Việt Nam có 18 đời Hùng Vương dựng nước, trong đó vị vua Hùng thứ 18, triều đại của vua Hùng cuối cùng, có hai người con rể được dân gian truyền tụng. Trong bài viết sau đây, xin mời các bạn cùng trường Trường Trung Cấp Nghề Thương Mại Du Lịch Thanh Hoá tìm hiểu Con rể vua hùng là ai? Kể tên những người con rể của vua Hùng.
Thông tin về 18 đời Vua Hùng
Vua Hùng hay vẫn còn gọi là Hùng Vương là tên hiệu các vị thủ lĩnh tối cao của nhà nước Văn Lang của người Lạc Việt. Theo truyền thuyết, các vua này là hậu duệ của Lạc Long Quân và Âu Cơ.
Bạn đang xem bài: Con rể vua hùng là ai? Kể tên những người con rể của vua Hùng
Dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, một dân tộc có nguồn gốc gắn liền với lịch sử các vị vua Hùng. Bác Hồ đã có câu:
“Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Đây là câu nói đã đi sâu vào tiềm thức của mỗi con người Việt Nam, để nhớ ơn công lao to lớn của họ, hãy cùng Mạng Tin Mới trở về với lịch sử hào hùng của dân tộc qua các thời đại vua Hùng, để hiểu hơn và tự hào hơn nữa về dân tộc Việt Nam ta.
Truyền thuyết kể lại rằng vua Hùng bắt đầu từ thời xã hội Văn Lang tồn tại. Đứng đầu nước Văn Lang là các thủ lĩnh tối cao, được biết đến với tôn hiệu Hùng Vương. Hùng Vương đồng thời là người chỉ huy quân sự, chủ trì các nghi lễ tôn giáo. Dưới Hùng Vương có các Lạc tướng, Lạc hầu giúp việc. Cả nước chia thành 15 bộ (đơn vị hành chính lớn) có Lạc tướng còn trực tiếp cai quản công việc của các bộ. Dưới nữa là các Bố chính, đứng đầu các làng bản.
Kinh đô của nhà nước Văn Lang được đặt tên là Văn Lang tuy nhiên các sử gia nước ta bị ảnh hưởng của các sử gia Trung Quốc nên mới chép kinh đô nước Văn Lang là Phong Châu, nay thuộc tỉnh Phú Thọ.
Công cụ là đồng thau trở nên phổ biến và bắt đầu có công cụ bằng sắt. Có nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước, dùng sức cày kéo của trâu bò là phổ biến nhất.
Ngoài ra còn săn bắt, chăn nuôi, đánh cá và làm nghề thủ công như đúc đồng, làm đồ gốm. Sự phân công lao động giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp đã xuất hiện.
Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, tính từ thời Kinh Dương Vương (2879 TCN) cho đến hết thời Hùng Vương (năm 258 TCN) kéo dài 2.622 năm. Nhà nước Văn Lang tồn tại đến năm 258 TCN thì bị Thục Phán (tức An Dương Vương) thôn tính. Theo Nguyễn Khắc Thuần trong “Thế thứ các triều vua Việt Nam” thì 18 vị vua Hùng là:
Kinh Dương Vương (涇陽王): 2879 – 2794 TCN (số năm trị vì là ước đoán). Húy là Lộc Tục (祿續).
Hùng Hiền vương (雄賢王), còn được gọi là Lạc Long Quân (駱龍君 hoặc 雒龍君 hoặc 貉龍君): 2793 – 2525 TCN. Huý là Sùng Lãm (崇纜).
Hùng Lân vương (雄麟王): 2524 – 2253 TCN
Hùng Diệp vương (雄曄王): 2252 – 1913 TCN
Hùng Hi vương (雄犧王): 1912 – 1713 TCN (phần bên trái chữ “hi” 犧 là bộ “ngưu” 牛)
Hùng Huy vương (雄暉王): 1712 – 1632 TCN
Hùng Chiêu vương (雄昭王): 1631 – 1432 TCN
Hùng Vĩ vương (雄暐王): 1431 – 1332 TCN
Hùng Định vương (雄定王): 1331 – 1252 TCN
Hùng Hi vương (雄曦王): 1251 – 1162 TCN (phần bên trái chữ “hi” 犧 là bộ “nhật” 日)
Hùng Trinh vương (雄楨王): 1161 – 1055 TCN
Hùng Vũ vương (雄武王): 1054 – 969 TCN
Hùng Việt vương (雄越王): 968 – 854 TCN
Hùng Anh vương (雄英王): 853 – 755 TCN
Hùng Triêu vương (雄朝王): 754 – 661 TCN
Hùng Tạo vương (雄造王): 660 – 569 TCN
Hùng Nghị vương (雄毅王): 568 – 409 TCN
Hùng Duệ vương (雄睿王): 408 – 258 TCN
Tuy nhiên ngày nay, qua khảo chứng, các nhà sử học phần đông cho rằng chuyện 18 đời Hùng vương là không có thật. Con số 18 chỉ mang tính tượng trưng.
Nếu xét theo thời gian trị vì kéo dài hơn 2000 năm mà chỉ có 18 đời vua thì đây là những con số rất khó thuyết phục; mặc dù ghi chép như vậy để “nêu rõ quốc thống” nhưng các sử gia đều tỏ ý nghi ngờ điều này.
Nhà sử học Ngô Thì Sĩ viết: “Người ta không phải là vàng đá, sao lại sống lâu được như thế? Điều ấy càng không thể hiểu được” (Việt sử tiêu án).
Còn trong cuốn Việt Nam sử lược, nhà sử học Trần Trọng Kim cũng viết: “…Cứ tính hơn bù kém, mỗi ông vua trị vì được non 150 năm. Dẫu là người đời thượng cổ nữa thì cũng khó lòng mà có nhiều người sống lâu được như vậy”.
Khác với ghi chép của sử sách và truyền thuyết dã sử, các nhà nghiên cứu cho rằng nước Văn Lang của các vua Hùng chỉ tồn tại trong khoảng 300 – 400 năm và niên đại kết thúc là khoảng năm 208 TCN chứ không phải là năm 258 TCN.
Cuốn Đại Việt sử lược, bộ sử xưa nhất của nước ta còn giữ được đến nay chép rằng: “Đến đời Trang Vương nhà Chu (696 – 681 TCN) ở bộ Gia Ninh có người lạ dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, phong tục thuần hậu, chất phác, chính sự dùng lối kết nút. Truyền được 18 đời đều gọi là Hùng Vương”.
Không rõ tác giả Đại Việt sử lược căn cứ vào đâu để viết lên như vậy, nhưng đưa ra thời điểm mà nhà nước Văn Lang hình thành vào khoảng thế kỷ VII TCN, tương ứng với giai đoạn Đông Sơn là phù hợp với những kết quả nghiên cứu hiện nay, và con số 18 vua Hùng cai trị trong khoảng 300 – 400 năm được nhiều người chấp nhận hơn, cho dù không thể khẳng định được rằng nước Văn Lang thực sự có đúng 18 đời vua Hùng.
Kể tên những người con rể của Vua Hùng
Mặc dù theo sử thi có tới 18 đời vua Hùng, nhưng mãi cho đến Vua Hùng thứ 18, vị Vua Hùng cuối cùng mới có sử lược ghi về những người con rể của vua Hùng.
Theo đó, Vua Hùng thứ 18 có hai người con rể được liệt vào danh sách Tứ Bất Tử mà người Việt Nam tôn thờ, gồm: Sơn Tinh chồng công chúa Ngọc Hoa và Chử Đồng Tử chồng công chúa Tiên Dung.
Con gái tuyệt sắc, con rể xuất chúng
Ngọc phả kể rằng, đến đời Tuyền Vương, lịch số cáo chung, cơ đồ họ Hùng đã đến hồi kết thúc nên vua không sinh được con trai. Vua và quần thần đi thăm các cung tiên ở Tam Đảo, Tản Viên, cho dựng các điện miếu, cầu phúc cầu con, sau chiêm bao thấy điềm rắn lớn, sinh được 2 con gái đều xinh đẹp trinh hiền, phong tư trác tuyệt, chị là Mỵ Châu Tiên Dung, nàng em là Mỵ Nương Ngọc Hoa.
Mỵ Nương Ngọc Hoa lớn lên, phụ vương muốn tìm kẻ tuấn kiệt anh hùng nên truyền hịch cho nhân tài khắp bốn phương đến kinh đua tài, ai trúng tuyển sẽ làm rể vua. Hào kiệt kéo đến đông như mây họp, nhưng tài năng được mặt này lại mất mặt kia, vua Hùng chưa ưng ai.
Quá hạn dự thi, có 2 người bạn đồng học có nhiều thuật pháp thông thiên nhập địa tìm đến, đó là Sơn Tinh và Thuỷ Tinh. Họ tâu: “Bọn thần thẹn nỗi kém tài, trộm nghe thánh thượng mở khoa thi kén rể hiền, tuy đến muộn nhưng vẫn muốn được thi tài”.
Hùng Tuyền vương cả mừng, bèn đặc cách lên xe đến sông Bạch Hạc cho hai người trổ tài. Sơn Tinh đến ngồi ở đầu sông, Thủy Tinh trở về dưới đáy nước. Trong khoảnh khắc bỗng thấy mây mưa nổi lên, đáy nước vang tiếng động ầm ầm, giao long, kình ngạc, rùa, cá từng đoàn theo sóng cuồn cuộn tung lên, khiến ai cũng rụng mật run tim. Sơn Tinh tay trái cầm quyển sách, tay phải cầm cây trượng, miệng niệm thần chú. Tay chỉ vào đâu, nơi ấy hiện lên muôn nghìn kỳ quái, biến hóa khôn lường ngăn nước lũ.
Vua Hùng thấy hai người tài phép ngang nhau, không biết chọn gả công chúa cho ai, liền giao hẹn: “Ai đem sính lễ đến trước thì trẫm gả cho người ấy”. Thế là Sơn Tinh và Thuỷ Tinh hẹn nhau: “Bọn ta cùng trở về sửa soạn sính lễ, để xem ai là người đến trước?”.
Thuỷ Tinh trở về thuỷ cung ở Động Đình, tìm chọn lễ vật cho thật tân kỳ. Sơn Tinh thì chỉ xuống lầu cầm gâỵ trúc chỉ lên trời nhẩm khấn xin Ngọc hoàng ban cho các vật làm sính lễ. Khấn xong liền thấy voi trắng chín ngà cùng các đồ châu ngọc quý lạ từ trên trời hiện xuống. Sơn Tinh bèn cho xếp đặt, vừa đúng giờ Tý (nửa đêm) đã đưa đến trước lầu rồng. Hùng Tuyền Vương bèn gọi công chúa đến báo gả cho Sơn Tinh. Đến giờ Mão, Thuỷ Tinh mới đến, không cưới được công chúa nên từ đó kết thù, hằng năm dâng lũ, nhưng đều bị Sơn Tinh dùng phép thuật ngăn lại, giữ yên trăm họ và mùa màng.
Còn Mỵ Châu Tiên Dung, Ngọc phả Hùng Vương cho biết nàng được gả cho Chử Đồng Tử (người xã Đa Hòa, huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu xứ Sơn Nam). Nhiều truyện dân gian khác kể chi tiết hơn về mối nhân duyên này: Chử là chàng ngư phủ mồ côi nghèo đến nỗi cái khố duy nhất đã dùng để tẩm liệm cho cha, ngày ngày dầm mình trong nước kiếm cá để bán lấy tiền sinh nhai. Một hôm công chúa Tiên Dung đi thuyền qua, thấy bãi cát đẹp nên lệnh cho thị nữ quây màn để tắm, không ngờ chọn đúng nơi Chử Đồng Tử vùi mình để trốn. Nước làm trôi cát, Tiên Dung sững sờ thấy hiện lên một chàng trai khôi ngô cũng khỏa thân như mình, cho là duyên trời bèn kết làm chồng vợ.
Để tránh cơn giận của vua cha, Tiên Dung cùng chồng không về cùng mà ở ngoài buôn bán, tạo nên một vùng sầm uất. Chử Đồng Tử trong một lần theo thuyền buôn ra biển, lên một hòn đảo gặp được tiên ông bèn ở lại học đạo, mấy năm sau trở về truyền dạy cho vợ. Hai vợ chồng để lại gia sản cho mọi người, cùng nhau vân du, tiếp tục học đạo thành tiên.
Cả hai người con rể của Hùng Vương thứ 18 – Sơn Tinh và Chử Đồng Tử, đều là vị thánh được tôn kính bậc nhất trong tín ngưỡng cổ xưa của người Việt. Họ là 2 trong 4 vị thánh bất tử mà dân gian gọi là Tứ bất tử, cùng với Thánh Gióng và Mẫu Liễu Hạnh. Sơn Tinh chính là Tản Viên Sơn Thánh, tức Đức Thánh Tản, là biểu tượng của ước vọng chinh phục tự nhiên, chiến thắng thiên tai. Đền thờ ông có ở khắp nơi, trong đó được biết đến nhiều nhất là đền Và ở Sơn Tây, Hà Nội và các ngôi đền trên núi Ba Vì.
Còn Chử Đồng Tử được gọi là Chử Đạo Tổ, người đi tiên phong trong cuộc thụ phép thần tiên để tế độ và truyền dạy cho người khác, là nhân vật tượng trưng cho lòng hiếu nghĩa, tình yêu, hôn nhân và sự sung túc, giàu có.
Nhường ngôi
Biết cơ đồ họ Hùng đã hết, Hùng Tuyền Vương muốn truyền ngôi cho con rể là Tản Viên Sơn Tinh. Theo Ngọc phả Hùng Vương, trong khi Sơn Tinh chưa quyết, Thục vương (là chúa Phụ đạo nước Ai Lao, cũng là tông phái Hùng Vương) nghe tin bèn mấy lần đem quân sang đánh để giành ngôi nhưng đều thua binh hùng tướng mạnh của nước Văn Lang.
Sau đó, vua Hùng thứ 18 đâm ra chủ quan, bỏ bễ cai trị, chỉ lo hưởng lạc, cuối cùng thua quân Thục, gọi con rể đến cứu viện. Tản Viên dẫn binh mã đến, tuy nhiên lại khuyên vua rằng: “Họ Hùng hưởng nước kể cũng đã lâu dài. Lòng trời ắt có hạn, khiến cho Thục vương thừa cơ gây hấn. Vả lại Thục vương cũng là dòng phái của tiên hoàng đế. Nay quốc thế không được bình thường, cũng là chuyện do tiền định. Vua có yêu riêng gì một cõi đất phương nam mà cưỡng lại ý trời, làm hại sinh linh? Vả lại bệ hạ và thần đã có phép thần tiên, không gì hơn là quay về chốn Bồng Hồ, Lãng Uyển, tiêu dao ở làng quê bất lão…”
Tuyền vương cho là phải, bèn nhường ngôi cho người cháu là Thục Vương, trở về núi Nghĩa Lĩnh cùng với Tản Viên Sơn Tinh biến hoá vào cõi hoá sinh bất diệt. Vua Thục nhớ ơn, cho dựng Dao Đài trên núi Nghĩa Lĩnh để quốc gia phụng thờ.
Về sau, vua Thục mất nước vào tay Triệu Đà, cơ đồ họ Hùng mới hoàn toàn sụp đổ.
Về chuyện vua Hùng cuối cùng mất ngôi, Đại Việt sử ký toàn thư kể: Cuối thời Hùng Vương, vua có con gái gọi là Mykị Nương, nhan sắc xinh đẹp. Thục Vương nghe tiếng, đến cầu hôn. Vua muốn gả, nhưng Hùng hầu can rằng: “Họ muốn chiếm nước ta, chỉ lấy việc hôn nhân làm cớ mà thôi”. Thục Vương vì chuyện ấy để bụng oán giận.
Vua muốn tìm người xứng đáng để gả, bảo các bề tôi rằng: “Đứa con gái này là giống tiên, người nào có đủ tài đức mới cho làm rể”. Bấy giờ có hai người từ ngoài đến, lạy dưới sân để cầu hôn. Vua lấy làm lạ, hỏi thì họ thưa rằng một người là Sơn Tinh, một người là Thủy Tinh, đều ở trong cõi cả, nghe nhà vua có thánh nữ, đánh bạo đến xin lĩnh mệnh. Vua nói: “Ta có một người con gái, lẽ nào lại được cả hai rể hiền?”. Bèn hẹn đến ngày hôm sau, ai đem đủ sính lễ đến trước thì gả cho người ấy. Hai người vâng lời, lạy tạ ra về.
Hôm sau, Sơn Tinh đem các đồ châu báu vàng bạc, chim núi thú rừng đến dâng. Vua y hẹn gả con cho. Sơn Tinh đón vợ về ở ngọn núi cao trên núi Tản Viên. Thủy Tinh cũng đem sính lễ đến sau, giận tiếc là không kịp, bèn kéo mây làm mưa, dâng nước tràn ngập, đem các loài thủy tộc đuổi theo. Vua cùng Sơn Tinh lấy lưới sắt chăng ngang thượng lưu sông Từ Liêm để chặn lại. Thủy Tinh theo sông khác, từ Ly Nhân vào chân núi Quảng Oai rồi theo dọc bờ lên cửa sông Hát, ra sông lớn mà rẽ vào sông Đà để đánh Tản Viên, nơi nơi đào sâu thành vực thành chằm, chứa nước để mưu đánh úp. Sơn Tinh có phép thần biến hóa, gọi người man đan tre làm rào chắn nước, lấy nỏ bắn xuống, các loài có vẩy và có vỏ trúng tên đều chạy trốn cả. Rốt cuộc Thủy Tinh không thể xâm phạm được núi Tản Viên.
Mỵ Nương đã lấy Sơn Tinh, Thục Vương tức giận, dặn lại con cháu phải diệt Văn Lang mà chiếm lấy nước. Đến đời cháu là Thục Phán có dũng lược, bèn đánh lấy nước.
Video về Con rể vua hùng là ai? Kể tên những người con rể của vua Hùng
Kết luận
Mặc dù các thông tin về triều đại Hùng Vương không được tìm thấy trong chính sử mà chỉ có trong các truyền thuyết dân gian, trong các tài liệu huyền sử, đối với người Việt Nam, các vua Hùng chính là tổ tiên, cũng là đại diện ưu tú của cha Rồng mẹ Tiên, là những vị anh hùng gắn với thời dựng nước. Vì thế, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương đối với người Việt Nam là một trong những ngày lễ lớn nhất trong năm. Bài viết đã cung cấp đến các bạn thông tin về con rể vua Hùng là ai. Cảm ơn các bạn đã theo dõi!
Bản quyền bài viết thuộc Trường Trung Cấp Nghề Thương Mại Du Lịch Thanh Hoá. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: https://tmdl.edu.vn/con-re-vua-hung-la-ai-ke-ten-nhung-nguoi-con-re-cua-vua-hung/
Trang chủ: tmdl.edu.vn
Danh mục bài: Tổng hợp