Giáo dục

Cảm nhận về Hạnh phúc của một tang gia – Vũ Trọng Phụng

Cảm nhận về Hạnh phúc của một tang gia để thấy được ngòi bút trào phúng bậc thầy của tác giả Vũ Trọng Phụng. Ông đã miêu tả đám tang cụ cố tổ, giống như một chuỗi cười dài, một cuộc đưa tiễn tập thể, cuộc hành trình tới mộ của cả xã hội, cái xã hội tư sản thành thị Âu hoá rởm, văn minh rởm hết sức lố lăng, đồi bại đang hiện diện ở Việt Nam những năm 30 – 45 của thế kỉ XX.

Đề bài:Cảm nhận về Hạnh phúc của một tang gia –  Vũ Trọng Phụng

Bạn đang xem bài: Cảm nhận về Hạnh phúc của một tang gia – Vũ Trọng Phụng

Những bài văn mẫu hay nhất cảm nhận về đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia

Bài văn mẫu số 1

Vũ Trọng Phụng (1912-1939) được xem là ông vua phóng sự đất Bắc, là một tiểu thuyết gia đệ nhất, là một nhà trào phúng bậc thầy. Cuộc đời ông tuy ngắn ngủi nhưng ông đã hoàn thành sự nghiệp của một thiên tài. Tác phẩm của ông là những tiếng nói quyết liệt, phẫn uất với một xã hội vô nghĩa lý.

Tiểu thuyết Số đỏ là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông, đây là tiểu thuyết viết về đời sông thị dân trong cơn lốc Âu hóa, tác giả đã vạch ra cái văn minh dởm, cái lố lăng và bản chất bịp bợm, dâm ô, đểu cáng, bất nhân của xã hội thượng lưu cùng trưởng giả và thành thị. Nổi bật lên trong tiểu thuyết Số đỏ là đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia, đoạn trích bằng nghệ thuật trào phúng, nhà văn đã phê phán mạnh mẽ bản chất giả dối và sự lố lăng, đồi bại của xã hội thượng lưu ở thành thị những năm trước cách mạng. Đoạn trích đã tạo được một mâu thuẫn trào phúng bao trùm lên, trên cơ sở đó nhà văn đã xây dựng nên những chân dung trào phúng đả kích thật thích đáng.

Nhan đề Hạnh phúc của một tang gia là một nghịch lý đầy ý vị, chua cay. Tang gia là gia đình có tang, ở đây là đại tang tất phải đau thương, buồn thảm. Ấy vậy mà đám tang này lại hạnh phúc, cái gia đình tam đại đồng đường này khi cụ tổ tám mươi tuổi chết đã khiến cho lũ con cháu sung sướng lắm! Tác giả đã xây dựng thành công một tình huống điển hình để phơi bày những bộ mặt đồi bại trong cái gia đình trưởng giả ấy, vạch trần những cặn bã, những quái thai của cái xã hội dở ta dở tây ấy. Cha chết, ông chết, bọn con cháu vô tâm cũng sung sướng thỏa thích, đây là dịp hiếm có để khoe của, khoe giàu, phô cái sang ra cho thiên hạ biết. Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thuê xe đám ma, vân vân… Niềm vui tràn ngập tang gia ai cũng vui vẻ cả. Người con trai cả là cụ cố Hồng hút liền một lúc một chặp sáu mươi điếu thuốc phiện, hả hê lim dim đôi mắt.

Bữa nay, cha chết, cụ cố vui vẻ lắm, nhưng thằng bồi tiêm vẫn còn đếm được một nghìn tám trăm bảy hai câu gắt: Biết rồi, khổ lắm, nói mãi! trong cái dư vị êm ái của thuốc phiện. Cụ nhắm nghiền mắt lại để mơ màng đến cái giờ phút hạnh phúc nhất là lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu để cho thiên hạ phải trầm trồ một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế, rồi ngạc nhiên chỉ trỏ: úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa. Con trai đã báo hiếu cha như vậy! Đó là một nét biếm họa thần tình. Tâm hồn sa đọa, đạo lý suy đồi đến cùng cực, từ cha đến con. Hai đứa cháu nội của cụ tổ xuất hiện giữa đám tang với bao nét kệch kỡm lố lăng, ông Văn Minh đi Tây du học sáu năm mà chẳng có một mảnh bằng nào cả, về nước hắn mở hiệu may để cổ vũ cho cái trò Âu hóa nhằm phô ra những bộ phận kín đáo của phái đẹp. Ông nội mất, đứa cháu quý hóa này nhăm nhăm nghĩ đến chuyện chia gia tài, thích thú ra mặt vì cái chúc thư kia đã vào thời kì thực hành chứ không còn là lý thuyết viển vông nữa.

Còn cậu Tú Tân thì mở cờ trong bụng, được dịp trổ tài bấm lách tách mấy cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến, lúc đưa tang cậu lăng xăng chạy lên chạy xuống để mình dàn cảnh, lúc hạ huyệt cậu đạo diễn bắt bẻ từng người cách chống gậy, gục đầu, cong lưng, lau mắt thế này thế nọ để cậu bấm máy. Cậu luộm thuộm trong chiếc áo thụng trắng như một tên hề. Tác giả đã phác họa đám ma cụ tổ bằng nhiều nét hoạt kê, châm biếm sâu cay cái dởm đời của bọn thượng lưu tha hóa.

Một đám ma to tát, một đám ma gương mẫu cũng chẳng qua là một đám rước sách. Có kiệu bát cống lợn quay đi lọng, có lốc bốc xoảng và du bích. Có nhiều vòng hoa, ba trăm câu đối và vài trăm người đi đưa. Thật đúng là một đám ma theo cả ba lối ta – Tàu -Tây. Bởi thế nên bầy con cháu hạnh phúc, còn người chết cũng phải mỉm cười sung sướng nếu không gật gù cái đầu. Lấy cái phi lý để vạch trần cái lố lăng, đồi bại là một nét cực kì sắc sảo, độc đáo trong nghệ thuật trào phúng của tác giả. Có bao đám khách quý phái và trang trọng đến đưa ma cụ tổ, phụ nữ chiếm một nửa là trai thanh gái lịch, là bạn của cô Tuyết và bà Phó Đoan. Họ đến đưa ma là để cười tình với nhau, bình phẩm lẫn nhau, chê bai nhau, và cả hẹn hò nhau. Bọn mày râu, bạn của cụ cố Hồng đến đưa tang để khoe mẽ ngực đầy những huân huy chương của nước mẹ hay của bọn bù nhìn ban phát cho. Khi đặc tả bộ râu của đám quan khách này, nhà văn đã sáng tạo nên những chi tiết, ngôn từ và giọng điệu trào phúng chua cay. Một lối nói nhạo, chế giễu thật thân tình, trên mép và cằm của các ông trưởng giả khoe tài khoe đức ấy đếm đủ râu ria, hoặc dài hoặc ngắn, đen hoặc hung, lún phún hoặc rầm rậm.

Người đọc phải bấm bụng mà cười khi đọc đoạn văn miêu tả những bộ râu ấy. Đằng sau những bộ râu kia là những bộ mặt người tha hóa vô luân. Tác giả đã sử dụng sáng tạo thủ pháp phục bút khi tả sự xuất hiện của Xuân Tóc Đỏ. Cô Tuyết mặc bộ đồ ngây thơ đi mời trầu và thuốc lá quan khách với vẻ mặt buồn lãng mạn rất đúng với không khí của một nhà có đám. Cô vô cùng sung sướng khi thấy anh Xuân đã đến bên liếc mắt đưa tình để tỏ ý cảm ơn. Xuân Tóc Đỏ đã đến đưa đám một cách cực kì sang trọng, với sáu chiếc xe, với sư chùa Bà Banh, cùng sư cụ Tăng Phú. Hai vòng hoa lớn đã khiến cho cụ bà sung sướng kêu lên: Ấy! Giá không có món ấy thì là thiếu chưa được to, may mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi! Xuân chẳng giận ai lại còn đến phúng viếng rất to, làm cho đám ma cụ tổ trở nên danh giá hơn tất cả.

Tóm lại, qua toàn khung cảnh trong tác phẩm, tác giả Vũ Trọng Phụng đã thể hiện xuất sắc tài kể chuyện và nghệ thuật hoạt kê trong miêu tả. Cái tài của tác giả đã phóng đại bức chân dung biếm họa, những cảnh đời lố lăng theo thủ pháp nghệ thuật trào phúng khiến cho người đọc lẫn người nghe phải cười và cũng thấy được bao sự thật chứa đựng ở bên trong. Chuyện kể đầy kịch tính với bao sự phi lý đến ghê người đã lật tung mặt nạ của bọn đạo đức giả. Tiếng cười vang lên trong tác phẩm là tiếng cười châm biếm có giá trị tố cáo và mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Tiếng cười ấy đã phơi bày tất cả những bản chất lố lăng xen lẫn sự đồi bại của cái xã hội nhuộm màu sắc Âu hóa kệch cỡm ấy.

>> Xem thêm:

  • Phân tích đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
  • Sơ đồ tư duy Hạnh phúc của một tang gia

Bài văn mẫu số 2

Số đỏ là cuốn tiểu thuyết trào phúng được viết theo khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa. Tác phẩm đã phát huy cao độ tài năng châm biếm, đả kích sắc sảo của Vũ Trọng Phụng. Khối căm ghét của ông đối với xã hội thối nát không còn là một lời chửi rủa tuyệt vọng nữa mà nổ ra thành một trận cười sảng khoái, có sức công phá mạnh mẽ tung vào giữa những cái lố bịch, kệch cỡm của xã hội đương thời.

Dưới ngòi bút kì tài của Vũ Trọng Phụng, chương nào, đoạn nào cũng thú vị, hấp dẫn như một màn hài kịch trọn vẹn. Đặc biệt nhất là chương Hạnh phúc của một tang gia.

Ý nghĩa châm biếm gửi cả trong cái tên của chương truyện. Một gia đình có tang, thậm chí đại tang ắt phải tiếc thương, sầu não đến bực nào, ấy vậy mà lại hạnh phúc?! Mới nghe có vẻ ngược đời nhưng suy ngẫm kĩ trong hoàn cảnh cụ thể của gia đình này thì điều ấy lại chân thực, hợp lí.

Ở đám tang cụ Tổ, ai cũng vui như tết con cháu, cháu chắt, họ hàng thân thích, người quen biết,… cũng thấy đây là một dịp may hiếm có để mình thỏa mãn một nguyện vọng, hay một ý đồ nào đó. Vũ Trọng Phụng vạch rõ chân tướng nhố nhăng, lố bịch của những hạng người mang danh là thượng lựu, quý phái, văn minh tân tiến nhưng thực chất là những cặn bã, quái thai của cái xã hội dở Tây dở ta buổi ấy.

Trong chương này, tác giả đã xây dựng thành công một tình huống điển hình để bộc lộ những tính cách đặc sắc. Trước hết phải nói đến thái độ của những kẻ có quan hệ ruột rà với cụ Tổ. Cái chết của cụ chẳng làm cho đứa con, đứa cháu nào tiếc thương bởi đã từ lâu, họ mong cụ chết cho nhanh để chia gia tài. Ngược lại, cái chết của cụ đã đem đến cho họ một niềm vui to lớn không che giấu nổi – một hạnh phúc: Cái chết đã làm cho nhiều người sung sướng lắm. Bọn con cháu vô tâm cũng vui sướng thỏa thích… Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thuê xe đám tang… Tang gia ai cũng vui vẻ cả…

Cậu Tú Tân, cháu nội cụ Tổ rất hào hứng, phấn khởi vì cậu có dịp trổ tài và sử dụng mấy cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến. Vợ Văn Minh (cháu dâu) mừng rỡ vì sẽ được mặc đồ xô gai tân thời và đội cái mũ mấn trắng viền đen… để quáng cáo cho một kiểu đồ tang mới lạ. Còn người con trai của cụ Tổ sung sướng vì một lý do khác lớn hơn. Cụ Cố Hồng mơ màng đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu để cho thiên hạ bình phẩm, ngợi khen úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kìa kìa.

Văn Minh (cháu nội), đã từng du học tận bên Tây bao năm, về nước không có nổi một mảnh bằng, chỉ nhăm nhăm nghĩ tới chuyện chia gia tài thì thích thú ra mặt vì cái chúc thư kia đã vào thời kì thực hành chứ không còn là lý thuyết viển vông nữa. Riêng người cháu rể (Phán mọc sừng) thì khấp khởi, sướng rơn trong bụng vì đã được bố vợ nói nhỏ vào tai rằng sẽ chia thêm một số tiền vài trăm nghìn đồng. Chính ông không ngờ rằng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến thế! Không khí của đám ma là không khí của một ngày hội. Đây cũng chính là mâu thuẫn trào phúng gây cười ra nước mắt, xuyên suốt hoạt cảnh này.

Đám ma rất to, to chưa từng thấy ở đất Hà Thành xưa nay. Có đủ cả kiệu bát cống, lợn quay… đi lọng, vài ba trăm câu đối, bức trướng, vòng hoa phúng điếu, vài trăm người đi đưa nghiêm nghị thành kính đi sát ngay sau linh cữu cụ Tổ trong đủ thứ tiếng kèn huyên náo kèn Ta, kèn Tây, kèn Tàu, có cả âm thanh chói tại, rộn rã của lốc bốc xoảng và bu-xích…

Đám ma trở thành dịp may hiếm có để trưng bày và quảng cáo các mốt quần áo Âu hóa mới nhất của tiệm may vợ chồng Văn Minh – sản phẩm độc đáo của nhà thiết kế mĩ thuật Typhono. Đó là cô Tuyết với bộ y phục ngây thơ khá hở hang với nét mặt cố tạo một vẻ buồn lãng mạn, rất đúng mốt một nhà đám, khiến cho bao nhiêu vị khách đàn ông khi trông thấy làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết phải xúc động còn hơn nghe tiếng kèn đám ma. Đó là bộ đồ tang đã được cách tân của vợ Văn Minh làm cho mọi người phải xuýt xoa, trầm trồ…

Ngoài những thân nhân của người quá cố phải nói đến đám bạn bè, quan khách của tang chủ, những kẻ đi đưa đám không phải để chia buồn mà cố khoe các thứ huy chương, mề đay đeo đầy ngực và các kiểu râu ria tân thời nhất. Hoặc là đám phụ nữ quí phái, đám giai thanh gái lịch đang đeo đuổi, học đòi phong trào Âu hóa, vừa đi đưa ma vừa cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, hẹn hò nhau… Và mỉa mai thay, họ làm tất cả những điều đó bằng vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma. Điều đó chứng tỏ họ hoàn toàn dửng dưng với người chết, tất cả đều thản nhiên, vui vẻ và dối trá.

Người dân hai bên đường đổ xô ra xem đám ma như xem một sự lạ. Đám ma to đến nỗi những người trong tang gia cảm thấy hết sức sung sướng và hàng phố nhốn nháo cả lên khen đám ma to. Nhà văn lạnh lùng bình luận: Đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu. Thật là mỉa mai, chua chát!

Đằng sau cái phô trương, cố làm ra vẻ long trọng, danh giá ấy là sự rởm đời đến mức lố lăng, là thói háo danh vô lí, của bọn người giàu sang, hãnh tiến và vượt lên tất cả là thói đạo đức giả, tự lừa mình và lừa người mà xã hội thời ấy mặc nhiên công nhận.

Song song với việc mô tả hình thức đám ma với đủ các nghi thức trọng thể, Vũ Trọng Phụng không quên đi sâu thể hiện, phanh phui mặt trái của nó. Ngòi bút sắc sảo của nhà văn trưng lên liên tiếp những bức biếm họa trước mắt người đọc, để rồi giúp người đọc nhận ra rằng cái đám ma to tát ấy chỉ thiếu một cái duy nhất mà cũng quan trọng nhất của đám ma – đó là tình người. Thiếu lòng thương tiếc chân thành đối với người đã khuất thì tất cả những hình thức lòe loẹt, om sòm kia đều trở thành vô nghĩa, thành trò cười cho thiên hạ. Những kẻ có mặt trong đám ma giống nhau ở chỗ đều giả dối và vô đạo đức.

Xuân Tóc Đỏ xuất hiện, đẩy sự lố lăng, dị hợm của đám ma cụ Tổ lên tới đỉnh cao. Hắn chọn đúng lúc để có mặt, trước sự chú ý của mấy trăm con người và gây ấn tượng mạnh với hai vòng hoa đồ sộ, sáu chiếc xe kéo sang trọng và một đám sư, cùng loại sư của báo gõ mõ. Điều này khiến cho cụ Phán bà càng thêm sung sướng: giá không có món ấy thì là thiếu chưa được to, may mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi, và cô Tuyết người yêu của hắn cũng phải cảm động mà liếc mắt đưa tình với hắn.

Mấy chi tiết đặc tả cảnh hạ huyệt càng mỉa mai, trào phúng. Nó được dàn dựng như một vở kịch mà bàn tay đạo diễn quá ư lộ liễu, trắng trợn. Cậu Tú Tân bắt từng người phải chống gậy, gục đầu, cong lưng, lau mắt… để cậu chụp ảnh, trong khi bạn hữu của cậu rầm rộ nhảy lên những ngôi mả mà chụp để cho ảnh khỏi giống nhau. Chất bi hài của cảnh khiến người đọc cười ra nước mắt. Chỉ có một tiếng khóc lớn nhất bật lên là của ông Phán mọc sừng. Ông oặt người đi, khóc mãi không thôi và tiếng khóc của ông thật đặc biệt: Hứt! Hứt! Hứt!… Ông thương cho người đã khuất chăng? Không phải! Ông đang đóng kịch trước mặt mọi người. Thực ra ông ta rất mừng vì cụ Tổ chết và ông được chia phần khá nhiều, kể cả cái giá của bộ sừng mà vợ ông đã cắm lên đầu ông. Miệng khóc, tay ông dúi nhanh vào tay Xuân Tóc Đỏ tờ bạc năm đồng gấp làm tư để trả công hắn đã gọi ông là Phán mọc sừng trước người nhà vợ. Và cũng nhờ đó mà ông có thêm được món tiền lớn.

Qua chương Hạnh phúc của một tang gia, Vũ Trọng Phụng bộc lộ xuất sắc tài kể chuyện của mình. Bút pháp của Vũ Trọng Phụng giỏi ở chỗ phóng đại mà như không phóng đại, làm cho mọi việc đều như thật và hơn thật. Ông chú ý đến các mâu thuẫn giữa hiện tượng và bản chất, khai thác triệt để nhằm gây nên những tràng cười có ý nghĩa phê phán sâu sắc. Cảnh đám ma hiện ra như một màn hài kịch sinh động hay như một bức biếm họa khổng lồ và chi tiết về cái xã hội tự cho là thượng lưu, sang trọng ở Hà Nội thời đó đang phơi bày tất cả cái bản chất lố lăng và đồi bại của nó.

>>>Đọc thêm hướng dẫn soạn bài Hạnh phúc của một tang gia

————-

Trên đây là một số bài cảm nhận về Hạnh phúc của một tang gia – Vũ Trọng Phụng hay nhất mà Trường Trung Cấp Nghề Thương Mại Du Lịch Thanh Hoá sưu tầm và tổng hợp làm tư liệu học tập cho các em. Ngoài ra, các em có thể tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu 11 khác được cập nhật thường xuyên tại Trường Trung Cấp Nghề Thương Mại Du Lịch Thanh Hoá. Chúc các em luôn học tốt và đạt kết quả cao nhé!

Cảm nhận về Hạnh phúc của một tang gia - Vũ Trọng Phụng

 

Cảm nhận về đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia trong tác phẩm Số đỏ của tác giả Vũ Trọng Phụng với nghệ thuật trào phúng bậc thầy.

Bản quyền bài viết thuộc Trường Trung Cấp Nghề Thương Mại Du Lịch Thanh Hoá. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: https://tmdl.edu.vn/cam-nhan-ve-hanh-phuc-cua-mot-tang-gia-vu-trong-phung-hay-nhat/

Trang chủ: tmdl.edu.vn
Danh mục bài: Giáo dục

Lương Sinh

Lương Sinh là một tác giả đầy nhiệt huyết trong lĩnh vực giáo dục, ngoại ngữ và kiến thức. Với hơn 10 năm kinh nghiệm làm việc trong ngành, cô đã tích lũy được rất nhiều kiến thức và kỹ năng quan trọng. Với tình yêu với ngôn ngữ và mong muốn chia sẻ kiến thức, Lương Sinh đã quyết định sáng lập blog tmdl.edu.vn. Trang web này không chỉ là nơi chia sẻ những kinh nghiệm và kiến thức cá nhân của cô, mà còn là một nguồn thông tin hữu ích cho những người quan tâm đến giáo dục, kiến thức và ngoại ngữ. Đặc biệt là tiếng Anh và tiếng Trung Quốc.
Back to top button