự nhiên Tây Băc hiện lên đầy sức sống và lãng mạn thì hình ảnh con người nơi đây hiện lên mang một vẻ đẹp khỏe khoắn, quật cường, kiên cường: ”Có nhớ dáng người trên độc mộc”.

 

Điệp ngữ “có thấy – có nhớ” luyến láy như chạm khắc vào lòng người một nỗi nhớ da diết, cháy bỏng khôn nguôi. Độc mộc là một loại thuyền được làm từthân cây gỗ lớn, dài. Dáng người trên độc mộc ở đây có thể là hình ảnh mềm mại, uyển chuyển của nhữngcô gái Thái, Mèo đang đưa các chiến sĩ vượt sông. Cũng có thể hiểu là dáng hình kiêu dũng của các chiến sĩ Tây Tiến đang chống chèo con thuyền vượt sông, vượt thác dữ tiến về phía trước. Tất cả những hình ảnh đấy đều đã để lại trong lòng của Quang Dũng một hình ảnh khó phai nhoà…

Tự nhiên Tây Bắc vốn nổi tiếng với con sông Mã, một dòng sông đã chứa trong nó biết bao dữ dội. Nhưng ở đây, dòng sông Mã đã hiện lên với sự nhẹ nhõm tới kỳ lạ. Những cánh hoa rừng ko bị ”dồi lên dập xuống” nhưng là “Trôi dòng nước lũ hoa đu đưa”. Từ láy “đu đưa” được sử dụng rất gợi: Cánh hoarừng như cũng quyến luyến con người. Cánh hoa rừng như bàn tay vẫy chào người lính, tiễn người lính vượt sông đi đánh giặc.Đoạn thơ để lại một dấu ấn xinh tươi về thơ ca kháng chiến nhưng sự thành công là liên kết hài hòa giữa thiên hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Ngoài ra còn có các yếu tố nghệ thuật: Tiếng nói thơ mộc mạc, giản dị, hồn thơ mang đậm chất lãng mạn, hào hoa…

Những từ ngữ như “có nhớ”, “có thấy” luyến láy, khắc họa thêm nỗi nhớ: lưu luyến, bổi hổi. Tất cả đã tạo nên một bài thơ hay và giàu trị giá. Tóm lại, tám câu thơ của khổ hai đã vẽ nên quang cảnh tự nhiên, con người miền Tây với vẻ đẹp mĩ lệ, thơ mộng, trữ tình.

Chất nhạc, chất hoạ, chất mộng mơ hoà quyện chặt chẽ với nhau trong đoạn thơ tạo nên một toàn cầu của cái đẹp.Từng nét vẽ của Quang Dũng đều mềm mại, tinh tế, uyển chuyển. Đây là đoạn thơ bộc lộ rõ nhất sự tài hoa, lãng mạn của Quang Dũng trong tổng thể bài thơ.

——————————–

Bài 2: Bài văn của em Trần Hoài Nam đã bình giảng đoạn 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng:

Quang Dũng là thi sĩ – chiến sĩ, từng cầm súng đánh giặc và làm thơ thời kháng chiến chống Pháp. Năm 1948, tại Phù Lưu Chanh (Hà Tây), ông viết bài thơ “Tây Tiến” nói lên tình thương nhớ chiến trường miền Tây, nhớ đồng chí thân yêu một thời trận mạc. Mở đầu bài thơ là một lời nhắn gọi biết bao thiết tha bổi hổi:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”.

Bài thơ có 34 câu thơ thất ngôn, phân thành 4 đoạn, mỗi đoạn thơ là sự hồi ức bao kỉ niệm thâm thúy. Đây là đoạn thơ thứ hai có 8 câu mang vẻ đẹp như một bài hành nói về 2 nỗi nhớ: nhớ hội hoa chúc và nhớ chiều sương Châu Mộc:
“Doanh trại bừng lên hội hoa chúc

……………………………………………..
Trôi dòng nước lũ hoa đu đưa”.
1. Từ “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói – Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”, Quang Dũng nhớ tới “hội hoa chúc” thắm thiết tình quân dân:
“Doanh trại bừng lên hội hoa chúc
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.

Hoa chúc là cây nến thắp lên trong phòng tối tân hôn. “Truyện Kiều” có câu: “Hoa chúc chẳng thẹn với chàng mai xưa”(3096). Quang Dũng thông minh thành “hội hoa chúc”để nói về đêm liên hoan lửa trại giữa đoàn binh Tây Tiến với đồng bào các bản mường. Chữ “bừng” vừa chỉ ánh lửa, ánh đuốc sáng bừng lên, vừa tả âm thanh tiếng nói, tiếng cười, tiếng hát, tiếng khèn vang lên tưng bừng rộn ràng trong hội hoa chúc. Đêm lửa trại, đêm liên hoan chắc là có múa sạp, có múa xoè của các cô gái Mường, cô gái Thái tham gia? Chữ “kìa” là đại từ để trỏ một nhân vật (người, vật) từ xa; trong văn cảnh trình bày sự ngạc nhiên, thú vui thích, tình tứ của chàng lính trẻ Tây Tiến lúc nhìn thấy các “em”, các “nàng” tới dự hội hoa chúc trong bộ xiêm áo xinh đẹp. Hình ảnh “nàng e ấp” là một nét vẽ tài hoa và có hồn đã gợi tả vẻ đẹp duyên dáng, kín đáo, tình tứ của các thiếu nữ miền Tây. Ánh lửa, tiếng hát, tiếng khèn, màu xiêm áo rực rỡ, vẻ đẹp kiều diễm của các “em”, các “nàng” như đã “xây hồn thơ” các chàng lính trẻ. Con người thì trẻ trung, xinh đẹp, hào hoa, đa tình; ngòi bút của thi nhân cũng rất tài hoa, lãng mạn. Qua hội hoa chúc, ta càng thấy đời sống ý thức vô cùng phong phú của đoàn binh Tây Tiến nơi chiến trường miền Tây gieo neo khốc liệt.

 

Bình giảng đoạn 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

2. Bốn câu thơ tiếp theo dòng hồi ức “trôi” về một miền đất lạ, đó là Châu Mộc thuộc tỉnh Sơn La, nơi có những bãi cỏ mênh mang mênh mông, nơi có dãy núi Pha Luông cao 1880m, nơi có bản Pha Luông sầm uất của người Thái. Quang Dũng người lính chiến với tâm hồn thi sĩ đã khám phá ra bao vẻ đẹp kì thú miền Châu Mộc. Năm tháng đã trôi qua, cảnh và người miền đất lạ đấy đã trở thành một mảnh tâm hồn của bao người:
“Người đi Châu Mộc chiều sương đấy
Có thấy hồn lau nẻo bờ bến
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đu đưa”.

“Chiều sương đấy” là chiều thu 1947. Sương trắng phủ mờ núi rừng chiến khu chiều thu đấy in đậm hồn người; hoài niệm càng trở thành mênh mang. Chữ “đấy” câu trên bắt vần với chữ “thấy” câu dưới tạo nên một vần lưng giàu âm điệu, như một tiếng khẽ hỏi “có thấy” cất lên trong lòng. Hồn lau là hồn mùa thu. Hoa lau nở trắng cờ, lá lau kêu xào xạc trong gió thu “nẻo bờ bến”, nơi bờ sông bờ suối. Với tâm hồn thi sĩ tài hoa, Quang Dũng đã cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng của tự nhiên Châu Mộc qua cảnh sắc “chiều sương” và “hồn lau nẻo bờ bến”. Những thi liệu đấy đã tạo nên vẻ đẹp cổ điển bức tranh suối rừng nơi miền đất lạ. Nhấp nhoáng trong vần thơ “Tây Tiến” là những câu cổ thi tuyệt bút:
“Sương đầu núi buổi chiều như dội,
Nước lòng khe nẻo suối còn sâu…”

(“Chinh phụ ngâm”)
Các thi sĩ xưa nay vẫn gọi hồn thu là hồn lau:
“Nghìn lau cười trong nắng
Hồn của mùa thu về
Hồn mùa thu sắp đi
Nghìn lau xao xác trắng”.

(“Lau mùa thu” – Chế Lan Viên)
Điệp ngữ “có thấy” và “có nhớ” làm cho hoài niềm về chiều sương Châu Mộc thêm phần man mác, bâng khuâng. Nhớ cảnh rồi nhớ tới người. Trong chia phôi còn “có nhớ”. “Có nhớ” con thuyền độc mộc và “dáng người” chèo thuyền độc mộc? “Có nhớ” hình ảnh “hoa đu đưa” trên dòng nước lũ? “Hoa đu đưa” có phải là hoa rừng “đu đưa” làm duyên trên dòng nước lũ như giáo sư Phan Cự Đệ đã nói? Hay “Hoa đu đưa” là hình ảnh ẩn dụ gợi tả các cô gái miền Tây xinh đẹp lái thuyền độc mộc duyên dáng, uyển chuyển như những bông hoa rừng đang “đu đưa” trên sông suối. Bài hát “Sơn nữ ca” của nhạc sĩ Trần Hoàn, “Nụ cười sơn cước” của nhạc sĩ Tô Hải cho ta cảm nhận đấy. Phải có “vô lăng ra hoa” mới có thể “đu đưa” được tương tự.
Những dòng hồi ức trên đây về cảnh sắc và con người nơi suối rừng miền Tây, nơi cao nguyên Châu Mộc đã được trình bày một cách tuyệt đẹp qua văn pháp tài hoa và hồn thơ lãng mạn. Thuở đấy, núi rừng Tây Bắc vô cùng hoang vu, là chốn rừng thiêng nước độc, nhưng Quang Dũng với tâm hồn sáng sủa và yêu đời của một khách chinh phu thời đại mới đã cảm nhận và phát hiện bao vẻ đẹp thơ mộng, xinh đẹp của cảnh sắc tự nhiên và con người Tây Bắc.
Hoài niệm, kỉ niệm về chiến trường núi rừng miền Tây như được gạn lọc qua tâm hồn. Thi sĩ có gắn bó với cảnh vật và con người Tây Bắc, có vào sinh ra tử với đồng chí mới có kỉ niệm đẹp và thâm thúy tương tự, mới có thể viết nên những vần thơ sáng giá như thế.
Bức tranh chiều sương Châu Mộc và hội hoa chúc như một bức tranh sơn mài của một danh họa mang vẻ đẹp màu sắc cổ điển và lãng mạn liên kết hài hòa với tính thời đại và hiện đại trong máu lửa chiến tranh.

Nguồn: Vietvanhoctro.com

 

Bạn thấy bài viết Bình giảng đoạn 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu  ko hãy comment góp ý thêm về Bình giảng đoạn 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng bên dưới để https://hubm.edu.vn/ có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website ĐH KD & CN Hà Nội

Nguồn: hubm.edu.vn
Phân mục: Văn mẫu

#Bình #giảng #đoạn #bài #thơ #Tây #Tiến #của #Quang #Dũng

Bạn thấy bài viết Bình giảng đoạn 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu  ko hãy comment góp ý thêm về Bình giảng đoạn 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng bên dưới để tmdl.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường Trung Cấp Nghề Thương Mại Du Lịch Thanh Hoá

#Bình #giảng #đoạn #bài #thơ #Tây #Tiến #của #Quang #Dũng

Lương Sinh

Lương Sinh là một tác giả đầy nhiệt huyết trong lĩnh vực giáo dục, ngoại ngữ và kiến thức. Với hơn 10 năm kinh nghiệm làm việc trong ngành, cô đã tích lũy được rất nhiều kiến thức và kỹ năng quan trọng. Với tình yêu với ngôn ngữ và mong muốn chia sẻ kiến thức, Lương Sinh đã quyết định sáng lập blog tmdl.edu.vn. Trang web này không chỉ là nơi chia sẻ những kinh nghiệm và kiến thức cá nhân của cô, mà còn là một nguồn thông tin hữu ích cho những người quan tâm đến giáo dục, kiến thức và ngoại ngữ. Đặc biệt là tiếng Anh và tiếng Trung Quốc.
Back to top button