Tổng hợp

Bình giảng đoạn thơ đầu bài Tây Tiến(hay nhất)

Tuyển chọn những bài văn hay chủ đề Bình giảng đoạn thơ đầu bài Tây Tiến của Quang Dũng. Các bài văn mẫu được tổng hợp từ các bài viết hay, xuất sắc của các bạn học trò trên cả nước. Mời các em cùng tham khảo nhé!

Đề bài: Bình giảng đoạn thơ sau trong bài “Tây Tiến” của Quang Dũng:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! 

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi 

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi 

Mường Lát hoa về trong đêm hơi 

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm 

[wpcc-script type=”rocketlazyloadscript” async src=”https://pagead2.googlesyndication.com/pagead/js/adsbygoogle.js?client=ca-pub-2940752741914611″ crossorigin=”anonymous”]
[wpcc-script type=”rocketlazyloadscript”]

Hẻo lánh cồn mây, súng ngửi trời 

Nghìn thước lên cao, nghìn thước xuống 

Nhà người nào Pha Luông mưa xa khơi 

Anh bạn dãi dầu ko bước nữa 

Gục lên súng mũ quên mất đời! 

Chiều chiều oai linh thác gầm thét 

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người 

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói 

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.”

Bình giảng đoạn thơ đầu bài Tây Tiến – Bài mẫu 1 

         Quang Dũng (1921-1988) là một nghệ sĩ đa tài với hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. “Tây Tiến” là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ và trình bày thâm thúy phong cách thơ Quang Dũng. Có thể nói, tinh hoa của bài thơ được tụ hội lại trong khổ thơ trước nhất. Khổ thơ đã dựng lên bức tranh tự nhiên hùng vĩ, mĩ lệ của núi rừng miền Tây, nơi thi sĩ cùng đoàn quân Tây Tiến đã từng hoạt động, đấu tranh.

         Bài thơ “Tây Tiến” được sáng tác năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh, lúc thi sĩ đã rời khỏi đơn vị cũ Tây Tiến, chuyển sang hoạt động tại một đơn vị khác.

        Tây Tiến là một đơn vị quân nhân chống Pháp được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với quân nhân Lào bảo vệ biên giới Việt Lào, mất dần sinh lực Pháp tại Thượng Lào và miền Tây Bắc Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến rất rộng lớn trải dài từ Sơn La, Hòa Bình, miền tây Thanh Hóa tới Sầm Nưa (Lào) – là những nơi hiểm trở, hoang vu, rừng thiêng nước độc. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, có nhiều học trò, sinh viên, trong đó có Quang Dũng. Họ sống và đấu tranh trong hoàn cảnh gian nan, thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành nhưng vẫn sáng sủa, quả cảm. Hoạt động được hơn một năm thì đơn vị Tây Tiến trở về Hòa Bình thành lập Trung đoàn 52.

         Bài thơ ra đời từ nỗi nhớ, kỉ niệm, hồi ức của Quang Dũng về đồng chí và địa bàn đấu tranh cũ. Tác phẩm sau lúc ra đời đã được bao thế hệ thanh niên và bạn yêu thơ truyền tay tìm đọc. Tới năm 1986, bài thơ được in trong tập thơ “Mây đầu ô” (xuất bản 1986).

         Lúc đầu bài thơ có tên là “Nhớ Tây Tiến”, sau đó tác giả chuyển lại thành “Tây Tiến”. Nhan đề “Tây Tiến” đảm bảo tính súc tích của thơ, ko cần phải trực tiếp bộc lộ nỗi nhớ nhưng tình cảm đó vẫn hiện lên thâm thúy, thấm thía. Nhan đề còn làm nổi rõ hình tượng trung tâm của tác phẩm, đó là hình tượng đoàn quân Tây Tiến. Việc bỏ đi từ “nhớ” đã vĩnh viễn hóa đoàn quân Tây Tiến, làm cho hình ảnh người lính Tây Tiến trở thành bất tử trong thơ ca kháng chiến Việt Nam.

         “Tây Tiến” là bài thơ in đậm phong cách tài hoa, lãng mạn, phóng khoáng của hồn thơ Quang Dũng. Tác phẩm đã bộc lộ nỗi nhớ thâm thúy của thi sĩ với người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng. Đoạn thơ thứ nhất đã tái dựng lại sống động bức tranh tự nhiên miền Tây với những quang cảnh, những chặng đường hành quân gian nan, từ đó hình ảnh những chiến sĩ Tây Tiến cũng tuần tự xuất hiện.

         Bài thơ mở ra bằng một nỗi nhớ trào dâng:

“Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi !

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”

          Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” bật lên bởi một nỗi nhớ thâm thúy, cồn cào ko kìm nén nổi. Nhân vật của nỗi nhớ đó rất cụ thể, rõ ràng là: “sông Mã”, “Tây Tiến”, “rừng núi”. Nỗi nhớ đó phải khắc khoải lắm thì tác giả mới điệp lại hai lần từ “nhớ”. “ Nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ chập chờn hư thực, vừa tha thiết, túc trực, vừa mênh mang, đầy ám ảnh, vừa mở ra ko gian của tiềm thức, vừa như gợi ra ko gian trập trùng của núi đèo rộng lớn. Cách hiệp vần “ơi” làm câu thơ như ngân vang, thích hợp với biên độ của xúc cảm .

        Hai câu thơ đầu đã khơi mạch chủ đạo của cả bài thơ là nỗi nhớ khôn nguôi. Nỗi nhớ đó được cụ thể dần dần trong những vần thơ tiếp sau.

Hai câu thơ tiếp gợi lại hình ảnh đoàn quân hành quân trong đêm:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

         Hai câu thơ vừa tả thực, vừa sử dụng văn pháp lãng mạn. Những từ chỉ địa danh Sài Khao, Mường Lát gợi ra địa bàn rộng lớn, đầy xa lạ đối với người lính Tây Tiến. Sương mù vùng cao dày đặc như trùm lấp bước chân, xơi tái cả đoàn binh vốn đang mỏi mệt, rệu rã vì chặng đường dài gian nan. Quang Dũng đã nhìn thấy và mô tả một mảng hiện thực khuất lấp trong thơ ca kháng chiến. Nhưng những người lính đó, dù mỏi mệt nhưng tâm hồn vẫn trẻ trung, hào hoa, sáng sủa, yêu đời. Hình ảnh “hoa về trong đêm hơi” là hình ảnh đẹp giàu sức gợi. Đó có thể là những ánh đuốc sáng lung linh của đoàn quân đang tiến về bản làng, cũng có thể là hình ảnh đoàn quân từ rừng đi ra, trên tay vẫn cầm theo những đóa hoa rừng ngát hương, nhưng đó cũng có thể là hình ảnh ẩn dụ về đoàn quân Tây Tiến như những bông hoa rừng. Đoàn quân đó hành quân trong một “đêm hơi” đầy huyền ảo, mơ hồ, bảng lảng khói sương chốn rừng suối. Hai câu thơ in đậm dấu ấn tài hoa, lãng mạn của Quang Dũng.

         Bốn câu thơ tiếp theo đặc tả địa hình hiểm trở của miền Tây :

Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm

Hẻo lánh cồn mây súng ngửi trời,

Nghìn thước lên cao, nghìn thước xuống,

Nhà người nào Pha Luông mưa xa khơi.

          Thi sĩ sử dụng một loạt các từ láy tượng hình “khúc khuỷu”, “ thăm thẳm”, “ hẻo lánh”, liên kết với cách ngắt nhịp 4/3 như chặt đôi câu thơ, mật độ thanh trắc dày đặc khiến câu thơ trúc trắc gợi sự vất vả, nhọc nhằn. Những phép tu từ đó mở ra trong tâm tưởng người đọc ấn tượng về sự lồi lõm, hiểm trở, ẩn chứa bao bất trắc, nguy hiểm của núi cao, vực sâu nơi núi rừng miền Tây. Hình ảnh “súng ngửi trời” là một nhân hóa táo tợn, đặc tả sự chót vót của dốc núi. Người lính Tây Tiến leo lên đỉnh dốc, cảm tưởng như mũi súng có thể chạm mây. Từ đó, ta cũng thấy được nét tinh nghịch khỏe khoắn, vẫn có thể trêu đùa vô tư sau một chặng đường hành quân vất vả, nhọc nhằn của các anh lính Tây Tiến. Phép đối “nghìn thước lên cao – nghìn thước xuống” càng nhấn mạnh độ lồi lõm, hình sông thế núi trập trùng, hiểm trở của tự nhiên miền Tây. Ba câu thơ giàu chất hội họa, dựng lên bức tranh hoang vu, dốc đèo đứt nối, hùng vĩ trên trục đường hành quân của chiến sĩ Tây Tiến. Câu thơ thứ tư toàn thể là bảy thanh bằng “Nhà người nào Pha Luông mưa xa khơi”, vần mở “ơi” đặt cuối câu tạo cảm giác nhẹ nhõm gợi ra những phút giây ngơi nghỉ thư giãn của người lính. Họ đứng trên những đỉnh núi, thưởng thức chút bình yên, vẻ đẹp lãng mạn của núi rừng, phóng tầm mắt, thấy mưa rừng giăng mờ nơi bản làng Pha Luông xa xôi. Bốn câu thơ vừa gợi ra sự dữ dội hoang vu, sự êm đềm của núi rừng, vừa gợi ra những cuộc hành quân vất vả nhọc mệt nhưng đầy trẻ trung, yêu đời của các chàng trai Tây Tiến.

           Người lính Tây Tiến ko chỉ đối diện với dốc cao vực sâu nhưng còn phải chịu những mất mát hi sinh:

Anh bạn dãi dầu ko bước nữa,

Gục lên súng mũ quên mất đời.

         Cách nói tránh về cái chết “ko bước nữa”, “quên mất đời” gợi tư thế ngạo nghễ của người lính Tây Tiến. Họ chủ động chấp nhận cái chết, coi nó chỉ đơn giản như một giấc ngủ nhưng thôi. Tư thế hi sinh “gục lên súng mũ” đầy xót xa nhưng cũng thật hào hùng. Hình ảnh về người lính quả cảm hi sinh đó sau này ta còn bắt gặp trong “Dáng đứng Việt Nam”: “ Và anh chết trong lúc đang đứng bắn – Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”. Câu thơ đã tiếp tục cảm hứng bi tráng lúc xây dựng chân dung người lính Tây Tiến.

         Và người lính Tây Tiến tiếp tục chịu sự thử thách của núi rừng miền Tây:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét ,

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người” .

          Các từ láy chỉ biên độ lặp lại thường xuyên của thời kì “chiều chiều”, “đêm đêm” liên kết với giải pháp nhân hóa “thác gầm thét”, “cọp trêu người” đã nhấn mạnh vẻ bí hiểm, dữ dội, hoang dại chứa đầy nguy hiểm, cái chết xoành xoạch rình rập dọa nạt người lính của núi rừng miền Tây. Sự nguy hiểm đó ko chỉ trải rộng trong ko gian nhưng còn kéo dài và lặp lại thường xuyên theo thời kì.

         Hai câu thơ cuối đoạn lại đột ngột chuyển cảnh:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

         Núi cao rừng rậm lùi xa, chỉ còn lại hương vị ấm áp tình nghĩa quân dân lan tỏa từ nồi cơm của các cô gái Thái. Từ cảm thán “ Nhớ ôi” đứng đầu câu thơ diễn tả nỗi nhớ da diết, ám ảnh khôn khuây của Quang Dũng cũng như người lính Tây Tiến về đồng bào miền Tây. Thi sĩ như nhói lòng lúc hồi ức lại cảnh đoàn quân quây quần quanh nồi xôi nếp thơm nức đang bốc khói. Đó là những phút chốc ấm áp ngắn ngủi nhưng lại dịu ngọt, tinh tế nên khắc sâu mãi trong tâm trí thi sĩ. Cách liên kết từ “mùa em” rất lạ mắt, gợi những liên tưởng đẹp, lãng mạn về những cô gái Thái vừa khỏe khoắn vừa dịu dàng nhưng thắm thiết mến thương. Hai câu thơ kết thúc đoạn một bài thơ Tây Tiến có âm điệu nhẹ nhõm tha thiết gợi cảm giác êm dịu, ấm áp, tạo tâm thế cho người đọc cảm nhận đoạn thơ tiếp theo.

          Trong những đoạn thơ còn lại, thi sĩ Quang Dũng tiếp tục hồi ức về cảnh những đêm liên hoan văn nghệ thắm thiết tình quân dân, những buổi chiều trên sông nước miền Tây thơ mộng, hư ảo, hồi ức về chân dung tập thể những người lính Tây Tiến quả cảm, hào hoa. Cuối bài thơ, Quang Dũng bộc lộ lời nguyện thề mãi gắn bó với miền Tây và đoàn quân Tây Tiến.

          Đoạn thơ đầu bài thơ Tây Tiến đã trình bày tài hoa và tâm hồn lãng mạn phóng khoáng của thi sĩ Quang Dũng. Đoạn thơ có tiếng nói giàu chất tạo hình, giàu nhạc điệu, gây ấn tượng táo tợn, dựng lên bức tranh sinh động, có chiều sâu về cảnh hành quân của đoàn quân Tây Tiến trên cái nền tự nhiên rừng núi hùng vĩ thơ mộng miền Tây. Qua đó, ta cảm thu được sự gắn bó thâm thúy, nỗi nhớ tha thiết của thi sĩ Quang Dũng về những tháng ngày đấu tranh trong đoàn quân Tây Tiến – một thời mãi mãi để nhớ và tự hào.

Bình giảng đoạn thơ đầu bài Tây Tiến – Bài mẫu 2


[wpcc-script type=”rocketlazyloadscript” async src=”https://pagead2.googlesyndication.com/pagead/js/adsbygoogle.js?client=ca-pub-2940752741914611″ crossorigin=”anonymous”]
[wpcc-script type=”rocketlazyloadscript”]

       Mỗi người nghệ sĩ đều gắn với một vùng văn hóa thẩm định nhất mực. Nếu Tô Hoài lên Tây Bắc viết truyện Vợ chồng A Phủ từ đau thương đã vùng lên đi theo cách mệnh, Tố Hữu nặng tình nặng nghĩa với những người dân nơi Việt Bắc thân yêu thì Quang Dũng lại chọn cho mình mảnh đất vùng biên giới Việt – Lào. Bởi vì đây chính là nơi nhưng đoàn quân Tây Tiến của thi sĩ hoạt động. Những năm tháng gian nan, vất vả, nguy hiểm đã qua đi, Tây Tiến cũng theo đó nhưng xa rồi giờ đây để lại trong lòng thi sĩ những kỉ niệm và nỗi nhớ. Đặc trưng nỗi nhớ đó, những vất vả khó khăn đó được trình bày rõ qua đoạn thơ đầu của bài thơ.

        Bốn câu thơ đầu mở ra một nỗi nhớ của thi sĩ lớn gắn liền với những hình ảnh cụ thể nhưng giờ đây đã xa rồi:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi.

         Nếu thi sĩ Tố Hữu yêu Việt Bắc với bốn mùa trên nương cao thì Quang Dũng nhớ Tây Tiến với hình ảnh con sông Mã. Con sông đó gắn liền với những đợt hành quân của người lính Tây Tiến, Nó vẫn nằm ở đây lặng lẽ đồng hành cùng những người chiến sĩ Hà Thành. Nó giống như một chứng nhân lịch sử ghi lại những trắc trở, những gian nan và những thắng lợi của người lính. Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” cất lên điệp vần với “chơi vơi” ở câu thơ sau tạo ra một âm mở làm cho tiếng gọi đó như vang vọng cả núi rừng, nỗi nhớ đó như khỏa lấp cả ko gian rộng lớn rừng núi và thời kì quá khứ đã xa đi. “Sài Khao”, “Mường Lát” là những địa danh nhưng đoàn quân Tây Thực hiện quân. Người lính Tây Tiến phải hành quân đi từ sáng sớm trong khi những màn sương dày đặc khắp cành cây hốc núi và trở về lúc đêm tối cũng mở màn yên lặng như hơi. Qua đó ta có thấy được những vất vả của người lính Tây Tiến.

        Tuy nhiên, sự vất vả gian nan, nguy hiểm nhưng đoàn quân Tây Tiến phải trải qua còn được trình bày rõ hơn ở bức tranh tự nhiên về núi rừng Tây Bắc:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Hẻo lánh cồn mây, súng ngửi trời

Nghìn thước lên cao, nghìn thước xuống

Nhà người nào Pha Luông mưa xa khơi

          Bốn câu thơ thôi nhưng bức tranh núi rừng Tây Bắc hiện lên vừa mang nét thi vị lại vừa mang nét hùng vĩ. Các từ ngữ “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “Hẻo lánh”, “súng ngửi trời”, “nghìn thước” trình bày sự nguy hiểm trên trục đường nhưng người lính phải đi qua. Hai câu thơ đầu những vần trắc nhiều hơn vần bằng càng trình bày sự khúc khuỷu nguy hiểm của đường đi. Đặc trưng hình ảnh “súng ngửi trời” mang một nét lãng mạn giống như “đầu súng trăng treo” của tình đồng chí trong bài thơ của Chính Hữu. Kết thúc bức tranh tự nhiên đẹp hùng vĩ nhưng nguy hiểm đó là một câu thơ toàn âm bằng, vần bằng. Sau những giờ hành quân gian nan, nguy hiểm người lính Tây Tiến trở về bên những mái nhà luông trong yên bình.

        Bằng văn pháp lãng mạn, Quang Dũng mô tả cái chết của người lính Tây Tiến ko hề bi quan, thi sĩ dùng cách nói giảm nói tránh để thấy cái chết của người lính nhẹ tựa lông hồng:

Anh bạn dãi dầu ko bước nữa

Gục lên súng mũ quên mất đời !

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

         Tác giả ko nói là người lính mất, hi sinh nhưng nói “dãi dầu ko bước nữa”, gục lên súng mũ quên đi cuộc đời đầy những đau thương. Chỉ là người lính Tây Tiến mệt là gục lên súng mũ để quên đi cuộc đời. Tự nhiên Tây Bắc hiện lên với những điều vô cùng nguy hiểm, người dân và người lính chiều chiều phải đương đầu với thú dữ còn đêm tới thì cọp “trêu” người. Ở đây ta thấy nét vui tươi hóm hỉnh trong hồn thơ của Quang Dũng.

        Bấy nhiêu cuộc hành quân, bấy nhiêu kỉ niệm, thi sĩ một lần nữa lại nghẹn ngào cất lên nỗi nhớ tha thiết với những đồng chí của mình:

Nhớ ôi Tây tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

       Nhưng ở đây ko phải nỗi nhớ về những cuộc hành quân nữa nhưng là nỗi nhớ về những giờ ngơi nghỉ, những mái nhà thân yêu của người dân chiều chiều về lên khói cơm đón tiếp người lính Tây Tiến.

       Có thể nói đoạn thơ tụ hội tất cả những tâm tình, cảnh đẹp, nỗi nhớ, niềm thương của thi sĩ đối với người lính Tây Tiến và cảnh rừng Tây Bắc. Đoạn thơ ko chỉ vẽ lên bức tranh tự nhiên núi rừng đầy trữ tình nhưng cũng đầy nguy hiểm, một bức tranh sinh hoạt đầm ấm tình người nhưng còn chất chưa một nỗi nhớ da diết về đồng chí cũ. Tuy nhiên ta thấy được sự lãng mạn và hóm hỉnh trong hồn thơ Quang Dũng.

…/…

Trên đây là các bài văn mẫu Bình giảng đoạn thơ đầu bài Tây Tiến do Trường Trung Cấp Nghề Thương Mại Du Lịch Thanh Hoá sưu tầm và tổng hợp, mong rằng với nội dung tham khảo này thì các em sẽ có thể hoàn thiện bài văn của mình tốt nhất!

Đăng bởi: Trường Trung Cấp Nghề Thương Mại Du Lịch Thanh Hoá

#Bình #giảng #đoạn #thơ #đầu #bài #Tây #Tiến #hay #nhất

Lương Sinh

Lương Sinh là một tác giả đầy nhiệt huyết trong lĩnh vực giáo dục, ngoại ngữ và kiến thức. Với hơn 10 năm kinh nghiệm làm việc trong ngành, cô đã tích lũy được rất nhiều kiến thức và kỹ năng quan trọng. Với tình yêu với ngôn ngữ và mong muốn chia sẻ kiến thức, Lương Sinh đã quyết định sáng lập blog tmdl.edu.vn. Trang web này không chỉ là nơi chia sẻ những kinh nghiệm và kiến thức cá nhân của cô, mà còn là một nguồn thông tin hữu ích cho những người quan tâm đến giáo dục, kiến thức và ngoại ngữ. Đặc biệt là tiếng Anh và tiếng Trung Quốc.
Back to top button