Khổng Tử là ai?
Khổng Tử, sinh năm 551, tại tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc ngày nay, là nhà giáo, nhà triết học và nhà lý luận chính trị nổi tiếng nhất Trung Quốc, người có những ý tưởng đã ảnh hưởng sâu sắc đến nền văn minh của Trung Quốc và các nước Đông Á khác.
Khổng Tử sinh ra gần cuối thời đại được lịch sử Trung Quốc gọi là thời Xuân Thu (770–481 TCN). Nhà của ông ở Lu, một bang miền đông Trung Quốc, nơi ngày nay là tỉnh Sơn Đông miền trung và tây nam. Giống như các quốc gia khu vực khác vào thời điểm đó, Lu bị ràng buộc với triều đình nhà Chu (1045–221 TCN) thông qua lịch sử, văn hóa, mối quan hệ gia đình (kéo dài từ khi thành lập triều đại, khi họ hàng của các nhà cai trị nhà Chu bị coi là người đứng đầu các quốc gia trong khu vực), và các nghĩa vụ đạo đức.
Bạn đang xem bài: Khổng Tử là ai? Tiểu sử của Khổng Tử
Theo một số báo cáo, tổ tiên ban đầu của Khổng Tử là người Kong từ nước Tống – một gia đình quý tộc đã sản sinh ra một số cố vấn lỗi lạc cho các nhà cai trị nhà Tống. Tuy nhiên, vào giữa thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên, gia đình này đã mất đi vị thế chính trị và phần lớn tài sản của họ, và một số Kong – ông cố của Khổng Tử – đã chuyển đến bang Lu.
Những quý ông bình thường (shi) không được hưởng quyền lợi di truyền nào mà tổ tiên của họ đã từng được hưởng ở thời Tống. Các quý ông bình thường của cuối triều đại nhà Chu có thể tự hào về khả năng được tuyển dụng của họ trong quân đội hoặc ở bất kỳ vị trí hành chính nào bởi vì họ được giáo dục về sáu nghệ thuật lễ nghi (xem bên dưới Lời dạy của Khổng Tử), âm nhạc, bắn cung, đánh xe ngựa, viết lách và số học.
Nhưng trong hệ thống phân cấp xã hội thời đó, họ chỉ cao hơn dân gian một bậc. Cha của Khổng Tử, Shu-liang He, đã từng là một chiến binh và làm quản hạt ở Lỗ, nhưng ông đã là một ông già khi Khổng Tử được sinh ra. Cuộc hôn nhân trước đó đã sinh cho ông chín cô con gái và một cậu con trai chân khoèo, và vì vậy, với Khổng Tử, cuối cùng ông đã được trao cho một người thừa kế khỏe mạnh. Nhưng Thục Hán Ông mất ngay sau khi Khổng Tử ra đời, để lại góa phụ trẻ phải tự lo cho mình.
Khổng Tử thẳng thắn về gia cảnh của mình. Ông ấy nói rằng, bởi vì ông ấy “nghèo và xuất thân từ một địa điểm thấp kém,” ông ấy không thể vào phục vụ chính phủ dễ dàng như những thanh niên xuất thân từ các gia đình nổi tiếng và vì vậy phải trở nên “thành thạo nhiều việc vặt vãnh”. Ông tìm được việc làm đầu tiên với gia tộc Jisun, một gia đình cha truyền con nối mà các thành viên chính của họ đã có nhiều thập kỷ làm cố vấn chính cho các nhà cai trị của Lu. Một loạt các chức vụ khiêm tốn với người Jisuns như người trông coi kho thóc và gia súc và là quan huyện trong lãnh địa phong kiến của gia đình đã dẫn đến những bổ nhiệm quan trọng hơn trong chính quyền Lu, đầu tiên là bộ trưởng công trình và sau đó là bộ trưởng tội phạm.
Các ghi chép thời đó cho thấy, với tư cách là bộ trưởng tội phạm, Khổng Tử đã có hiệu quả trong việc xử lý các vấn đề về luật pháp và trật tự nhưng thậm chí còn ấn tượng hơn trong các nhiệm vụ ngoại giao. Ông luôn đảm bảo rằng người cai trị và sứ mệnh của ông đã được chuẩn bị kỹ lưỡng cho những điều bất ngờ và những tình huống có thể khiến họ gặp nguy hiểm; ông cũng biết cách khuyên họ để đưa một cuộc đàm phán khó đi đến một kết thúc thành công.
Tuy nhiên, ông chỉ giữ chức vụ của mình trong một vài năm. Việc từ chức của ông là kết quả của một cuộc đấu tranh kéo dài với các gia đình cha truyền con nối — trong nhiều thế hệ, họ đã cố gắng giành quyền lực khỏi những người cai trị hợp pháp của Lu. Khổng Tử nhận thấy hành động của các gia đình là vi phạm và những hành động thiếu lễ nghi của họ là đáng phản đối, và ông sẵn sàng chiến đấu bằng các biện pháp công bằng hoặc xấu xa để khôi phục quyền lực của người cai trị. Một cuộc đụng độ lớn diễn ra vào năm 498 trước Công nguyên. Một kế hoạch hướng các gia đình đến việc tự hủy hoại đã bị phản tác dụng. Những người đứng đầu gia đình nghi ngờ Khổng Tử, và vì vậy ông không còn lựa chọn nào khác ngoài việc rời bỏ địa vị và ngôi nhà của mình.
Thông tin sơ lược về Khổng Tử
- Tên đầy đủ: Khổng Phu Tử
- Tên tiếng trung: 孔夫子
- Danh hiệu: Khổng Khâu
- Năm sinh: 28/09/551 Trước công nguyên
- Quê quán: Ấp Trâu, thôn Xương Bình, nước Lỗ nay là tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc
- Cha, mẹ: Thúc Lương Ngột, Nhan thị
- Ngày mất: 11/04/479 Trước công nguyên
- Trường Phái: Khổng giáo
- Nghề nghiệp: Giảng sư, Triết gia
Gia thế của Khổng Tử
Khổng Tử họ Khổng tên Khâu, tự Trọng Ni nguyên quán ở Làng Xương Bình, nước Lỗ đời Chu. Nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông. Cha tên Hột, là một lực sĩ trứ danh đương thời. Có lần nước Tề tiến công nước Lỗ, quân Lỗ bị vây. Vào đêm, Khổng Hột chỉ huy 300 dũng sĩ phá được vòng vây, cứu thoát quan Đại Phu là Tạng Hột. Sau đó, cưới bà Nhan Thị, thân sinh Khổng Tử.
Cha là một chiến sĩ anh dũng, nhưng chẳng may mất sớm vào năm Khổng Tử mới lên ba tuổi. Kế đó chẳng bao lâu, mẹ lại qua đời, Khổng Tử trở thành đứa con mồ côi, trong một gia đình nghèo khổ, nhưng rất hiếu học, năm ba mươi tuổi đã là một nhà học vấn nổi tiếng.
Năm đó, ông bắt đầu nhận dạy học trò, là người đầu tiên mở trường tư thục vào thời phong kiến, vốn chỉ con em vua quan, hàng quý tộc mới có dịp học hỏi từ chương.
Khổng Tử sống vào một thời đại, về mặt chính trì, đang lúc chế độ phong kiến nhà Chu bắt đầu băng hoại, bởi chư hầu phân tranh, từ thời Xuân Thu chuyển sang Chiến quốc Khổng Tử tuy hành nghề dạy học, nhưng vốn nuôi chí tìm minh chúa, để thực hiện lý tưởng chính trị của mình.
Ông từng làm quan Trung đô Tể, rồi thăng chức Tư Không, Tư Khấu. Song, nhận thấy nhà vua cùng chư khanh tướng nước Lỗ chẳng thật lòng trọng dụng, bèn từ quan, dẫn một số môn đệ cùng chí hướng, đi chu du liệt quốc trong khoảng thời gian từ 54 tuổi, đến 68 tuổi, cố tìm cho được vị minh chúa nào, khả dĩ tiến nạp chính kiến của mình. Nhưng tiếc thay, đã phí mất mười bốn năm trời mà chẳng được như ý muốn.
Trong khi thất vọng, ông quay về nước Lỗ, chuyên tâm vào việc tu biên cổ tịch, soạn định Ngũ kinh: Thư, Dịch, Thi, Lễ, Nhạc, và hoàn thành cuốn Xuân Thu. Năm năm sau thì Ngài mất, thọ bảy mươi ba tuổi.
Sự nghiệp của Khổng Tử
Làm quan
Năm 19 tuổi, ông lấy vợ và làm một chức quan nhỏ ở chuyên quản lý kho tàng, xuất nạp tiền lương công bằng. Trước đó, ông cùng từng đảm nhiệm chức quan nhỏ chuyên quản lý nông trường và đạt hiệu quả tốt. Vì vậy, Khổng Tử được thăng chức làm quan Tư Không (quản lý các công trình).
Năm 21 tuổi, ông được cử làm chức Ủy Lại, sau đó qua làm chức Tư Chức Lại. Đến năm 22 tuổi, Khổng Tử lập trường giảng học và được các môn đồ gọi là phu tử. 29 tuổi, Khổng Tử học đàn với Sư Tương ở nước Lỗ
Vào năm 30 tuổi, Đức Khổng Tử muốn đến Lạc Dương để nghiên cứu về nghi lễ, chế độ miếu đường nên được vua ban cho một cỗ xe đưa Khổng Tử và Nam Cung Quát đi. Sau khi khảo sát xong thì ông về nước. Lúc này, sự học của ông rộng mở, học trò xin theo học ngày càng đông.
Qua mấy năm thì Quý Bình Tử khởi loạn trong nước Lỗ. Ông đi theo Lỗ Chiêu Công tạm tránh qua nước Tề. Lúc này, Tề Cảnh Công rất khâm phục về tài chính trị của Khổng Tử muốn đem đất Ni Khê phong cho ông nhưng bị Tướng quốc nước Tề ngăn cản. Lúc ông 36 tuổi, thì quay về nước Lỗ lo cho việc dạy học và nghiên cứu về Đạo học của Thánh hiền.
Ngao du
Trong suốt 20 năm, từ năm 34 tuổi, Khổng Tử dẫn học trò đi khắp nơi để truyền bá tư tưởng và tìm người tài. Tuy nhiên, cuộc hành trình không quá thuận lợi. Năm thứ 9 của vua Lỗ Định Công, ông được mời làm quan chức Trung Đô Tể ở Kinh Thành.
Sau 1 năm, bốn phương lấy chính sự của ông làm khuôn mẫu. Đức Khổng Tử giữ chức Tư Không rồi thăng lên Đại Tư Khấu coi việc hình án. Những luật lệ của ông đề ra giúp kẻ nghèo khổ, lập ra phép tắc, định việc tống táng, lớn nhỏ có trật tự, trai gái không lẫn lộn, trộm cắp không còn nữa, xã hội bình trị. Sau nhiều năm, nước Lỗ trở nên bình trị.
Sau khi nước Tề lập ra Bộ Nữ Nhạc, khiến vua Lỗ sinh ra lưới biếng, chỉ chuyên hưởng lạc. Khổng Tử không khuyên được, chán nản xin từ chức và bỏ nước Lỗ đi chu du các nước chư hầu.
Năm 68 tuổi, Khổng Tử trở về nước Lỗ, tiếp tục dạy học và bắt tay vào soạn sách. Đến năm 69 tuổi, ông bắt tay vào việc hiệu đính các cổ thư bị tản nát.
Đến ngày Ký Sửu, tức ngày 18/2 năm Nhâm Tuất thì Khổng Tử tạ thế khi hưởng thọ 73 tuổi.
Nhân cách của Khổng Tử
Khổng Tử là người thông minh, luôn ham học. Việc gì cũng xem xét kỹ lưỡng để biết cho đến tận cùng thì thôi. Tính tình ôn hòa, khiêm tốn và làm việc hết sức cẩn thận, luôn tin vào Thiên mệnh.
Ông là người nhân hậu, khiêm nhường, giản dị, giàu tình cảm. Khi ở nhà, Khổng Tử có dáng dấp thoải mái, trên mặt đều biểu lộ thần thái hoài vui. Ăn uống ở nhà có tang thì ông không bao giờ ăn no.
Ông luôn tuân theo nguyên tắc, lễ nghi một cách chuẩn mực nhất. Khi về quê, ở mặt cha anh, bạn bè thì Khổng Tử cực kì khiêm tốn, hết sức nghe lời. Nhưng khi đến nơi tông miếu triều đỉnh, giải quyết chính sự thì ông ăn nói lưu loát, mạch lạc, lời lẽ cẩn thận.
Khi vua đến Khổng Tử tỏ ra hết sức cung kính rụt rè, trong lòng như có điều gì chưa yên tâm, không thể hiện cử chỉ nào thất lễ. Đối với khách quý, Khổng Tử luôn làm tròn trách nhiệm từ hình thức đến biểu lộ khuôn mặt.
Tư tưởng
Không biết bao nhiêu bút mực đã đổ ra 25 thế kỷ qua để nghiên cứu về Khổng giáo, về tư tưởng của Khổng Tử. Cũng có học giả như học giả Pháp Etiemble, trong cuốn Confucius 1966 thì cho rằng nghiên cứu Khổng Tử chỉ nên dựa vào sách Luận – ngữ là bộ sách ghi lại những lời đối đáp của Khổng Tử với học trò, các sách khác không đáng tin cậy.
Nhưng gì thì gì, loài người tiến bộ vẫn phải ghi nhận Khổng Tử là nhà giáo dục lớn nhất của mọi thời đại ngay thời bấy giờ ông có tới 3000 học trò và rất nhiều người trong số đó đã thành đạt. Về chính trị Khổng Tử chủ trương Đức trị.
Ông là người đầu tiên nói nhiều nhất đến tư cách của người cai trị (tức người quân tử), ông chủ trương vua sáng tôi hiền, vua ra vua, tôi ra tôi. Nhưng Khổng Từ là người không thích cách mạng, ông không tán thành bạo lực cách mạng để thay đổi thời thế, cho dù thời thế của bọn hôn quân bạo chúa! Đó là tính chất bảo thủ trong tư tưởng chính trị của Khổng Tử.
“Khổng Tử bỏ qua vấn đề pháp luật và thiết chế, từ chối mọi cải cách” (Nguyễn Khắc Viện). Chính vì vậy mà từ đời Hán sau này trở đi Khổng Tử được các triều vua tôn lên hàng Đại Thánh, là ông Thánh của các ông Thánh là “vạn thế sư biểu” (ông thầy tiêu biểu của muôn đời) để lợi dụng học thuyết của ông, duy trì chế độ phong kiến bảo thủ trì trệ ở Trung Hoa cho mãi đến đầu thế kỷ 20!
Có thể nói trong lịch sử nhân loại, chưa có triết gia nào mà triết thuyết của người ấy lại được thiên hạ lợi dụng tâng bốc đến mây xanh hoặc phê phán đến không tiếc lời như học thuyết của Khổng Tử. Những kẻ muốn duy trì trật tự hiện tại thì tôn vinh Khổng Tử những kẻ muốn thay đổi trật tự hiện tại thì phê phán Khổng Tử.
Đến nay có rất nhiều trường đại học ở Phương Tây mở khoa Khổng học để tiếp tục nghiên cứu về Khổng Tử. Đạo đức cao cả và lối sống chừng mực của Khổng Tử vẫn cần cho thế giới Phương Tây đang sống xa hoa và hủy hoại môi trường.
Vinh danh Khổng Tử
Ngay sau khi Khổng Tử mất, cố hương Khúc Phụ thành nơi hành hương cho người đời bày tỏ tấm lòng ngưỡng mộ. Đến nay, đây vẫn là nơi nổi tiếng được nhiều người thăm viếng. Có nhiều ngôi đền thờ riêng Khổng Tử và đây cũng là nơi thường tổ chức những buổi lễ để tưởng nhớ ông.
Các triều đại phong tặng Khổng Tử các danh hiệu sau:
Năm 739, vua Đường Huyền Tông phong tặng Đức Khổng Tử là Văn Tuyên Vương, tượng thờ ông được mặc phẩm phục Hoàng đế, tặng cho các đệ tử các tước: Công, Hầu, Bá.
Năm 1008, vua Tống Chân Tông phong là: Đại Thánh Văn Tuyên Vương, phong cho cha Khổng Tử là Lỗ Công, mẹ là Lỗ Phu Nhân, vợ là Bà Thượng Quan Thị làm Vân Phu Nhân, và ra lệnh cho các tỉnh lập miếu thờ ông.
Vào năm 1560, vua Minh Thế Tông phong tặng ông là Chí Thánh Tiên Sư.
Năm 1645, vua Thanh Thế Tổ phong ông là Đại Thành Chí Thánh Văn Tuyên Vương Thánh Sư Khổng Phu Tử.
100 lời dạy của Đức Khổng Tử
Những lời dạy quý giá của Đức Khổng Tử
Đọc hết mới là kẻ trọng đạo lý, hiểu hết mới mong có nhân cách hơn người
Hình hài của mẹ của cha
Trí khôn đời dạy, đói no tự mình
Sang hèn trong kiếp nhân sinh
Buồn vui sướng khổ thường tình thế thôi
Không hơn hãy cố gắng bằng người
Cho thiên hạ khỏi ai cười ai khinh
Có chí thì ham học
Bất chí thì ham chơi
Trí khôn tạo nên người
Đức nhân tìm ra bạn
Thành đạt nhờ đức dày
Làm nên nhờ có thầy
Đủ đầy nhờ có bạn
Gái ngoan nhờ đức hạnh
Trai mạnh nhờ lực cường
Tươi đẹp lắm người thương
Lực cường nhiều kẻ mạnh
Dễ thích nghi thì sống
Biết năng động thì nên
Đủ tài trí làm nên
Đủ sức bền thì thắng
Biết mình khi hoạn nan
Hiểu bạn lúc gian nguy
Nghèo hèn bởi tự ti
Ngu si vì tự phụ
Tài đức cao hơn phú
Hạnh phúc đủ hơn giàu
Sống trung tín bền lâu
Tình nghĩa sâu hạnh phúc
Đủ tài thì đỡ cực
Đủ sức thì đỡ nghèo
Dốt nát hay làm theo
Hiểu biết nhiều thì lợi
Hỏng việc thì hấp tấp
Va vấp bởi vội vàng
Cảnh giác với lời khen
Bình tâm nghe lời trách
Quá nghiêm thì ít bạn
Dễ dãi bạn khinh nhờn
Không hứa hão là khôn
Không tin xằng ít vạ
Làm ơn đừng mong trả
Được ơn nhớ đừng quên
Nhu nhược bị ép trèn
Quá cương thì bị gãy
Cái quý thì khó thấy
Dễ lấy thường của tồi
Của rẻ là của ôi
Dùng người tội sinh vạ
Đẹp lòng hơn tốt mã
Nền nã hơn kiêu kì
Thận trọng từng bước đi
Xét suy khi hành động
Hiểu biết nhiều dễ sống
Luôn chủ động dễ thành
Thận trọng trước lợi danh
Giữ mình đừng buông thả
Tránh xa phường trí trá
Tai vạ bởi nể nang
Tài giỏi chớ khoe khoang
Giàu sang đừng kênh kiệu
Học bao nhiêu vẫn thiếu
Hiểu bao nhiêu chẳng thừa
Nhân đức chớ bán mua
Được thua không nản trí
Đủ đức tài bớt lụy
Đủ dũng khí chẳng hàng
Có vợ đảm thì sang
Có bạn vàng thì quý
Đói nghèo vì bệnh sĩ
Quẫn trí dễ làm liều
Tỉnh táo với tình yêu
Biết điều khi yếu thế
Lo việc nhà chớ kể
Ân nghĩa chớ đếm đong
Người phúc lộc nhờ nguồn
Sống bất nghĩa tai ương
Sống bất lương tù ngục
Phải cầu xin là nhục
Phải khuất phục là hèn
Hay đố kị nhỏ nhen
Hay ép trèn độc ác
Lắm gian truân càng sáng
Nhiều hoạn nạn càng tinh
Với mình phải nghiêm minh
Với chúng sinh thân ái
Đang thắng phòng khi bại
Gặt hái phòng mất mùa
Thói quen thường khó chừa
Say sưa thường khó tỉnh
Sống ỉ lại ăn sẵn
Dễ bạc phân tán mình
Sống dựa dẫm ngu đần
Sống bất cần phá sản
Hay đua đòi hoạn nạn
Quá nể bạn tai ương
Gia đình trọng yêu thương
Sống nhịn nhường hỉ hả
Thiếu tình thương man trá
Gắn vàng đá cũng tan
Biết dạy dỗ con ngoan
Chịu bảo ban con giỏi
Tinh khôn nhờ học hỏi
Cứng cỏi nhờ luyện rèn
Sống vì nhau dễ bền
Sống vì tiền đổ vỡ
Rèn con từ mới nở
Khuyên vợ lúc mới về
Muốn hiểu cần lắng nghe
Khốn nạn quên mẹ cha
Tốt đẹp hãy bày ra
Xấu xa nên đậy lại
Có ích thì tồn tại
Có hại thì diệt vong
Nhiều tham vọng long đong
Lắm ước mong lận đận
Hay vội vàng hối hận
Quá cẩn thận lỗi thời
Biết được người là sáng
Hiểu được bạn là khôn
Khiêm tốn là tự tôn
Kiêu căng là tự sát
Hứa trước thì khó đạt
Hèn nhát thì khó thành
Thù hận bởi lợi danh
Tranh giành vì chức vị
Giàu sang hay đố kị
Tài trí sinh ghét ghen
Tham giàu thì cuồng điên
Tham quyền thì độc ác
Vì tiền thì dễ bạc
Vì tình nghĩa bền lâu
Người hiểu nói trọn câu
Người dốt tâu phách lối
Có quyền thì hám lợi
Có tội thường xum xoe
Khờ dại hay bị lừa
Nó bừa hay vạ miệng
Đa ngôn thì tai tiếng
Ngậm miệng dễ được tin
Hám lợi hay cầu xin
Hám quyền hay xu nịnh
Thật thà hay oan trái
Thẳng thắn hay bị hại
Thông thái hay bị ngờ
Chiều con quá con hư
Tiền của dư con hỏng
Giàu mạnh thường thao túng
Nghèo vụng dễ theo đuôi
Người tài giỏi khó chơi
Kẻ trây lười khó bảo
Thành tâm thì đắc đạo
Mạnh bạo việc dễ thành
Quân tử thì trọng danh
Tiểu nhân thì trọng lợi
Bất tài hay đòi hỏi
Lộc lõi khó khiêm nhường
Tình nghĩa thường khó quên
Nợ nhân duyên khó trả
Khó thuần phục kẻ sĩ
Khó phòng bị tướng tài
Biết chấp nhận thảnh thơi
Hay hận đời đau khổ
Của quý thì khó giữ
Con cầu tự khó nuôi
Nhà dư của hiếm hoi
Nhà lắm người bạc cạn
Khó gần người quá sạch
Vắng khách tại quá nghèo
Dễ nổi danh kị hiền
Dễ kiếm tiền khó giữ
Kiếp người là duyên nợ
Lành vỡ lẽ thường tình
Bại thành từ lực trí
Thời gian đừng uổng phí
Biết suy nghĩ sâu xa.
Ý nghĩa 100 lời dạy của Đức Khổng Tử
Những lời dạy của Khổng tử sẽ giúp còn người sống theo hướng tích cực, liêm chính. Từ những lời dạy này Khổng tử đã phần nào đó khôi phục lại được các giá trị truyền thống vfa vốn có của con người đó là lòng trưng thực, nhân từ, trung thành và lễ nghi trong xã hội Trung Quốc hiện này.
Trong lời dạy của ông đều là những sự minh họa về những vấn đề triết học và thiết thực đó là một sự hiểu biết sâu sắc của một nhà tư tử. Trong những lời dạy này của ông đều nói đến tình yêu, gia đình, mối quan hệ xã hội và những cách thức trở thành một nhà lãnh đạo tốt.
Ở những lời dạy của ông đã cũng cấp cho chúng ta sự hiểu biết về cuộc sống và các mối tương quan lẫn nhau.
Kỷ luật đối với người lãnh đạ theo Khổng Tử là rất cần thiết bởi nó sẽ tạo ra được sự ton trong của những người đi theo người lãnh đạo này.
Những câu nói của ông để lại đều mang tấm lòng yêu nước của mình tới mọi người, cũng cố được các giá trị về lòng nhân ái và truyền thống củ dân tộc.
********************
Bản quyền bài viết thuộc Trường Trung Cấp Nghề Thương Mại Du Lịch Thanh Hoá. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: https://tmdl.edu.vn/khong-tu-la-ai-tieu-su-cua-khong-tu/
Trang chủ: tmdl.edu.vn
Danh mục bài: Tổng hợp