Cảm nhận bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Chiều tối
Phân tích bức tranh thiên nhiên và con người trong bài Chiều tối
Bức tranh thiên nhiên và con người trong bài thơ Chiều tối được tác giả Hồ Chí Minh miêu tả sinh động qua 4 câu thơ ngắn gọn. Hãy cùng Tmdl.edu.vn tham khảo mẫu bài phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài Chiều tối để thấy được bức tranh tuyệt đẹp, hài hòa giữa những mảng sáng và tối, thiên nhiên và con người.
Bạn đang xem bài: 7 bài phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài Chiều tối hay chọn lọc
1. Dàn ý phân tích bức tranh thiên nhiên và con người trong bài thơ Chiều tối
1. Mở bài
Giới thiệu về tác giả và tác phẩm, khái quát nội dung tác phẩm Chiều tối
Tác giả Hồ Chí Minh
Bài thơ “Chiều tối” trích trong “Nhật ký trong tù”
Tình yêu thiên nhiên, cuộc sống và ý chí vươn lên của người tù cách mạng
2. Thân bài
– Bức tranh thiên nhiên vùng núi lúc chiều tối:
Những hình ảnh quen thuộc trong thơ ca cổ: cánh chim, chòm mây
Không gian rộng lớn, hoang vắng
Gợi sự cô đơn, mỏi mệt, lạc lõng
– Bức tranh đời sống con người khi chiều tối:
Cuộc sống lao động đời thường
Dấu hiệu của sự sống, sức sống
Ánh sáng lò than mang lại hy vọng và niềm tin
3. Kết bài
Giá trị của tác phẩm: Bài thơ “Chiều tối” thực sự là một bức tranh tuyệt đẹp, hài hòa giữa những mảng sáng và tối, thiên nhiên và con người.
2. Bức tranh thiên nhiên và con người trong bài thơ Chiều tối mẫu 1
Bác Hồ – người Cha già muôn vàn kính yêu của dân tộc, đã mở ra con đường cứu nước, giúp dân tộc ta có được độc lập, tự do, thoát khỏi kiếp nô lệ lầm than. Người không chỉ là một con người đầy tài trí, tinh thông văn hóa các dân tộc mà còn là người am hiểu văn thơ. Nhật kí trong tù của Người là một trong những tập thơ xuất sắc nhất trong nền thơ ca Việt. Tập thơ đó được viết trong những năm tháng Người bị giam cầm ở nhà tù Tưởng Giới Thạch. Mỗi bài thơ là một câu chuyện Người kể lại về cuộc sống trong tù, là mơ ước, là khát khao được tự do của Người. Trong số đó, bài thơ Chiều tối là một bài thơ hay nhất, là bức tranh thiên nhiên và con người cùng hòa quyện.
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”
Dịch thơ:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”
Trong cả tập thơ Nhật kí trong tù, có lẽ Chiều tối là bài thơ có hoàn cảnh ra đời đặc biệt nhất. Bài thơ được gợi cảm hứng và được viết lên sau lần Bác Hồ phải chuyển trại giam từ Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo. Và trong lần ấy, Người đã viết lên Chiều tối để ca ngợi bức tranh thiên nhiên đẹp mơ màng cùng với đó là bức tranh về cuộc sống con người trong buổi chiều hôm. Được viết bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt cổ điển, bài thơ vừa là tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống của Người, vừa thể hiện ý chí mãnh liệt vượt lên trên mọi hoàn cảnh của Hồ Chí Minh.
Mở đầu bài thơ, Người đã vẽ lên cho người đọc thấy một khung cảnh thiên nhiên đẹp tới mơ màng, một khung cảnh vừa nhẹ nhàng, êm dịu, vừa đằm thắm, sinh động biết nhường nào:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Dịch thơ:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”.
Mở đầu bài thơ cổ với chỉ bằng vài nét bút chấm phá, Hồ Chí Minh đã cho chúng ta thấy được cả một không gian thật rộng lớn, mênh mông và thoáng đãng. Đó là một bầu trời với những cánh chim đang chao lượn “quyện điểu”, lướt thật nhanh bay về rừng, và những chòm mây “cô vân” lác đác lững lờ giữa không trung. Hai câu thơ bật lên, chỉ gợi tả chứ không hề đặc tả vậy mà cái hồn của cảnh vật vẫn cứ hiện lên thật rõ ràng. Khung cảnh hiện lên thật bình dị: cảnh chiều với một đàn chim đang vỗ đôi cánh mệt mỏi tìm về với nơi trú ngụ của mình và những áng mây lẻ loi đang chập chờn bay chầm chậm giữa tầng không bao la. Chẳng hề có một từ chỉ cảnh chiều, thế mà chỉ cần đọc hai câu thơ thôi, người đọc vẫn nhận ngay ra rằng đây là một buổi chiều hoàng hôn ửng đỏ. Nghệ thuật lấy điểm tả diện đã phát huy tác dụng thật rõ ràng bởi sự vận dụng đầy sáng tạo của Người. Chỉ nhìn cánh chim kia, tầng mây kia, người ta dường như thấy được cả không gian đang trải rộng ra, bầu trời cao hơn, mênh mông hơn còn không gian thì thật êm đềm, tĩnh lặng. Chỉ là nét chấm phá nhẹ nhàng cơ bản, nhưng bức tranh thiên nhiên ở đây đã hiện lên thật đầy cảm xúc và màu sắc.
Cũng như Nguyễn Du đã từng cảm thán:
“Chim hôm thoi thót bay về rừng”
Thì ở đây, Hồ Chí Minh cũng đã làm được điều tương tự. Chỉ với cánh chim chao nghiêng trên bầu trời chiều kia, Người đã gợi lên ý niệm không chỉ không gian mà còn cả về thời gian nữa. Chỉ bằng hai câu thơ rất mộc mạc thôi, Người đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên yên bình, tĩnh tại. Không như cánh chim trong câu ca dao “chim bay về núi tối rồi” hay trong câu thơ của Nguyễn Du đều có sự chuyển động đôi cánh “bay”, cánh chim trong thơ của Người chỉ tĩnh lặng lướt nhẹ trên tầng không bởi vì nó đã rất mỏi mệt, chỉ muốn lướt nhẹ thật nhanh tìm về một “chốn ngủ” trong rừng của mình. Hình ảnh cánh chim trong thơ của Hồ Chí Minh dường như mang một nỗi niềm rất sâu sắc về tâm trạng, về cảm xúc. Cánh chim ấy có chăng chính là cảm xúc của Người trên con đường di chuyển tới nhà lao, mỏi mệt chỉ muốn tìm một “chốn ngủ”, chốn trú chân trong cuộc hành trình để rồi ngày mai lại tiếp tục một hành trình mới? Có thể nhận ra rằng dường như có một sợi dây vô hình tương đồng nào đó trong cánh chim kia với tâm trạng của Người hay chăng?
Không gian chiều tối ấy trong bài thơ, không chỉ có cánh chim chao lượn mà còn có cả những áng mây bồng bềnh. Người ta đã từng thấy nhiều áng mây khác trong thơ của Nguyễn Khuyến:
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”
Hay trong thơ của người xưa:
“Mặt đất mây đùn cửa ải xa”
Nhưng ở trong thơ Hồ Chí Minh, mây ấy lại khác vô cùng:
“Cô vân mạn mạn độ thiên không”
Không như Nguyễn Khuyến viết về tầng mây trong tiết trời thu, không buồn bã như trong thơ Đỗ Phủ với “mây đùn cửa ải”, mây trong thơ của bác lại dường như chuyển động, dù cái chuyển động ấy chỉ rất nhẹ nhàng “trôi nhẹ”:
“Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”
Dù là một chất liệu vô cùng quen thuộc, thế nhưng Người vẫn dựng lên cho nó một cái hay rất riêng. Mây trong Chiều tối gợi lên sự cô đơn đến khó tả, đọc thơ Người mà ta như thấy cả một không gian cô đơn, quạnh quẽ đến nao lòng. Chỉ có một “chòm mây” riêng lẻ “cô vân”, lững lờ trôi nhẹ, lãng đãng trên “tầng không”. “Chòm mây” ấy phải chăng chính là con người đang cô đơn, đang lẻ loi, băn khoăn mà trăn trở, lo lắng cho tương lai của người tù rồi sẽ đi về đâu?
Tóm lại, chỉ bằng hai câu thơ ngắn ngủi, thế nhưng Hồ Chí Minh đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên thôn dã thật yên bình biết mấy với những cánh chim trời và những làn mây trôi. Cánh chim trong thơ Người không mất hút trong không trung vô tận như thơ Lý Bạch “bầy chim một loạt bay cao” mà nó đang bay theo nhịp điệu yên bình bất tận của cuộc sống hiện thực: sáng đi kiếm ăn, chiều về nhà ngủ. Và đám mây kia, cũng không vồn vã, buồn tủi mà cũng đang trôi yên ả trong không gian thanh bình. Vậy mới biết, Bác Hồ dù đang trong cảnh lao ngục tù đày, phải sống trong cảnh đày đọa, thì Người vẫn giữ được hồn thơ, ý chí của mình vượt lên trên tất cả để có thể cảm nhận được cảnh sắc thiên nhiên, bức tranh thiên nhiên chiều tối đẹp và bình yên đến vậy. Quả thật là một ý chí “thép” của người làm cách mạng! Ta cũng thấy được trong đó sự ung dung của Người, phong thái đĩnh đạc của thi nhân dù Người đang trong vòng xiềng xích, lao tù.
Nếu như trong hai câu đầu, nét bút chấm phá của Hồ Chí Minh đã gợi tả lên một khung cảnh thiên nhiên chiều tối đầy thanh bình thì ở hai câu sau, Người lại vẽ lên khung cảnh của cuộc sống con người nơi thôn dã:
“Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”.
Vẫn là nét bút chấm phá quen thuộc, nhưng ở đây Hồ Chí Minh còn sử dụng thêm biện pháp ước lệ của thơ ca cổ khi vẽ lên hình ảnh cô thôn nữ xóm núi. Vậy nên, bức tranh về cuộc sống con người ấy hiện lên thật chân thực và sống động. Trên nền của không gian nơi thôn dã, hình ảnh người thôn nữ trở thành nhân vật trung tâm của bức tranh. Hồ Chí Minh dù vẫn còn đang lê bước chân mình trong xiềng xích, thế nhưng Hồ Chí Minh vẫn cảm nhận được thật rõ vẻ đẹp của con người lao động.
Nếu như ở hai câu thơ trên, hình ảnh thiên nhiên đang đi vào chiều tối, đàn chim cũng đang trở về tổ của mình để nghỉ ngơi sau một ngày mỏi mệt, và đám mây cũng lững lờ trôi nhàn tản trên bầu trời, thì hai câu sau, nhịp thơ lại nhanh hẳn lên để thể hiện nhịp sống của con người lao động. Khi thiên nhiên đang dần bước vào giai đoạn nghỉ ngơi thì con người vẫn đang tiếp tục nhịp sống thường ngày của mình và dường như nhịp sống ấy còn gấp gáp hơn nữa. Con người giờ đây trở thành chủ thể trung tâm của bức tranh thiên nhiên. Cô thôn nữ trong bức tranh thơ đang chăm chỉ lao động cần mẫn, không ngừng nghỉ, “ma bao túc” rồi lại “bao túc ma hoàn” – một vòng lặp tuần hoàn. Những vòng quay lặp lại ấy đang vun vút xay ngô còn thời gian đang trôi dần đi trong tĩnh lặng. Con người trong thơ Bác chẳng tĩnh lặng, buồn tẻ như trong thơ bà Huyện Thanh Quan:
“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
Mà con người ở đây dù trời xế tà thì họ vẫn đang vận động, đang lao động trong cuộc sống hằng ngày. Chính hành động ấy đã góp phần làm tăng thêm tính sống động, góp thêm hơi ấm con người cho bức tranh thiên nhiên thanh bình kia. Con người trong Chiều tối đã trở thành chủ thế làm chủ thiên nhiên chứ chẳng bị thiên nhiên bức ép như trong thơ cổ xưa nữa. Hai câu thơ tả thiên nhiên thật tĩnh lặng, im lìm đến nhường nào thì hai câu thơ này lại đột nhiên sôi nổi hẳn lên. Chính cuộc sống con người đã mang thêm phần hơi ấm cho khung cảnh thiên nhiên. Không chỉ vậy, Người còn gọi người con gái đang xay ngô bên bếp lửa kia là “sơn thôn thiếu nữ” – một từ thật gợi lên bao nhiêu cảm xúc. “Thiếu nữ” – một cô gái trẻ, tràn trề thanh xuân, đó là tiếng gọi thân thương, trìu mến, gợi tả niềm vui sướng, hân hoan khi bắt gặp con người chốn hoang sơ này.
Hơn thế nữa, hình ảnh “cô em xóm núi” không xuất hiện một mình đơn độc như cánh chim ở trên mà bên cạnh còn là một “lò than” nóng hổi đang dần “rực hồng”. Trong một buổi chiều tà dần tối, không khí đang dần trở lên cóng lạnh thì một bếp lửa hồng ánh lên kia thật làm người ta ấm lòng biết bao. Chẳng những nó sưởi ấm không khí mà còn sưởi ấm cả tâm hồn của người thi sĩ. Nó ấm áp và lan tỏa biết nhường nào. Bếp lửa “rực hồng” ấy qua con mắt tinh tế của người thi sĩ cũng thể hiện niềm lạc quan, niềm tin tưởng của người cộng sản rằng ngày mai sẽ luôn tươi sáng, rực hồng như bếp lửa kia.
Từng câu thơ trong Chiều tối của Hồ Chí Minh chẳng hề nhắc tới một khái niệm thời gian, thế nhưng từ khi nhìn thấy bức tranh thiên nhiên rồi đến bức tranh con người, người đọc vẫn nhận thấy sự luân chuyển của thời gian theo cánh chim, theo làn mây, theo cả những vòng quay xay ngô của cô thôn nữ. Cô thôn nữ xay xong ngô thì lò than cũng hồng rực lên, tức là trời đã sập tối hẳn. Buổi chiều qua rồi buổi tối đến nhưng cái tối của buổi đêm không hề âm u mà lại rất ấm áp, rất sáng bởi có bếp lửa hồng đã làm rực lên tất cả. Sự vận động, luân chuyển liên tục từ sáng vào tối rồi lại từ tối trở lại sáng. Nếu cả bài thơ là một bầu trời lẻ loi, cô đơn buồn tủi thì hai câu thơ cuối với sự xuất hiện của con người, của bếp lửa đã làm ấm lòng người thi sĩ và người đọc chúng ta rất nhiều. Cô thôn nữ và bếp lửa hồng đã châm lên ngọn lửa sưởi ấm cả khung cảnh cô đơn của người tù xa quê nơi xứ người. Cũng từ đó, nó như tiếp thêm cho con người đang bị xiềng xích kia niềm tin và sức mạnh, niềm lạc quan để vượt qua nghịch cảnh khó khăn này.
Bài thơ Chiều tối là sự kết hợp của bức tranh thiên nhiên và bức tranh con người lao động. Bức tranh thiên nhiên tĩnh lặng nhưng bức tranh con người lại sinh động, chân thực và ấm áp vô cùng. Tổng thể của bức tranh ấy là tâm hồn yêu thiên nhiên, niềm lạc quan, tin tưởng của người tù xa quê vào cuộc sống, vượt lên trên nghịch cảnh.
Bằng thể thơ cổ thất ngôn tứ tuyệt cùng với các biện pháp chấm phá, ước lệ cổ điển, Hồ Chí Minh đã vẽ lên bức tranh Chiều tối thật hài hòa giữa thiên nhiên và con người. Có thể nói, đây là một trong những bài thơ hay nhất trong các tác phẩm thơ ca của Hồ Chủ tịch. Không chỉ thể hiện tình yêu thiên nhiên, niềm tin cuộc sống mà nó còn thể hiện một tinh thần, ý chí sắt đá trong tâm hồn thi sĩ của Hồ Chí Minh.
3. Bức tranh thiên nhiên và con người trong bài thơ Chiều tối mẫu 2
Bài thơ “Chiều tối” là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất nằm trong tập “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh. Bài thơ được ra đời trong hoàn cảnh Người đang trên đường bị áp giải chuyển lao từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo. Có thể nói bài thơ như một bức tranh hài hòa, giao quyện giữa bức tranh thiên nhiên và cuộc sống của con người, hay chính là sự kết hợp giữa bức tranh hiện thực đời sống và tinh thần thép của người tù cộng sản Hồ Chí Minh.
Có người nào được như Bác, có tinh thần nào lạc quan và yêu đời hơn tinh thần của Bác? Dù trong hoàn cảnh bị chuyển lao cực khổ nhưng trên đường đi Bác vẫn dùng tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống của mình để ghi lại những khung cảnh thiên nhiên và con người để rồi qua đó gửi gắm những nỗi niềm, tâm sự và cảm xúc thầm kín của mình. Mở đầu bài thơ là cảm xúc của người thi sĩ trước cảnh thiên nhiên vùng rừng núi khi chiều tà sẩm tối:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không”
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)
Cảnh chiều tối vùng sơn cước hiện lên rộng lớn, mênh mông nhưng hoang vắng, tĩnh mịch, người thi sĩ đã sử dụng bút pháp chấm phá của thơ cổ điển để tạo nên vẻ đẹp của bức tranh. Bằng những hình ảnh như cánh chim, chòm mây vốn đã quen thuộc trong thơ ca cổ, tác giả đã gợi lên không gian cuối ngày, một ngày đang dần tan trôi từ từ vào đêm tối, thời khắc cuối cùng của mọi hoạt động ban ngày. Trong không gian mênh mông, bóng đêm đang dần bao trùm xuống vạn vật ấy, những hình ảnh này tuy nhỏ bé, mờ nhạt nhưng lại làm tăng thêm sự trống trải, hoang vắng của cảnh núi rừng, đồng thời khắc họa rõ sự cô đơn của người tù cách mạng đang một thân một mình nơi đất khách quê người. Cánh chim mệt mỏi bởi chính không gian rộng lớn làm nó bay mải miết, về rừng tìm chốn ngủ đã nhấn mạnh đến thời điểm kết thúc ngày, cánh chim đã mỏi sau một ngày hoạt động, phải tìm nơi dừng chân, chỗ trú ngụ. Còn người chiến sĩ cách mạng dù cũng đã mệt mỏi nhưng biết bao giờ mới được dùng chân và cũng không biết sẽ dừng chân tại đâu. Hình ảnh “Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không” gợi ra sự lững lờ, ung dung tự tại nhưng lại có phần đơn độc, lẻ loi của người tù cách mạng đang lưu lạc. Mây trôi nhẹ giữa không gian rộng lớn còn gợi sự chậm chạp, khắc khoải trong mơ hồ, cũng giống như Người, trên đường chuyển lao Người băn khoăn trăn trở không biết được tương lai sẽ đi đến đâu, còn cả sự nghiệp cách mạng phía trước sẽ ra sao.
Bỗng trong không gian thiên nhiên ấy hiện lên bóng dáng của con người, sự sống của con người đã làm sống dậy bức tranh, trở thành tâm điểm của cả bức tranh. Sự xuất hiện của cuộc sống con người đã xua tan đi nỗi cô đơn, lẻ loi của người tù cách mạng:
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”
(Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết lò than đã rực hồng)
Nơi thôn quê miền sơn cước có bóng dáng của một thiếu nữ đang xay ngô chuẩn bị cho bữa tối, quả thực đây là một hình ảnh – cảnh tượng hết sức đời thường, bình dị và dân dã. Thế nhưng chính cái đời thường ấy lại là chất xúc tác mạnh mẽ mang đến những cảm xúc phi thường trong tâm hồn người thi sĩ. Nơi miền sơn cước khi chiều tối vắng vẻ lại hiện lên hình ảnh cô gái thôn nữ đang mải miết xay ngô, một hình ảnh tuyệt đẹp về con người trong lao động. Chính vẻ trẻ trung, hăng say lao động ở cô thôn nữ đã xua tan đi cái âm u, tĩnh mịch và hoang vắng của núi rừng khi vào đêm. Những hoạt động sinh hoạt đời thường gợi lên trong lòng tác giả cảm giác ấm cúng hạnh phúc và no đủ, hơn thế hoạt động của con người chính là hơi ấm của sự sống, không chỉ xua tan đi nỗi cô đơn mà còn mang đến niềm vui trong lòng người tù trên miền đất xa lạ. Hình ảnh “lô dĩ hồng” – lò than rực hồng kết thúc bài thơ và cũng chính là nhãn tự của bài thơ, từ điểm nhìn này bức tranh đời sống con người trở nên ấm áp hơn, màu hồng của lò than là ánh sáng của hy vọng, của niềm tin và sức sống. Điểm nhìn này cũng quay ngược trở lại khắc họa rõ thời khắc chuyển giao từ ngày sang tối của thời gian, không gian. Màn đêm đã bao phủ toàn bộ cảnh vật, đến nỗi chỉ một lò than có thể rực hồng nổi bật trong đêm tối của rừng núi sơn cước.
Bài thơ “Chiều tối” thực sự là một bức tranh tuyệt đẹp, hài hòa giữa những mảng sáng và tối, thiên nhiên và con người. Người tù cộng sản Hồ Chí Minh đã bằng những nét tinh tế, trong trẻo nhất của tâm hồn yêu thiên nhiên, cuộc sống để có thể vẽ nên một bức tranh kỳ diệu trong hoàn cảnh đặc biệt – trên đường đi chuyển lao tù.
4. Bức tranh thiên nhiên và con người trong bài thơ Chiều tối mẫu 3
Một buổi chiều tối, vào cuối mùa thu năm 1942, trên con đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo, dù đã trải qua một ngày dài gian lao, vất vả nhưng bác vẫn còn tiếp tục bị bọn lính áp giải trên đường và trước mắt là một đêm trong nhà giam chặt hẹp, bẩn thỉu, lại “Được cùm chân mới yên bề ngủ/ Không được cùm chân biết ngủ đâu”. Những đày đọa ban ngày chưa qua, những đày đoạ ban đêm đã sắp đến. Vậy mà trong hoàn cảnh ấy, người vẫn vượt lên trên tất cả để ghi lại một bức tranh thiên nhiên và cuộc sống thật đẹp:
“Quyện điểu qui lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Sơn thôn thiểu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”.
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngụ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò thân đã rực hồng).
Cả bài thơ là bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con người gần gũi, sinh động trong cảm nhận của một người tù cách mạng.
“Chiều tối” mở đầu bằng hai câu thơ miêu tả thiên nhiên vừa gần gũi lại vừa khác lạ. Cũng giống như trong thơ ca cổ điển phương Đông, khung cảnh thiên nhiên trong hai câu thơ đầu đã được phác hoạ bằng những nét châm phá. Nhà thơ không nghiêng về tả mà chỉ gợi ra một vài nét để bắt lấy cái hồn của tạo vật. Toàn bộ khung cảnh miền thiên nhiên sơn cước hiện ra đơn sơ qua cánh chim chiều mệt mỏi đang vỗ cánh bay về nơi trú ngụ, và trong áng mầy lẻ loi, lững lờ trôi giữa tầng không. Nghệ thuật lấy điểm vẽ diện, lấy động tả tĩnh được vận dụng sáng tạo, Nhìn cánh chim bay, mây trôi mà cảm thấy bầu trời bao la hơn, cảnh chiều tối êm ả, tĩnh lặng hơn. Thiên nhiên ở khắc họa ở hai nét rất cơ bản nhưng hiện lên đầy ấn tượng về cảnh sắc và xúc cảm. Nó gợi ta nhớ đến những câu thơ râ’t hay cũng viết về cảnh chiều tà như vậy. Ca dao từng có câu: “Chim bay về núi tối rồi”. Và đó cũng là cánh chim của buổi chiều tà trong thơ Nguyễn Dủ: “Chim hôm thoi thót về rừng”. Câu thơ của Người vì thế mà cũng vừa gợi ý niệm về không gian vừa gợi ý niệm về thời gian. Mặc dù vậy, hình tượng cánh chim trong thơ Bác không chỉ được quan sát ở trạng thái vận động bên ngoài như trong thơ xưa (cánh chim bay) mà còn được cảm nhận rất sâu ở tâm trạng (cánh chim mỏi mệt). Có thể thấy một sự tương đồng gần gũi giữa hình ảnh cánh chim ấy với người tù trên đường chuyển lao mệt mỏi. Nhưng hành trình của cánh chim có thế’ coi như đến đấy là đã tạm ngừng để nghỉ ngơi thì người tù cách mạng vẫn phải tiếp tục những đày đọa. Nhưng ý thơ không vì vậy mà mất đi sự hoà hợp đồng điệu, giữa tâm hồn nhà thơ với cảnh vật. Bởi cội nguồn của nó chính là tình yêu thương mênh mông Bác giành cho mọi sự sống trên đời.
Hình ảnh chòm mây gợi ta nhớ đến câu thơ của Thôi Hiệu trong bài “Hoàng Hạc lâu”: “Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay” và câu thơ của Nguyền Khuyến: “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” (Thu điếu), vẫn là một thi liệu quen thuộc nhưng “mây” trong thơ Bác không gợi sự vĩnh viễn hay cái khắc khoải mơ hồ của con người trước hư không mà là một chòm mây cô đơn đang chậm chạp trôi giữa bầu trời bao la. Chòm mây như có hồn người. Nó như mang cái tâm trạng lẻ loi, đơn độc, băn khoăn, trăn trở, cha biết tương lai sẽ đi đến đâu của người tù nơi đất khách. Khi Lí Bạch, nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc đời Đường “Độc tọa Kính Đình sơn” (Một mình ngồi trên núi Kính Đình) nhìn thấy cảnh:
“Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn”.
(Bầy chim một loạt bay cao
Lưng trời thơ thẩn, đám mây một mình).
Sơn thôn thiểu nữ ma bao túc
Để cánh chim bay mất hút vào cõi vô tận thì trong thơ Bác, cánh chim là của đời sống hiện thực, nó bay theo cái nhịp điệu bất tận của cuộc sống: Sáng đi ăn, tối về rừng ngủ. Áng mây của Lí Bạch bay nhàn tản gợi cảm giác thoát tục, còn áng mây trong bức tranh “chiều tối” của Bác toát lên vẻ yên ả, thanh bình của cuộc sống thường ngày, ở trong cảnh đày đọa “Năm mươi ba cây số một ngày/ Mũ áo dẩm mưa rách hết giày” vậy mà hồn thơ ấy vẫn vượt lên trên tất cả đê cảm nhận và đón nhận vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên, tạo vật. Tình yêu thiên nhiên và “chất thép” trong tâm hồn người tù cách mạng ấy đã làm nên sức mạnh để chiến thắng hoàn cảnh. Từ bức tranh thiên nhiên, ta bắt gặp một cái nhìn trìu mến dõi theo từng biểu hiện của tạo vật. Không có chân dung người tù khổ ải mà chỉ hiện lên dáng vẻ phong độ của bậc tao nhân mặc khách đang ung dung thư thái thưởng ngoạn cảnh về chiều ở rừng núi.
Nếu như trong hai câu thơ đầu, cảnh vật hiện ra trong những nét vẽ chấm phá phần nào mang tính chất ước lệ cổ điển thì hình ảnh cô thôn nữ trong hai câu thơ còn lại lại được gợi tả một cách chân thực, sinh động và cụ thể như một bức tranh hiện thực. Bức tranh di chuyển điểm nhìn vào cuộc sống con người. Chính nét vẽ đời thường ây đã làm cho bài thơ tãng thêm dáng vẻ hiện đại. Hình ảnh người con gái nổi bật lên, trở thành trung tâm của bài thơ. Thời khắc đầu đêm nơi xóm núi đã làm người tù quên đi cảnh ngộ khổ đau của mình để cảm nhận cuộc sống của nhân dân. Bác đã vợt qua những khoảng cách về không gian, đẳng cấp, dân tộc để đón nhận vẻ đẹp con người ở ngay nơi mà mình bị đày đọa. Đó là điều không phải ai cũng có thể làm được. Hai câu thơ nói lên sự quan tâm và tình cảm yêu thương của Bác đối với ngửời lao động nghèo mà sự làm việc mệt nhọc thể hiện qua âm điệu khắc khổ của bài thơ. Đến đây bài thơ có sự vận động từ bức tranh thiên nhiên sang bức tranh đời sống. Cũng là sự xuất hiện của con người nhưng không phải là cảnh “Lom khom dưới núi tiều vài chú/ Lác đác bên sống chợ mây nhà” chỉ làm tăng thêm nỗi buồn và sự cô đơn của nhân vật trữ tình trong thơ Bà huyện Thanh Quan, con người trong thơ Bác xuất hiện chỉ một mình nhưng lại mang theo sức ấm nóng của sự sống Hành động xay ngô gợi đến những bữa ăn gia đình đông đúc và vui vẻ, gợi cuộc sống lao động b)nh dị. Hơn thế nữa, nó lại đi liền với “lô dĩ hồng”, cái â’m nóng của bếp lửa. Trong một đêm mùa thu giá rét phương Bắc, một bếp lửa rực hồng thật có ý nghĩa. Nó trở nên ấm áp và có sức lan toả hơn bao giờ hết. Cô thôn nữ được miêu tả trong sự lao động cần mẫn. “Ma bao túc” rồi “ma túc ba hoàn” vòng quay của cốì xay ngô cứ đều đặn không ngừng nghi trong thái độ lao động hăng say của con người. Trong sự vận động của câu thơ có sự vận động của thời gian. “Nguyên văn không nói đến tốì mà tự nhiên nói đến: thời gian cứ trôi dần theo cánh chim và làn mây, theo những vòng quay của cối ngô, quay quay mãi, “ma bao túc… bao túc ma hoàn” và đến khi côi xay dừng lại thì “lô dĩ hồng”, lò đã rực hồng, tức là trời tôi, trời tôi thì lò rực lên” (Lê Trí Viễn). Như vậy, bếp lửa của cô gái xay ngô đã hồng lên, nghĩa là buổi chiều êm ả đã kết thúc để bước vào đém tối, nhưng lại không phải đêm tối lạnh lẽo, âm u mà là đêm tối ấm áp, bừng sáng bởi ngọn lửa hồng. Nếu hình dung cả bài thơ là một bức tranh thì chính cái châm lửa đỏ mà người nghệ sĩ tài hoa đã châm lên đó đã mang lại thần sắc cho toàn cảnh, dường như nó làm tăng thêm niềm vui và sức mạnh cho người đang cất bước trên đường xa. Giũa cái hoang sơ hùng vĩ của thiên nhiên đất trời, hình ảnh cô gái xay ngô và bếp lửa rực hồng của cô toát lên vẻ trẻ trung, khoẻ mạnh, sống động, đáng quí và đáng trân trọng biết bao.
Bài thơ là sự kết hợp của hai mảng màu chính: mảng màu của thiên nhiên và mảng màu của cuộc sống con người. Cái làm nên sự hài hoà giữa hai mảng màu ấy là tâm lòng thiết tha yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống của người tù cách mạng. Bức tranh thiên nhiên và cuộc sống có sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng, từ buồn đến vui. Sự vận động này cho thây cái nhìn tràn đầy niềm lạc quan yêu đời, thể hiện tâm hồn luôn vận động hướng ra ánh sáng, hướng ra sự sống, một “chất thép” đáng khâm phục trong tâm hồn thi sĩ – chiến sĩ Hồ Chí Minh.
5. Bức tranh thiên nhiên và con người trong bài thơ Chiều tối mẫu 4
Chiều tối được Hồ Chí Minh sáng tác vào mùa thu năm 1942 khi Bác đang bị giam giữ bởi nhà tù Tưởng Giới Thạch. Trong một lần chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo, Bác đã viết bài thơ Chiều tối để ghi lại khung cảnh thiên nhiên trên đường chuyển lao, đồng thời gửi gắm những tâm sự, cảm xúc thầm kín. Qua bài thơ độc giả có thể phần nào cảm nhận được nét đẹp trong tâm hồn của người chiến sĩ cộng sản ấy.
Sáng tác trong hoàn cảnh đặc biệt khi Bác bị xiềng xích chính quyền Tưởng Giới Thạch giam cầm về tự do, phải trải qua vô vàn những đọa đầy về thân xác nhưng xuyên suốt bài thơ Bác không một lần thể hiện sự bi quan hay than thở về hoàn cảnh là lại hướng tâm hồn tự do của mình đến cảnh sắc của tự nhiên, sự sống của con người. Thế mới thấy chính quyền Tưởng Giới Thạch chỉ có thể giam cầm tự do nhưng sức sống tinh thần lại chẳng sức mạnh bạo tàn nào có thể giam giữ nổi.
Trên đường chuyển lao, Bác đã ghi lại khung cảnh thiên nhiên chiều tối rộng lớn nhưng tịch mịch của vùng sơn cước:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không”
Dịch:
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây nhẹ trôi giữa tầng không
Cánh chim mỏi mệt, đám mây cô đơn là những hình ảnh quen thuộc trong thơ ca cổ điển. Cũng giống như những thi nhân xưa, mượn hình ảnh cánh chim, đám mây để diễn tả nỗi cô đơn, lạc lõng thì trong bài Chiều tối, sự xuất hiện của những hình ảnh quen thuộc này góp phần làm cho không gian vũ trụ trở nên rộng lớn, gia tăng nỗi buồn, sự cô đơn của người tù nơi đất khách quê người.
Cánh chim mỏi mệt trong thơ Bác vừa gợi ra cái rộng lớn, tịch mịch của không gian vừa gợi ấn tượng về chiều thời chiều tà, khi bóng tối bắt đầu bao trùm không gian. Hướng theo cánh chim mỏi mệt bay về rừng Bác đã gửi vào đó tình yêu, sự lưu luyến bất tận với từng dấu hiệu nhỏ nhoi của sự sống, cánh chim mỏi mệt còn tạo ra sự kết nối với hoàn cảnh của người tù. Sự mỏi mệt của cánh chim hô ứng với sự mỏi mệt của đôi chân người tù trên hành trình chuyển lao đầy vất vả.
Không gian mênh mông của vùng sơn cước còn được điểm xuyết bởi hình ảnh đám mây cô đơn đang lặng lẽ trôi vô định trên bầu không. Hình ảnh này gợi cho người đọc liên tưởng đến hình ảnh đám mây đơn độc trong thơ Thôi Hiệu “Ngàn năm mây trắng bây giờ con bay”.
Nếu đám mây trong thơ Thôi Hiệu gợi đến sự phiêu diêu, mênh mang mang ý vị vĩnh hằng thì trong thơ Bác đám mây cô đơn lại gợi ra trạng thái ung dung, tự tại nhưng lại đơn độc, cô đơn của người tù khi lưu lạc nơi đất khách, khi lý tưởng làm cách mạng, cứu dân cứu nước của người chiến sĩ bị gián đoạn.
Bức tranh thơ vẫn không ngừng chuyển động, từ không gian rộng lớn của thiên nhiên, Bác đã hướng sự chú ý đến sự sống của con người:
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”
Dịch:
Cô em xóm núi xay ngô tối
Ngô vừa xay xong lò than đã rực hồng
Hình ảnh thơ giản dị mang những nét đời thường, tuy nhiên chính cái đời thường ấy lại gợi ra bao cảm xúc nồng nhiệt trong tâm hồn của người thi sĩ. Hình ảnh cô gái xay ngô tối thể hiện sức sống mạnh mẽ, dáng vẻ trẻ trung sống động đã xua đi ấn tượng về không gian tịch mịch, về nỗi cô đơn, nỗi buồn triền miên trước đó. Sự xuất hiện của con người như dấu hiệu của sự sống, nó mang đến hơi ấm của sự sống, mang đến niềm vui và niềm tin trong tâm hồn của người chiến sĩ.
Bếp lửa rực hồng được coi là ánh sáng hy vọng, là nhãn tự của cả bài thơ, sự xuất hiện của ánh hồng bếp lửa báo hiệu cho độc giả biết về thời gian chiều tà đã bị bóng tối của màn đêm bao phủ, một dấu hiệu về thời gian độc đáo. Tuy nhiên, bóng tối không mang đến những lãnh lẽo, âm u như ấn tượng thông thường bởi hơi ấm của lò lửa có thể xua đi mọi u tối, mang đến ánh sáng của hy vọng, hơi ấm của sự sống.
Bài thơ Chiều tối viết về không gian chiều tà nhưng không mang đến cảm nhận về sự cô đơn, lạc lõng mà thắp sáng trong lòng mỗi độc giả bằng sự ấm áp của ngọn lửa hồng đầy yêu thương, cùng niềm tin mạnh mẽ vào cuộc đời của tâm hồn lạc quan của Bác.
6. Bức tranh thiên nhiên và con người trong bài thơ Chiều tối mẫu 5
Chiều cũng tựa như mùa thu, từ xưa đến nay vẫn là nguồn cảm hứng vô tận đối với các thi nhân. Hồ Chí Minh là một nhà thơ lớn nên chẳng đáng ngạc nhiên khi hồn thơ ấy đã ngập tràn rung động trước cảnh chiều hôm. Ngay trong tập “NKTT” ta cũng bắt gặp nhiều bài thơ viết về cảnh chiều hôm: Hoàng hôn, Cảnh chiều hôm nhưng quen thuộc hơn cả là ” Chiều tối” ( Mộ). Qua bài thơ, ta thấy được vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con người cũng như tâm hồn cao đẹp của Bác.
Nhật kí trong tù (1942 – 1943) tỏa sáng tâm hồn cao đẹp của người chiến sĩ cộng sản vĩ đại Hồ Chí Minh. Tâm hồn tha thiết yêu con người, đất nước bao nhiêu thì cũng thiết tha yêu thiên nhiên cuộc sống bấy nhiêu. Tâm hồn ấy trong những tháng ngày tù đày tăm tối luôn hướng về tự do, ánh sáng, sự sống và tương lai. Trên đường bị giải đi trong chiều buồn ở tỉnh Quảng Tây – Trung Quốc lòng nhà thơ – người tù bỗng ấm lên và phấn chấn vui vẻ trước thiên nhiên đẹp và hình ảnh cuộc sống bình dị ấm cúng. Cảm xúc nhà thơ viết bài thơ Mộ. Bài thơ được sáng tác cuối thu 1942.
Bài thơ có hai bức tranh rõ nét: hai câu đầu là cảnh hoàng hôn, hai câu sau là cảnh sinh hoạt.
Cảnh hoàng hôn
Trên con đường thanh vắng, thiên nhiên như một hồng thơ đang đón đợi:
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.
Bức tranh hoàng hôn đã được xác định thời gian lúc chiều đang trôi chậm và không gian là bầu trời bao la lúc ánh nắng chỉ còn le lói rồi nhường chỗ cho bóng tối lan dần. Phía xa là cánh chim bay mải miết về tổ, trên cao là chòm mây trắng lẻ loi trôi lơ lửng. Thiên nhiên được miêu tả với vài nét chấm phá nhưng đã gợi ra khung cảnh bát ngát, trong sáng êm đềm của hoàng hôn vùng rừng núi. Thiên nhiên có vẻ đẹp trong trẻo, thơ mộng nhưng quạnh quẽ đượm buồn. Vẻ đẹp ấy rung cảm bởi tâm hồn xao xuyến yêu thương của Bác.
Hai câu thơ sử dụng bút pháp chấm phá miêu tả, nhất là cách sử dụng thi liệu mang đậm sắc cổ điển: lấy cánh chim biểu tượng cho hoàng hôn, còn hoàng hôn thì biểu tượng cho nỗi buồn, nhất là đối với người tha hương càng gợi thêm nỗi buồn xa xứ, lòng thương nhớ cố hương, Thôi Hiệu viết:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
(Hoàng Hạc lâu)
Và người đi trên đường xa trong cảnh hoàng hôn ấy dễ cảm thấy cô đơn và chạnh lòng.
Bài thơ có cách cảm thụ thế giới quen thuộc của thơ xưa, thiên nhiên như đồng cảm với tâm sự của con người. Hình ảnh con chim sau một ngày kiếm ăn vất vả như ẩn dụ hình ảnh người tù mỏi mệt sau một ngày đường bị áp giải. Chòm mây buồn như ẩn dụ tâm trạng cô đơn buồn bã của tù nhân. Tứ thơ cổ điển mà vẫn hiện đại, vì thiên nhiên với con người có sự đồng cảm chứ không đồng nhất. Thiên nhiên mệt mỏi còn có chốn nghỉ, cô đơn mà được tự do, còn người tù không biết đi về đâu và mất tự do không biết đến bao giờ. Nên nhà thơ đang khao khát tự do và một mái ấm gia đình. Tả cảnh mà chứa tình, hàm ý sâu xa, đó là vẻ đẹp hàm súc dư ba của thơ cổ điển.
Tóm lại, hai câu thơ gợi tả cảnh thiên nhiên đẹp mà buồn, vì ‘‘người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Buồn vì xa Tổ quốc, buồn vì bị bắt tù oan, buồn vì mất tự do không biết đến bao giờ. Nhưng trước vẻ đẹp của cảnh ấy lòng người ít nhiều cũng tìm được niềm vui thư thái.
Điểm đặc sắc nghệ thuật của bài thơ là chỉ miêu tả không gian với hai hình ảnh đang vận động: cánh chim bay và chòm mây trôi nhưng diễn tả được sự luân chuyển của thời gian: chiều đang trôi chầm chậm về đêm.
Không gian thay đổi, khung cảnh sinh hoạt của một bản làng miền núi được mở ra một cách tự nhiên:
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng
Hai câu thơ sử dụng bút pháp điểm nhãn của thơ cổ điển, nhưng hình ảnh thơ bình dị, chân thực lại được ghi bởi bút pháp hiện thực. Hình ảnh cô gái mải miết xay ngô và xay xong bên lò lửa rực hồng gợi bức tranh đời sống có vẻ đẹp bình dị, ấm cúng, yên vui. Riêng đối với người tù mệt mỏi, mất tự do thì cảnh ấy trở nên vô cùng hấp dẫn, quý giá, thiêng liêng, vì nó lệ thuộc về thế giới tự do. Chỉ có ai đã từng trải qua những cánh đời đau khổ đầy giông bão mới thấy hết giá trị của từng phút giây cảnh đời bình yên. Do đó bức tranh đời sống trở thành nguồn thơ dạt dào, thể hiện niềm xao xuyến, sự rung động mãnh liệt hồn thơ.
Lò lửa hồng là hình ảnh nổi bật trung tâm của bức tranh thơ, làm nổi rõ hình ảnh của cô gái. Nó sưởi ấm bức tranh thiên nhiên hiu hắt. lạnh lẽo và sưởi ấm tâm hồn nhà thơ. Vậy là, hình ảnh cuộc sống con người là điểm hội tụ vẻ đẹp bài thơ, tỏa sáng ánh và hơi ấm xung quanh. Hình ảnh lò lửa hừng hực đặt bên cạnh cô gái tạo ra vẻ đẹp trẻ trung, đầy sức sống của cảnh thơ. Hoàng Trung Thông cho rằng chữ hồng là nhãn tự của bài thơ là vì vậy. Ý thơ cuối khỏe, đẹp bộc lộ niềm vui, lòng yêu đời, yêu cuộc sống. tinh thần lạc quan của Bác.
Như vậy hai câu thơ là sự quan sát của người đi đường nhưng là cái nhìn của người đang khao khát tìm về cuộc sống bình yên giản dị. Thế nên khi bắt gặp hình ảnh cuộc sống con người giữa miền sơn cước, tình yêu và niềm vui đã tràn ngập cõi lòng. Không phải ngoại cảnh tác động đến con người mà chính cảm xúc của con người trùm lên ngoại cảnh. Thiên nhiên đẹp nhưng chưa đủ mang đến niềm vui. Cuộc sống đẹp đã mang đến niềm vui chan chứa. Điều ấy đã thể hiện phẩm chất nhân văn cao đẹp của nhà thơ.
Nguyên tác chữ Hán không có từ tối, bản dịch thơ thừa từ. Không miêu tả đêm tối mà vẫn cảm nhận được là nhờ ánh lửa lò than. Lấy ánh sáng để làm nổi bóng tối, nghệ thuật là ở đó.
Hình tượng thơ vận động rất tự nhiên, bất ngờ, khỏe khoắn: từ lạnh lẽo, hắt hiu đến ấm nóng, sum vầy, từ tối đến sáng, từ buồn sang vui… đó là điểm đặc sắc trong phong cách thơ của Bác, thể hiện niềm tin yêu cuộc đời dù đang ở trong những tháng ngày đau khổ nhất.
Bài thơ Chiều tối có sự hài hòa giữa phong cách cổ điển với hiện đại, giữa thiên nhiên với tâm hồn. Bài thơ đã cho người đọc thưởng thức bức tranh thiên nhiên đẹp và cảm nhận được vẻ đẹp của tâm hồn lớn. Một tâm hồn phong phú, giàu cảm xúc, một tình cảm hồn hậu, thiết tha với thiên nhiên, cuộc sống con người; luôn hướng về sự sống và ánh sáng, một tinh thần lạc quan trong gian khổ.
7. Bức tranh thiên nhiên và con người trong bài thơ Chiều tối mẫu 6
Bác Hồ của chúng ta không chỉ là một nhà cách mạng vĩ đại mà còn là một nhà thơ lớn của dân tộc. Thiên nhiên trong thơ bác hiện lên thật đẹp, thật lãng mạn nên thơ. Bức tranh thiên nhiên trong bài Chiều tối và Giải đi sớm là những bức tranh như thế, nó thể hiện tâm hồn, cốt cách cao đẹp của nhà thơ
Hai bài thơ viết về hai thời điểm khác nhau của một ngày chiều tối và sáng sớm song cả hai đều đẹp và tinh tế thông qua ngòi bút sắc sảo của nhà thơ. Đặc biệt, ở cả hai bài thơ thiên nhiên đều đi từ tối tăm, lạnh lẽo đến ánh sáng và ấm áp.
Ở Chiều tối, nhà thơ đã có một sự đồng cảm đặc biệt với thiên nhiên:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.”
Khi chuẩn bị hết một ngày, con người muốn trở về nhà để sum họp gia đình. Ở đây, chim cũng bay về rừng tìm điểm tựa, về với gia đình và “tìm chốn ngủ”. Nhưng đó không phải là cánh chim bình thường mà là cánh chim “mỏi”. Nhìn cánh chim bay đã biết chim mệt mỏi sau một ngày kiếm ăn vất vả. Phép nhân hóa đã thể hiện tấm lòng nhà thơ đối với thiên nhiên. Chưa hết, “chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”. Câu thơ nguyên văn chữ Hán là “Cô vân mạn mạn độ thiên không”. “Cô vân” là chòm mây kẻ loi, cô độc, “độ thiên không” là bay ngang qua bầu trời. Câu thơ miêu tả một chòm mây cô đơn, lẻ loi một mình thực hiện cuộc hành trình dài dằng dặc bay ngang qua khoảng trời rộng lớn. Khung cảnh vắng vẻ, mệt mỏi gợi buổi chiều tà đang lắng dần những thời khắc cuối ngày. Bóng tối đang mơn man mặt đất… Bầu trời rộng lớn chỉ có cánh chim và áng mây lẻ loi. Còn mặt đất, nơi vẫn đông đúc vui vẻ sự sống thì:
“Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã ửng hồng”.
Thực ra trong nguyên bản chữ Hán là:
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”
Bài thơ lấy tiêu đề là cảnh chiều tối, nhưng toàn bài không có một chữ “mộ” nào. Ngược lại, cảnh chiều tối nhưng lạ để ánh sáng ngân vang. Bài thơ khép lại với hình ảnh “lò than rực hồng” – “lô dĩ hồng”. Trong tiếng Hán, “hồng” là ánh sáng, hồng còn là ấm áp. Sự ấm áp của ngọn lửa giữa buổi tối miền núi lạnh lẽo; cũng là sự ấm áp của tình cảm gia đình đoàn tụ quây quần. Và biết đâu, còn ấm bởi tình người – tình cảm của Bác đối với những kiếp cần lao, với người dân miền núi bên cạnh nhịp quay nặng nề của cối xay “ma túc bao – bao túc ma hoàn”.Bài thơ nói đến sự mệt mỏi; cô đơn, lang thang vô định của chim, của mây đến ánh sáng hồng tươi ấm áp của ngọn lửa, của tình người.
Bài Giải đi sớm lại miêu tả lại khung cảnh bắt đầu của một ngày. Phần một là cảnh thiên nhiên khi “đêm chửa tan”. “Đêm chửa tan” – “dạ vị lan” tức là trời đang đêm, còn tối “dạ”. Bóng tối nơi miền núi hoang sơ gắn với cái lạnh lẽo, hoang vu và cả nỗi sợ hãi. Nhưng núi non, vực thẳm hiểm trở, chỉ xảy chân một chút là… Không chỉ thế, còn là miền núi lúc nửa thêm thu. Mùa thu đất Bắc thì lạnh lẽo vô cùng. Ở đây, Bác chỉ nhắc đến những cơn gió thu “trận trận hàn” đã thấy tê buốt xương da như đóng băng vậy.
Sang đến phần 2 thì cảnh thiên nhiên hiện ra khác hẳn với phần trước. Màu sắc, không gian đối lập hoàn toàn với phần trước. Đất trời “màu trắng chuyển sang hồng”. Màu hồng của ánh dương rực rỡ, của sự ấm áp, của miền núi hy vọng. Bóng tối bị quiets sạch, không gian được thanh lọc đến vô cùng: “Bóng tối đêm tàn, sớm sạch không”. Nguyên tác Bác dùng từ “tảo nhất không” – đã hết sạch để nói đến cái trong trẻo tuyệt đối của sớm mai. Và hơi ấm ngày mới lan tỏa bao trùm “Hơi ấm bao la toàn vũ trụ” để “Người đi thi hứng bỗng thêm nồng”.
Từ sự lãnh lẽo, tối tăm của đêm thu đến buổi sớm mai ấm áp trong lành đầy màu sắc, thiên nhiên vận động tươi sáng nhịp nhàng còn tác động tích cực đến con người và cũng thể hiện tâm hồn một con người yêu thiên nhiên, lạc quan tin tưởng vào ngày mai đầy ánh sáng.
Ngay ở Chiều tối ta đã bắt gặp một tình yêu thương bao la Bác dành cho thiên nhiên và sự sống con người. Có vậy Bác mới đồng cảm với sự “mỏi” của cánh chim; cái cô đơn, lang thang của chòm mây “mạn mạn độ thiên không”. Đặc biệt, Bác chia sẻ với nỗi vất vả của người dân ngoại quốc. Điều đó thể hiện qua câu thơ diễn tả nhịp quay nặng nề của cối xay ngô “ma bao túc – bao túc ma hoàn”. Ta cần lưu ý rằng, khi ấy Bác đang phải chịu cảnh tù đày, Bác đau khổ hơn cánh chim, áng mây và người sơn nữ kia nhưng người vẫn mở lòng để cảm thông chia sẻ. Đặc biệt, qua cái ấm áp của ánh lửa gia đình, ta hiểu rằng Bác đang chung vui, chung ấm với bữa cơm gia đình người sơn nữ.
Ở giải đi sớm không chỉ tấm lòng mà cả bản lĩnh của người tù cách mạng thể hiện rõ. Đêm thu lạnh lẽo hiểm nguy, người vẫn mở lòng ưu ái với thiên nhiên, nhìn thiên nhiên bằng đôi mắt hữu tình tinh tế: “Chòm sao nâng nguyệt vượt lên ngàn” – “Quần tinh ủng uyền nguyệt thướng thu san”. “Quần” là quây quần gợi cái đông vui, ríu rít. “Ủng” là bao lấy, ôm lấy. Hình ảnh những vì sao đông đúc vui vẻ ôm ấp trăng cùng bay lên “thướng” thật tình tứ thi vị. Cũng trong đêm hàn thu ấy, người chiến sĩ cách mạng đã thể hiện bản lĩnh bằng thái độ sẵn sàng đón nhận gian khổ, đón nhận nguy hiểm thậm chí thách thức chúng “nghênh diện thu phong trận hàn”. Nếu như điệp từ “trận trận” gợi đến lớp lớp đợt gió thu lạnh buốt táp vào thì từ “nghênh” đầy kiêu hãnh thể hiện thái độ sẵn sàng đối mặt với gian nguy. Con người ở đây mạnh mẽ, can trường và kỹ vĩ, tự nâng mình lên sánh với thiên nhiên. Không chỉ vậy, với sự khắc nghiệt của thiên nhiên Người “ngênh diện” nhưng với sự ấm áp, sáng tươi. Người hòa mình vào ban mai tươi sáng “Người đi thi hứng bỗng thêm nồng”. Vậy là bỗng chốc một tù nhân vụt hóa thành thi nhân. Khổ đau chỉ là cảm hứng để Bác tỏ lòng can trường. Anhs sáng ban mai để Bác ấm lòng lạc quan tin tưởng.
Không chỉ Chiều tối và Giải đi sớm, rất nhiều bài thơ trong Nhật kí trong tù tả cảnh thiên nhien và tất cả thiên nhiên đều có sự vận động tươi sáng từ trong bóng tối tới ánh sáng. Ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt, những vần thơ ấy thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu tự do bao la của Bác. Và hơn hết, nó thể hiện bản lĩnh, tinh thần người cách mạng luôn lạc quan, tin tưởng vào ngày mai tươi sáng.
Nguồn cảm hứng sáng tác của Bác xuất phái từ lòng yêu thiên nhiên, yêu đất nước trong thi sĩ. Tả cảnh thiên nhiên nhưng tác giả cũng đưa ra những lời dự đoán về kết quả của cuộc khắng chiến chống mĩ cứu nước của dân tộc sắp kết thúc thắng lợi. Bài thơ thê hiện tư thế ung dung tự tại, và lòng yêu nước của tác giả.
Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Văn học – Tài liệu của Tmdl.edu.vn.
Trang chủ: tmdl.edu.vn
Danh mục bài: Văn Học