Tuyển chọn những bài văn hay chủ đề Bình giảng khổ thơ thứ 5 bài thơ Quốc gia của Nguyễn Đình Thi. Các bài văn mẫu được biên soạn, tổng hợp ngắn gọn, cụ thể, đầy đủ từ các bài viết hay, xuất sắc nhất của các bạn học trò trên cả nước. Mời các em cùng tham khảo nhé!
Bình giảng khổ thơ thứ 5 bài thơ Quốc gia của Nguyễn Đình Thi – Bài mẫu 1
Quốc gia (1948 – 1955) là một trong những bài thơ nổi tiếng của Nguyễn Đình Thi nói riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Bài thơ mang rõ phong cách thơ Nguyễn Đình Thi. Chủ đề bao trùm của bài thơ là lòng yêu nước nồng nàn, thiết tha, ý thức độc lập tự chủ, lòng tự hào về nhân dân quốc gia người hùng, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, trong đau thương nô lệ đã quật khởi đứng lên thắng lợi huy hoàng. Trong đoạn thơ viết về quốc gia từ trong đau thương nô lệ, căm hờn đã đứng lên ngời sáng; bỗng nổi trội lên 4 câu thơ với những hình ảnh, từ ngữ thật rực rỡ gợi cảm “Ôi những… người yêu”.
Bạn đang xem bài: Bình giảng khổ thơ thứ 5 bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi(hay nhất)
Hai câu thơ đầu là một bức tranh về quốc gia trong chiến tranh đau thương. Theo lời kể của tác giả “Trên đường hành quân cùng quân nhân, một buổi chiều muộn, qua cánh đồng miền trung du, nhìn lên trời cao trước mặt, đồn giặc có dây thép gai nhọn sắc in lên bầu trời có ráng đỏ như máu chiếu xuống cánh đồng một màu đỏ ối” thi sĩ đã viết nên hai câu thơ thật đớn đau xót xa:
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
[wpcc-script type=”rocketlazyloadscript” async src=”https://pagead2.googlesyndication.com/pagead/js/adsbygoogle.js?client=ca-pub-2940752741914611″ crossorigin=”anonymous”]
[wpcc-script type=”rocketlazyloadscript”]
Hai câu thơ có sức khơi gợi lớn. Nó diễn tả một cách cô đọng và tập trung cảnh xóm thôn quê hương chảy máu: “Những cánh đồng quê chảy máu” – Chỉ có sáu tiếng gợi lên trong tâm tư chúng ta nhiều mối liên tưởng không giống nhau: Cảnh những trận càn trên đồng lúa, cảnh giặc đuổi người, bắn người trên cánh đồng, cảnh những vụ gặt giành tay giặc từng hạt thóc, từng bông lúa và mỗi hạt thóc bông lúa đều thấm máu nhân dân. Đó còn là cảnh những người du kích đổ máu để bảo vệ đồng quê, ruộng lúa xóm làng. Thi sĩ dùng giải pháp nhân hoá đơn sơ nhưng diễn tả được tình cảnh đau thương, ý thức quả cảm của đồng bào và quê hương trong tranh đấu.
Sức khơi gợi của câu tiếp theo càng lớn hơn nữa. Hình ảnh ở đây gợi lên ách chiếm đóng nặng nề của giặc. Qua lời thơ tưởng dường như xóm thôn đồng quê ko còn cây cối nhà cửa nữa, chỉ có dây thép gai của giặc như nanh vuốt của thú dữ trùm lên tất cả, in trên nền trời. Cùng với hai chữ “chảy máu” ở trên, hai chữ “đâm nát” ở dưới gợi lên biết bao đớn đau… Trong tương quan tiếng nói đó, hai tiếng “trời chiều” ko còn gợi lên sự yên bình yên ả nữa.
Chiều mộng hoà thơ trông nhánh duyên…
(Thơ duyên – Xuân Diệu)
Việt Nam, quốc gia ta ơi
(Việt Nam quê hương ta – Nguyễn Đình Thi)
Nhưng nó lại gợi lên màu máu đỏ. Chúng ta tưởng tượng một mảnh trời chiều đỏ rực lúc mặt trời vừa lặn in những hình dây thép gai lởm chởm nhọn hoắt tưởng dường như đâm nát cả trời chiều, làm cho nền trời càng ứa máu. Câu thơ của Nguyễn Đình Thi gây ấn tượng mạnh bằng thủ pháp ngược sáng điện ảnh, làm cho những đường nét, màu sắc tương phản gay gắt. Từ một hình ảnh thực thu vào tầm mắt trong một chiều hành quân qua vùng Bắc Giang, hình ảnh thơ đã được nâng lên thành hình ảnh biểu tượng thâm thúy cho quốc gia đau thương trong chiến tranh bị quân thù chiếm đóng.
Sống trên một quốc gia thường xuyên phải đương đầu đủ loại ngoại xâm: từ Bắc xuống, từ Nam lên, từ Tây sang, từ Đông vào, ông cha ta đã thấm thía thế nào là “Nước mất nhà tan”, “Giặc sa nhà cháy”. Cho nên lịch sử văn học Việt Nam có hẳn một mảng thơ ca viết về tội ác quân thù trong chiến tranh xâm lược. Trong Đại cáo bình Ngô, Nguyễn Trãi viết:
Nướng thường dân trên ngọn lửa hung tàn
Tàn hại cả côn trùng thảo mộc
Độc ác thay trúc Nam Sơn…
Ko rửa hết mùi
Trong bài Chạy Tây, Nguyễn Đình Chiểu cũng đã viết:
Bỏ nhà lũ trẻ lơ thơ chạy
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây
Trong bài Bà má Hậu Giang, Tố Hữu đã dựng lên được cả một bức tranh sinh động về cảnh “Đốt sạch, giết thịt sạch” nhưng thực dân Pháp đã dành cho cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ:
Hỡi ơi việc chửa thành công
Hôm nay máu chảy đỏ đồng Hậu Giang
Giặc lùng giặc đốt xóm làng
Xơ xác cây cối toang hoang cửa nhà
Một vùng trắng bãi tha ma
Lặng im ko một tiếng gà gáy trưa.
Sau này, Chế Lan Viên đã có một câu thơ đầy trí tuệ về tội ác quân địch:
Chúng nhân số dân ta lên cùng với số đạn
Khô cằn xuân và tuyệt tự cả trăm vùng
Hai câu thơ của Nguyễn Đình Thi như tả ngoại cảnh nhưng thực ra là tả tình. Cho nên mới có tiếng “Ôi!” ở đằng trước. Biết bao tình cảm xót xa đớn đau nhức nhối căm thù trong lòng người chiến sĩ được chứa đựng trong những hình ảnh thơ đấy. Vì thế:
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng ngay ngáy nhớ mắt người yêu.
Nếu hai câu đầu thiên về ngoại cảnh thì tới hai câu thơ này đã đi sâu hơn vào tâm trạng. Trên cái nền của cảnh quốc gia đau thương, của những gian lao quả cảm trong chiến tranh, bỗng vụt sáng long lanh trong tâm tưởng của người chiến sĩ hình ảnh đôi mắt người yêu dõi theo sau những ô cửa sổ như những ngôi sao xanh của kỳ vọng và khát vọng, soi tỏ bầu trời đêm:
Ngôi sao nhớ người nào nhưng sao nhấp nhánh
Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây
Ngọn lửa nhớ người nào nhưng hồng đêm lạnh
Sưởi ấm lòng chiến sĩ giữa nghìn cây
Anh yêu em như yêu quốc gia
Vất vả đau tương tươi thắm vô ngần
Anh nhớ em mỗi bước đường anh bước
Mỗi tối anh nằm, mỗi bữa anh ăn
Ngôi sao trong đêm ko bao giờ tắt
Ngọn lửa trong rừng bập bùng đỏ rực
Chúng ta yếu nhau tự hào làm người
(Nhớ – Nguyễn Đình Thi)
Hình ảnh người lính, qua hai câu thơ là hình ảnh “những con người đẹp nhất” vì họ đã “biết căm thù và biết mến thương”. Biết bao nỗi căm hờn ẩn chứa trong trái tim như được dồn nén lại qua từ “nung nấu” và cũng có biết bao tình cảm mến thương nồng nàn, thiết tha cháy bỏng của người chiến sĩ đối với ý trung nhân được đúc lại trong hai chữ “ngay ngáy” đấy. Hai từ đó đi sóng đôi với nhau, bổ sung cho nhau làm nổi trội vẻ đẹp tâm hồn của người lính. Họ vừa có ý chí quyết tâm xoá sổ quân địch chung, giành độc lập tự do cho Tổ quốc vừa có trái tim lãng mạn mộng mơ. Thi sĩ Nguyễn Đình Thi đã cảm nhận thâm thúy những rung động tinh tế trong tâm hồn người lính ra trận. Từ “dài” đi với từ “nung nấu” trong câu thơ trên cùng với từ “ngay ngáy” ở câu thơ sau cũng đã diễn tả rất thành công mối quan hệ giữa tình cảm túc trực và đột xuất, trình bày thật hoàn thiện và thâm thúy sự hoà hợp giữa cái riêng và cái chung, giữa tình yêu lứa đôi và tình yêu quốc gia của người chiến sĩ.
Chỉ bằng bốn câu thơ ngắn gọn thi sĩ đã diễn tả được tình cảnh đau thương, ý thức quả cảm của đồng bào và quê hương trong tranh đấu. Và nổi trội lên là tình cảm xót xa đớn đau nhức nhối căm thù giặc trong lòng người chiến sỹ. Song cái đẹp của hình ảnh đấy là tâm hồn của các anh quân nhân cụ Hồ vừa biết căm thù vừa biết mến thương, biết gắn tình yêu Tổ quốc với tình yêu lứa đôi, biết gắn cái riêng với cái chung để làm nên thắng lợi.
Là một dân tộc có một sức sống tiềm tàng mãnh liệt, chúng ta ko thể chìm đắm mãi trong đau thương, nô lệ u tối nhưng cả quốc gia đã quật khởi đứng lên với gương mặt quê hương ngời sáng:
Từ những năm đau thương tranh đấu
Đã ngời lên nét mặt quê hương
Bằng thủ pháp đối lập…, tác giả đã làm nổi trội vẻ đẹp Việt Nam, ý thức quật cường kiên cường Việt Nam. Trong kháng chiến chống Pháp Tố Hữu đã từng viết:
Ta như thuở xưa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Lửa tranh đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi
Và sau này trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, suy ngẫm về sức sống thần kì của dân tộc, Tố Hữu cũng lại viết nên những câu thơ đầy tự hào:
Chúng muốn đốt ta thành tro bụi
Ta hoá vàng phẩm chất lương tâm
Chúng muốn ta bán mình ô nhục
Ta làm sen thơm ngát giữa đầm;
Việt Nam! Ơi Tổ quốc thương yêu
Trong khổ đau Người đẹp hơn nhiều
Việt Nam trong lửa đạn sáng ngời
Việt Nam vốn là dân tộc giàu phẩm chất “hồn hậu, nhân ái, chan hoà” nhưng “lành với bụt ko người nào lành với ma”. Mỗi lúc quân địch ngoại xâm đặt bàn chân dơ dáy cùng với những mưu đồ đen tối lên quốc gia ta thì tức tốc “tre thành chông – sông là lửa nhưng Điện Biên mới chỉ là bài học trước hết”:
Bát cơm chan đầy nước mắt
Bay còn giằng khỏi mồm ta
Thằng giặc Tây thằng chúa đất
Đứa đè cổ, đứa lột da
“Bát cơm” hiện thân sự sống hàng ngày của ta, ta phải tranh giành từ bàn tay khắc nghiệt của tự nhiên, phải đổ mồ hôi, sôi nước mắt “dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần”. Thế nhưng lúc ta đã bưng lên mồm, giặc còn giằng một cách thô bạo. “Thằng giặc Tây, thằng chúa đất – Đứa đè cổ, đứa lột da”. Sự cấu kết giữa phong kiến và đế quốc thực dân là đặc trưng của một nước thuộc địa. Đây là một liên minh ma quỷ để nhằm xoá sổ những dân tộc vô tội. Hình ảnh “đứa đè cổ, đứa lột da” là một hình ảnh ẩn dụ đã làm nổi trội được tội ác của quân địch xâm lược và số phận bi thương tội nghiệp của dân ta. Qua lời thơ, số phận người dân Việt Nam có khác gì con chim con cá chúng vặt lông làm thịt lúc nào chẳng được:
Chúng coi mình như trâu như chó
Chúng coi mình như cỏ như rơm
(Phan Bội Châu)
Một đời đau suốt trăm năm
Chim treo trên lửa cá nằm dưới dao
(Tố Hữu)
Giặc ỷ thế vào sức mạnh của vũ khí, của sự tàn bạo “xiềng xích, súng đạn” tối tân. Nhưng “Máu ko thể dìm được chân lí” (Gooc-ki). Chúng dù tàn bạo bạo tàn tới đâu cũng ko huỷ diệt được “những dòng sông của thơ ca nhạc hoạ, những cánh đồng bốn mùa hoa lá” xanh tươi, thơ mộng, cũng ko thể bắn được tấm lòng của những người dân vốn sống trên quốc gia “Bao giờ hết cỏ; Việt Nam mới hết người đánh Tây” (Nguyễn Trung Trực):
Xiềng xích chúng bay ko khoẻ được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bay ko bắn được
Lòng dân ta yêu nước thương nhà
(Hình ảnh xiềng xích đối lập với trời; súng đạn: hữu hình đối lập với lòng dân ta: vô hình).
Khói nhà máy cuộn trong sương núi
Kèn gọi quân vang vọng cánh đồng
Ôm quốc gia những người áo vải
Đã đứng lên thành những người hùng
Bằng một hình ảnh “khói” và âm thanh “kèn”, tác giả cũng đã dựng được một cách sinh động bức tranh của đời sống kháng chiến. “Kèn” là âm thanh vang vọng nhất của cả dân tộc lúc bấy giờ. Đó là tiếng kèn của trận mạc thôi thúc, hối thúc để sẵn sàng cho một cuộc ra trận của cả dân tộc “Những đường Việt Bắc của ta – Đêm đêm rầm rập như là đất rung”. Động từ “nhòm” diễn tả động tác vòng hai tay bao lấy nhân vật và giữ sát vào người, nuôi mãi trong lòng (tự điển). Nhờ thế, câu thơ đã làm nổi trội được lòng yêu nước thiết tha sâu nặng của những người nông dân “Những người áo vải”, lực lượng chủ yếu, trụ cột của phong trào kháng chiến, giải phóng dân tộc:
Mặt người vất vả in sâu
Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn
Đất nghèo nuôi những người hùng
Chìm trong máu chảy lại vùng đứng lên
Từ nay trở đi họ ko còn là “con ong cái kiến, cái cò, cái vạc, cái nông” nữa nhưng là người người hùng lớn lao của thời đại mới sẽ viết nên những trang sử vàng chói lọi nhất:
Dân ta gan góc người hùng
Trẻ làm đuốc sống, già xông lửa đồn
Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng
Bằng sự từng trải của chính bản thân, Nguyễn Đình Thi đi tới những nói chung cao độ về những gieo neo, những mất mát hy sinh to lớn của quốc gia trong cuộc kháng chiến chống Pháp:
Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hy sinh
“Ngày nắng đốt dội”, khó khăn tiếp nối khó khăn, thử thách tiếp nối thử thách. “Mỗi bước đường mỗi bước hy sinh”. Điệp từ “mỗi” tạo nên sự hô ứng làm nổi trội sự hy sinh lớn lao. Đúng là trục đường đi tới đích độc lập tự do đâu phải là trục đường đầy hoa thơm quả ngọt nhưng “Đường qua máu chảy – Máu đọng chưa khô. Máu lại đầy Trăm đắng nghìn cay”. Nhưng trên trục đường đi tới, bước tiếp đấy, con người Việt Nam vẫn hiện lên trong một tư thế thật tự hào, một vẻ đẹp tuyệt vời.
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta mênh mông ánh rạng đông
“Trán” là bộc lộ của sự suy nghĩ, của trí tuệ; còn “lòng” ở câu thơ này là bộc lộ của tư tưởng, tình cảm, tâm hồn. Vầng trán của con người mới đã cháy bỏng và rực sáng ý tưởng về đất trời, quê hương mới để tiến lên “Trục đường sáng tuyệt vời” (Chế Lan Viên). Còn tấm lòng của họ cũng toả sáng rộng lớn ánh rạng đông của lịch sử và tương lai. Con người có khối óc và trái tim đấy sẽ trở thành những bông hoa của quốc gia trong thời đại ta. Ở trong tranh đấu cũng như trong xây dựng họ đều xuất hiện với tư thế, tầm vóc thật kì vĩ, phảng phất màu sắc thần thoại:
Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài lên đỉnh dốc cheo leo
Núi ko đè nổi vai vươn tới
Lá nguỵ trang reo với gió đèo
(Lên Tây Bắc – Tố Hữu)
Yêu biết mấy những con người đi tới
Hai cánh tay như hai cánh bay lên
Ngực dám đón những phong ba dữ dội
Chân đạp bùn ko sợ những loài sen
(Mùa thu mới – Tố Hữu)
Bình giảng khổ thơ thứ 5 bài thơ Quốc gia của Nguyễn Đình Thi – Bài mẫu 2
[wpcc-script type=”rocketlazyloadscript” async src=”https://pagead2.googlesyndication.com/pagead/js/adsbygoogle.js?client=ca-pub-2940752741914611″ crossorigin=”anonymous”]
[wpcc-script type=”rocketlazyloadscript”]
Có những vần thơ xao xuyến bổi hổi. Có những vần thơ ngọt ngào say đắm. Lại có những vần thơ đĩnh đạc, hào hùng. Còn có lúc, ta bị ám ảnh khôn nguôi trước những vần thơ mến thương và căm giận:
“Ôi những cánh đồng quê chảy máu,
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng ngay ngáy nhớ mắt người yêu”.
“Quốc gia” là bài thơ sáng giá nhất của Nguyễn Đình Thi viết trong kháng chiến chống Pháp, cũng là bài thơ tuyệt tác viết về đề tài quê hương quốc gia của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Nó đã được tác giả thai nghén và tạo nên trong một quá trình lịch sử khá dài (1948 – 1955). Các áng thơ “Đêm mít tinh”, “Sáng mát trong như sáng năm xưa” – đã khơi nguồn cảm hứng để Nguyễn Đình Thi khám phá và trình bày tuyệt đẹp tình yêu nước một cách nồng nàn, say đắm.
“Quốc gia” như một phức điệu đa thanh nói về xúc cảm mùa thu quê hương xưa và nay. Là tiếng nói say mê về cảnh tự nhiên tươi đẹp, hùng vĩ, là niềm tự hào về truyền thống quật cường của dân tộc người hùng. Nó là tiếng nói xót xa, căm giận quân xâm lược đang giày xéo quốc gia thân yêu. Phần cuối bài thơ biểu lộ niềm tự hào của người chiến sĩ trước tư thế tranh đấu và thắng lợi lẫm liệt hiên ngang “rũ bùn đứng dậy sáng lòa!” của quốc gia. Đoạn thơ bốn câu trên đây trích trong phần thức ba của bài “Quốc gia”.
Thi sĩ – người chiến sĩ – như đang nắm chắc tay súng “lắng hồn núi sông nghìn năm”, lắng tai những âm vang của lịch sử, nòi “rì rầm trong tiếng đất” tự nghìn xưa “vọng nói về”: những Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa… bất tử! Từ quá khứ nghìn xưa trở về hiện nay, câu thơ vút lên nghẹn ngào, đớn đau:
“Ôi những cánh đồng quê chảy máu”.
Cảnh tượng đau thương nhưng thi sĩ nói tới là mùa thu 1948, lúc cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược của nhân dân ta đang diễn ra vô cùng khốc liệt! Nhiều đô thị, nhiều vùng nông thôn rộng lớn của quốc gia ta đang bị giặc Pháp chiếm đóng và giày xéo “Đường làng bao xương máu tơi bời – Vườn ko nhà trống toang hoang” (“Làng tôi” – Văn Cao). “Những cánh đồng quê chảy máu” – hình ảnh hoán dụ tượng trưng cho quốc gia thân yêu, những xóm thôn thân thuộc đang bị quân thù càn quét, bắt giết thịt man rợ. Máu những người nông dân hiền lành đã chảy ngập đường thôn, luống cày… dưới làn bom đạn của lũ cướp nước. Xưa kia thuở yên bình, quốc gia là “những cánh đồng thơm mát…”, “xanh xanh bãi mía bờ dâu…”, thì kể từ lúc “súng giặc đất rền”, đã trở thành tang thương, điêu tàn với “những cánh đồng quê chảy máu”. Nhân dân ta bị giặc Pháp thảm sát man rợ. Hai chữ “chảy máu” lên án tội ác và chính sách tam quan của quân cước nước: giết thịt sạch, cướp sạch, đốt phá sạch! Từ “Ôi” cảm thán diễn tả nỗi lòng đớn đau, xót xa ko thể nào kể xiết!
Từ cái nhìn toàn cảnh về ko gian đau thương, về “những cánh đồng quê chảy máu”, thi sĩ đứng lặng nhìn về các phía chân trời. Một nét vẽ thậm xưng, lạ mắt, rất thông minh:
“Đây thép gai đâm nát trời chiều”.
Quân giặc tàn bạo ra sức bắn giết thịt, càn quét, chiếm đất, dồn dân. Đồn giặc như nấm độc mọc lên khắp mọi nơi. “Dây thép gai” cũng là một hình ảnh hoán dụ nói về bốt đồn giặc, sự chiếm đóng man rợ của quân cướp nước. Những núi thép gai, những hàng rào dây thép gai tua tủa nhọn hoắt bao bọc xung quanh đồn giặc ko chỉ nhằm chống đỡ những trận tấn công vũ bão của quân đội ta, nhưng còn “đâm nát trời chiều”. Một cách nói thậm xưng đầy ấn tượng về tội ác và thủ đoạn cướp nước của giặc Pháp. “Mấy trăm năm nhấp nhoáng mộng bình yên” là những chiều thôn trang êm đềm có “cánh cò trắng vẫy mênh mông”, có “tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn”, có tiếng sáo mục đồng dẫn trâu về thôn… Nhưng nay còn đâu nữa? Cảnh trời chiều quê hương đã và đang bị dây thép gai đồn giặc “đâm nát”. Nỗi đau từ đất trời như đang cứa nát, đâm nát lòng người!
Ở phần đầu bài thơ, Nguyễn Đình Thi nói về cảnh sắc tự nhiên tươi đẹp và hùng vĩ của quốc gia với trời xanh, những cánh đồng quê thơm mát, những ngả đường mênh mông, những dòng sông đỏ nặng phù sa – và tất cả đều “của chúng ta”. Nhưng từ lúc giặc tràn tới đồng quê thì “chảy máu”, trời chiều thôn trang thì bị dây thép gai “đâm nát”, biết bao đớn đau, căm hờn! Tác giả “Quốc gia” tạo nên sự đối lập, tương phản đầy ấn tượng: xưa và nay, yên bình với chiến tranh, hữu tình nên thơ với điêu tàn, tang thương – để lên án tội ác man rợ của giặc Pháp nhưng trời ko thể dung thứ, người người đều căm giận! Sự liên kết tài tình các giải pháp tu từ hoán dụ, cảm thán, thậm xưng, và tương phản đã tạo nên vần thơ giàu hình tượng và biểu cảm. Qua đó, ta cảm thu được cốt cách của Nguyễn Đình Thi: hồn thơ đẹp, tài hoa, xúc cảm dồn nén, ngôn từ xác thực, hình tượng thông minh. Thi sĩ đã dẫn hồn người đọc sống và cảm nhận với hiện thực quốc gia một thời khói lửa, mở rộng cho ta một trường liên tưởng về ko gian nghệ thuật để mọi người cùng suy ngẫm về dòng lịch sử và hành trình bi tráng của dân tộc. Và đó cũng là cái giá của độc lập tự do để ta nhớ và tự hào!
Gần 150 năm về trước, trong bài thơ “Chạy giặc”, Nguyễn Đình Chiểu đã căm giận lên án quân xâm lược:
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây…
(…) Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây…”
Có biết bao câu thơ xúc động làm sục sôi lòng người những năm tháng quốc gia “ra trận”:
“Quê hương ta từ ngày kinh khủng
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang…”.
(“Bên kia sông Đuống” – Hoàng Cầm)
Đó là những vần thơ một thời tạc vào thời kì và lòng người để ta nhớ mãi.
Câu thơ thứ ba nói lên tâm trạng người chiến sĩ ra trận:
“Những đêm dài hành quân nung nấu”.
Câu 1 nói về “những cánh đồng quê chảy máu”, câu ba tứ thơ chỉ rõ “Những đêm dài hành quân nung nấu”, từ ko gian đau thương mở ra thời kì căm giận, ko chỉ một đêm, năm mười đêm nhưng là “những đêm dài”… Cấu trúc song hành, điệp lại 2 lần chữ “những”, chữ “nấu” vần với với chữ “máu” (vần chân) đã tạo nên nhạc điệu, nhạc điệu trầm hùng đang nung nấu tâm hồn người chiến sĩ xung kích trên đường hành quân ra trận. “Nung nấu” vì căm thù dữ dội. Nòng súng nóng bỏng, lưỡi lê nhọn hoắt căm thù! Mối thù đối với giặc Pháp cướp nước nung nấu, ngùn ngụt bốc lửa, sục sôi trong lòng, ko chỉ trong một thời kì hữu hạn nhưng kéo dài trong thời kì vô hạn “Những đêm dài hành quân nung nấu”. Hai chữ “nung nấu” bộc lộ thâm thúy tình yêu nước của “những người áo vải – Đã đứng lên thành những người hùng!”.
Càng nung nấu căm hờn quân xâm lược bao nhiêu thì lòng càng yêu quê hương quốc gia bấy nhiêu. Người lính ra trận nung nấu, sục sôi căm thù giặc lúc nhìn thấy quốc gia tang thương, điêu tàn, “những cánh đồng quê chảy máu…”, nhìn thấy “những bóng thù hắc ám”, những đồn giặc mọc lên với bao “dây thép gai đâm nát trời chiều”. Câu thơ thứ tư tiếp theo là một nét vẽ, nét khắc chiều sâu tâm hồn người chiến sĩ ra trận; nhiều khám phá và thông minh:
“Bỗng ngay ngáy nhớ mắt người yêu”.
“Nung nấu” căm thù và “ngay ngáy nhớ” là hai nét bộc lộ của một tâm trạng, làm nên sức mạnh tranh đấu và thắng lợi của anh Vệ quốc quân thời kháng chiến 9 năm đánh Pháp. Anh nhìn thấy trận với sức mạnh căm thù giặc, với tình yêu nước thương dân, với bao nỗi nhớ. Nhớ luống cày mái rạ, nhớ bãi mía nương dâu, nhớ giếng nước gốc đa, nhớ “người yêu chung”… “nhớ mắt người yêu”. “Mắt người yêu” cũng là một hình ảnh hoán dụ rất đắt diễn tả hình bóng quê hương, vẻ đẹp duyên dáng “người yêu chung” sau lũy tre làng nhưng anh nhớ lắm:
“Vầng trán em mang trời quê hương
Mắt em như giếng nước thôn làng
Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm
Em đã bao ngày em thương nhớ?….”
“Mắt người Sơn Tây” – Quang Dũng
“Nhớ mắt người yêu” với bao kỉ niệm đẹp một thời trẻ trai. “Xa em năm nhớ – gần em mười thương”. Chàng trai cày ngày xưa nhớ quê nhà là nhớ hương vị đặm đà “bát canh rau muống, quả cà giòn tan”, là “nhớ người nào tát nước bên đường hôm nao”. Anh quân nhân Cụ Hồ giã từ nơi chôn nhau cắt rốn, nơi “nước mặn đồng chua”, nơi “đất cày lên sỏi đá”, có người nhớ thầm “Bầm ra ruộng cấy bầm run – Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non”. Có người nhớ “người vợ trẻ – mòn chân bên cối gạo canh khuya”. Chàng lính trẻ hào hao trong đoàn binh Tây Tiến thì lại “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Có trăm nghìn nỗi nhớ quê, nhớ nhà, nhớ người thân yêu: “Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét – Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng” (Chế Lan Viên), v.v…
Trở lại câu thơ “bỗng ngay ngáy nhớ mắt người yêu”, hai chữ “ngay ngáy” tức là sốt ruột, ko yên tâm (Tự điển tiếng Việt); diễn tả nỗi nhớ xôn xao, rung động, dâng lên như những đợt sóng vỗ mãi trong lòng. Đã có nỗi nhớ “bổi hổi bổi hổi”. Đã có sự vương vấn “ko yên một bề”. Đã có tâm tình khát khao “nhớ người nào, người nào nhớ, hiện giờ nhớ người nào…”. Câu thơ “Bỗng ngay ngáy nhớ mắt người yêu” là một nét vẽ rất đẹp trình bày văn pháp tài hoa của Nguyễn Đình Thi. “Nhớ” là cảm hứng nhiều màu sắc và dáng vẻ đã làm nên những câu thơ hay, những vần thơ đẹp của Nguyễn Đình Thi trong tập thơ “Người chiến sĩ”:
… “Anh yêu em như anh yêu quốc gia
Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần
Anh nhớ em mỗi bước đường anh bước
Mỗi tối anh nằm mỗi miếng anh ăn”…
(Nhớ)
Trong cái chung nhớ nước, nhớ “nguồn thiêng ông cha” (Hữu Loan), lại có cái riêng “bỗng ngay ngáy nhớ mắt người yêu”. Có nỗi hờn “nung nấu”, có nỗi nhớ “ngay ngáy” nên mới có sức mạnh tranh đấu và niềm tin thắng trận: “Anh lại tìm em – Em mặc yếm thắm – Em thắt lụa hồng – Em đi trẩy hội non sông – Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh” (Hoàng Cầm).
Tình cảm là cái gốc của thơ ca, là ngọn nguồn thông minh của thơ ca. Thơ chỉ đẹp lúc thơ ca hút phì nhiêu, phù sa trong lòng đất – hiện thực cuộc sống – nhưng nảy mầm xanh tươi, đơm hoa kết trái dâng hương thơm, vị ngọt cho đời. Đoạn thơ của Nguyễn Đình Thi như một bông hoa đẹp trong cành hoa đẹp đã mang hơi thở sốt dẻo của thời đại, mang tình yêu quốc gia mãnh liệt của con người Việt Nam trong ba nghìn ngày khói lửa.
Đọc đoạn thơ trên, ta cảm thu được phần nào vẻ đẹp của phong cách nghệ thuật của Nguyễn Đình Thi, một hồn thơ giàu phong cách thông minh. Hiện thực chiến tranh: quốc gia điêu tàn, dân tộc đau thương trong bom đạn quân thù đã được diễn tả một cách tuyệt vời qua những vần thơ súc tích, biểu cảm và giàu hình tượng.
“Cánh đồng quê chảy máu”, “Dây thép gai đâm nát trời chiều” là những hình ảnh thơ mới mẻ, lạ mắt và hay, “Bỗng ngay ngáy nhớ mắt người yêu” là một hình ảnh mang tính kế thừa thông minh, trình bày một hồn thơ chiến sĩ cho ta nhiều rung cảm thấm thía.
Đọc “Quốc gia” của Nguyễn Đình Thi, tâm hồn ta được bồi đắp bao tình cảm đẹp trở thành trong sáng và phong phú, để ta yêu, để ta nhớ, ta sống lại và tự hào về những năm tháng hào hùng và oanh liệt với ngọn lửa Điện Biên thần kì của quốc gia và dân tộc trong thời đại Hồ Chí Minh.
Tương tự Trường Trung Cấp Nghề Thương Mại Du Lịch Thanh Hoá đã trình diễn xong bài văn mẫu Bình giảng khổ thơ thứ 5 bài thơ Quốc gia của Nguyễn Đình Thi. Kỳ vọng sẽ giúp ích các em trong quá trình làm bài và ôn luyện cùng tác phẩm. Chúc các em học tốt môn Văn!
Đăng bởi: Trường Trung Cấp Nghề Thương Mại Du Lịch Thanh Hoá
#Bình #giảng #khổ #thơ #thứ #bài #thơ #Đất #nước #của #Nguyễn #Đình #Thi #hay #nhất
Trang chủ: tmdl.edu.vn
Danh mục bài: Tổng hợp