Tổng hợp

Bình giảng bài thơ Tây Tiến(hay nhất)

Tuyển chọn những bài văn hay Bình giảng bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng. Với những bài văn mẫu hay nhất dưới đây, các em sẽ có thêm nhiều tài liệu hữu ích phục vụ cho việc học môn văn. Cùng tham khảo nhé! 

Bình giảng bài thơ Tây Tiến – Bài mẫu 1

         Có những tháng ngày ko thể quên, cái gieo neo khốc liệt ko thể quên, cả cái hào hùng lãng mạn cũng ko thể quên.

        May mắn thay, giữa những tháng ngày ko thể quên đó, lại có những bài thơ ko thể quên, như Tây Tiến của Quang Dũng.

         Thật ra số phận của Tây Tiến cũng khá truân chuyên. Đã có lúc Tây Tiến được trích dẫn như một dẫn chứng để phê phán cái xu thế gọi là “tiểu tư sản” trong thơ kháng chiến, một “đối chứng” để khẳng định những gì nên có trong thơ mới. Nhưng rồi Tây Tiến cuối cùng được nhớ lại như một kỷ niệm đẹp của kháng chiến, một tiếng thơ bi tráng của một nền thơ.

          Thành công trước nhất của Quang Dũng là đã cọn cho bài thơ một thể thơ rất hợp: thể bảy chữ; nhưng ko phải bảy chữ Đường luật nhưng mà là bảy chữ thể hành; mỗi đoạn thơ ăn theo một vần bằng, cứ một câu vần bằng lại một câu vần trắc. Điệu thơ đó, cách ăn vần đó, tạo cho bài thơ một nhạc điệu vừa cổ xưa nghiêm trang, vừa phóng khoáng bay bổng, vừa trùng điệp như trải ra vô tận, điệu thơ đó, lại cùng với cách dùng từ hơi cổ xưa một tí của Quang Dũng, làm cho bài thơ ngay lúc vừa đọc lên, đã có một ko khí vừa man mác bâng khuâng vừa lãng mạn hào hùng. Nếu Quang Dũng sử dụng một thể thơ khác kể cả thất ngôn tứ tuyệt trường thiên như ở “Mắt người Sơn Tây”, điệu thơ sẽ khác đi, ko khí bài thơ cũng sẽ khác đi, sẽ buồn hơn, và sẽ ko còn là Tây Tiến nữa. Nhưng đây ko phải là vấn đề lựa chọn. Cảm hứng nghệ thuật của Quang Dũng, nhu cầu bên trong của thi sĩ, đã tìm đúng cái hình trạng phải có cho sự thổ lộ của mình, để cho Tây Tiến ra đời và cuộc sống đời đầy thăng trầm nhưng mãnh liệt của nó.

[wpcc-script type=”rocketlazyloadscript” async src=”https://pagead2.googlesyndication.com/pagead/js/adsbygoogle.js?client=ca-pub-2940752741914611″ crossorigin=”anonymous”]
[wpcc-script type=”rocketlazyloadscript”]

          Hình như có lúc nhan đề bài thơ gồm những ba chữ kia: Nhớ Tây Tiến. Cái nhan đề hơi thừa nhưng lại rõ nghĩa. Tây Tiến là một cảm hứng bắt nguồn từ kỷ niệm, kỷ niệm về một đoạn đời đấu tranh, về một miền đất, kỷ niệm về những người đồng chí, cả những kỷ niệm khó quên về chính mình. Trong đời có những lúc nào đò, kỷ niệm bỗng sống dậy với những đường nét và sắc màu nóng bỏng để gợi lên những xúc cảm và hoài niệm vô tận. Kỷ niệm về Tây Tiến, về cuộc hành quân tiến về tây đánh giặc bên kia biên giới Việt Lào, đã mở đầu như thế.

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

         Nhớ chơi vơi! Hai tiếng chơi vơi dùng ở đây thì thật là đắc địa. Nhớ chơi vơi là nỗi nhớ ko có hình, ko có lượng, hình như nhẹ thênh tênh nhưng mà nặng vô cùng, bỏi ko đo nó được, ko cân nó được, chỉ biết nó lửng lơ, đầy ắp, mênh mông, nó ám ảnh tâm trí mình, nó da diết thương nhớ vô cùng. Nhớ chơi vơi, ít người nào nói như thế, hình như trong ca dao cũng có và chỉ có một lần nỗi nhớ như thế xuất hiện:

Ra về nhớ bạn chơi vơi…

          Trong bài thơ Quang Dũng, hai tiếng chơi vơi này lại ăn vần với tiếng “ơi” ở câu trên, nên càng bộc lộ hết sắc thái ngữ nghĩa và sức khơi gợi của chúng, càng trở thành như một tiếng vang tức thời bật lên từ cõi nhớ: nhớ Tây Tiến – nhớ ngay về rừng núi.

           Ấn tượng sâu đậm nhất về Tây Tiến là ấn tượng về rừng núi. Cả một đoạn thơ mở đầu gồm 14 câu đều dành cho kỷ niệm về rừng núi một vùng mênh mang miền Tây, một vùng biên giới Việt Lào. Nhưng mà rừng núi mới dữ dội, khắc nghiệt làm sao: núi cao, dốc thẳm, sương dày, mưa mịt mù trời đất, thác gầm, cọp dữ… Miền Tây, đó là nơi ngự trị của vẻ thâm u, hoang dại, những thử thách gớm ghê đặt ra trước con người; tự nhiên ở đây luôn là một mối đe doạ, một sức mạnh sẵn sàng vồ lấy con người, xơi tái con người. Ta chớ quên rằng, vào cái mùa xuân Tây Tiến đó, những người lính Tây Tiến như Quang Dũng chỉ vừa mới ra đi từ một mái trường hoặc một góc phố nào đó của Hà Nội – Thăng Long, nơi có Hồ Gươm, Tháp Bút, Tháp Nghiêng, có liễu Hồ Tây, có ba mươi sáu phố phường, có cả những trận chiến đấu trên chiến luỹ khốc liệt nhưng mà vẫn pha nét hào hoa… ấn tượng trước miền Tây vì thế càng gớm ghê.

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm

Hẻo lánh cồn mây, súng ngửi trời

Nghìn thước lên cao, nghìn thước xuống

Nhà người nào Pha Luông mưa xa khơi”

           Từng cụ thể: sương, dốc, mây, mưa… đều được Quang Dũng đưa ra với ấn tượng mạnh nhất của nó. Sương thì dày tới “lấp” cả đoàn quan, dốc thì đã “khúc khuỷu” lại “thăm thẳm”, đã “nghìn thước lên cao” lại “nghìn thước xuống”, “cồn mây” thì hẻo lánh và cao tới “súng ngửi trời”, mưa tới mức những ngôi nhà như bồng bềnh trên biển khơi… Những từ địa danh Sài Khao, MườngLát, Pha Luông, Mường Hịch xa lạ càng làm tăng cái ấn tượng xa ngái, hoang vu lên một bậc nữa.

Đọc mấy câu thơ sau đây:

“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm

Hẻo lánh cồn mây, súng ngửi trời

Nghìn thước lên cao, nghìn thước xuống”

          Tự nhiên thấy rợn ngợp cả người, cứ như lúc đọc mấy câu thơi trong “Thục đạo nan” của Lý Bạch:

Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên!”

(Đường xứ Thục khó đi, khó hơn cả lên trời xanh)

Hoặc như lúc đọc “Chinh phụ ngâm” nhưng mà tới câu:

“Hình khe thế núi xa gần

Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao…”

Tây Tiến là một cuộc hành quân vô cùng gieo neo, gieo neo tới độ:

“Anh bạn dãi dầu ko bước nữa

Gục lên súng mũ quên mất đời

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.”

        Gieo neo tưởng như đã vượt lên trên giới hạn chịu đựng của con người. Những người gục xuống trên đường đi, gục xuống lúc chân còn đi; chỉ lúc “ko bước nữa”, ko thể bước nữa mới “gục lên súng mũ”, và thế là “quên mất đời” chứ ko phải nằm xuống, ngã xuống. Cái ý thơ này dẫu buồn nhưng mà vẫn ko bi đát, bởi vì con người ở đây vẫn vượt lên mình, dẫu ko áp đảo được khó khăn nhưng ko khuất phục, và cho tới lúc chết, vẫn chết trong cuộc hành trình. Thật là một hình ảnh vừa bi vừa hùng. Nó đúng với cái ko khí thời đại của đấtnước đang bước vào một trận chiến đấu nhưng mà mỗi người chỉ có hai tay ko và một tấm lòng, phải đương đầu với súng đạn bom pháo của một bầy giặc mạnh, đấu tranh cho một lời thề thiêng liêng: “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Mỗi cuộc ra đi đều ko hứa ngày về, giống như lời một bài hát rất thịnh hành ngày đó:

“Đoàn vệ quốc quân một lần ra đi

Là có sá chi đâu ngày trở về…”

          Đừng đưa những tiêu chuẩn ý thức sáng sủa cách mệnh hay gì gì đó của những năm sau này nhưng mà đo đạc hay phê phán ý thức của lớp người ngày đó. Bởi vì ở họ, ở mỗi người chiến sĩ lên đường ngày đó, đều có một hình ảnh và một tâm trạng của Kinh Kha sang Tần:

“Phong tiêu tiêu hề dịch thuỷ hàn

Tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn”

(Gió hiu hắt chừ, sông Dịch lạnh tê

Tráng sĩ một đi chừ, chẳng trở về)

         Ôi, cái lãng mạn đẹp tươi của một thời! Đừng gọi đó là người hùng tư nhân. Người hùng thì có nhưng tư nhân thì ko, bởi cái người hùng đó vô tư lắm.

         Trong đoạn thơ đầu này, nếu Quang Dũng có nói “quá lên” về cái gớm ghê của núi rừng (nhưng mà chắc là ko quá) thì cũng chỉ là để nói lên cái hào hùng của con người chứ ko phải để hạ thấp nó.

          Rồi giữa những kỷ niệm khổ và đau như thế, đoạn thơ bỗng khép lại bằng một kỷ niệm thật ấm áp, như một tiếng hát vui bỗng vút lên. Cái khổ cái buồn đó thật đáng nhớ, vì thế cái ngọt bùi giữa bao nhiêu buồn khổ đó lại càng đáng ghi nhớ hơn:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

         Điều vui gợi nhớ điều vui, Quang Dũng dành cả phần thứ hai gồm tám câu thơ cho những ký niệm vui về tình người xứ bạn:

“Doanh trại bừng lên hội hoa chúc

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

          Hình ảnh một cuộc liên hoan văn nghệ đã thành truyền thống trong cuộc kháng chiến chống Pháp được nhắc tới với ba nét tiêu biểu: hoa chúc, điệu múa, tiếng khèn, những cụ thể có màu sắc tả thực nhưng mà vẫn có chút gì rất mộng, rất ảo. Hai tiếng “Kìa em” vừa ngỡ ngàng vừa trìu mến.

Một nét chấm phá về nhân dân xứ bạn lại được định hình rất rõ trên tấm ảnh thời kì:

“Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đu đưa”

       Quang Dũng đã dành phần cuối của bài thơ cho hình ảnh anh quân nhân Tây Tiến, một hình ảnh nhưng mà tác giả muốn ngợi ca một cách khác thường sau lúc đã nói tới những nét hoặc khác thường hoặc lạ mắt của cuộc Tây Tiến gieo neo hào hùng.

“Tây Tiến đoàn binh ko mọc tóc

Quân xanh màu là dữ oai hùm”

         Nếu cần sự lạ mắt thì mấy từ “ko mọc tóc” đã đạt tới chỗ tột cùng của lạ mắt, nhưng như thế thì có sống động ko? Hình ảnh anh quân nhân có trở thành quái gở ko? Ko! Bởi vì, đây là hình ảnh anh “vệ trọc” nổi tiếng một thời, hình ảnh như một dấu ấn ko thể phai của những chàng trai từ thị thành, từ dưới các mái trường “xếp bút nghiên” bước vào đấu tranh, với một lòng yêu nước hoàn toàn vô tư và một tí lãng mạn của một khách chinh phu và một tráng sĩ “gieo Thái Sơn nhẹ tựa lông hồng”. Hình ảnh anh quân nhân trong cái năm trước nhất của kháng chiến đó có thể hoàn toàn thoát được hình ảnh người người hùng nhưng mà văn thơ lãng mạn đã tạo nên, cả từ “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn hay “Chí người hùng” của Nguyễn Công Trứ. Nhưng mà đã có “đoàn binh ko mọc tóc” thì tất nhiên cũng có được “quân xanh màu lá dữ oai hùm”. Hơn nữa cái vẻ “dữ oai hùm” đó cũng hoàn toàn tương xứng với một ý thơ của đoạn đầu:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Hình ảnh anh quân nhân Tây Tiến đã được dựng lên như thế thì thế tất phải có hai câu thơ này:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Mấy câu thơ sau thì thật buồn:

Tản mạn biên thuỳ mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

         Đó là hình ảnh tất nhiên của một trận chiến tranh. Câu thơ đầu đọng lại như một bức tranh buồn thảm bởi tất cả bảy tiếng “tản mạn – biên thuỳ – mồ viễn xứ” đều hàm chứa một lượng thông tin lớn. Câu thơ này nếu đứng một mình thì ấn tượng bi thương thật tới vô cùng. Nhưng từ cái bi thương đó, những câu thơ sau lại nâng nó lên thành bi tráng chứ ko còn bi thương nữa. Nó tráng bởi Quang Dũng đã nói được một điều mấu chốt trong tư cách của người đã chết:

“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

         Cách nhìn, cách phát biểu của thi sĩ cũng xuất phát từ cái tráng đó. Riêng cụ thể thực này: người tử sĩ được mai táng trong chính quần áo của mình (ko có cả chiếu), Quang Dũng đã nói khác đi. Thi sĩ ko nói “áo” nhưng mà nói “áo bào”, và lúc nói “áo bào” thì ta ko còn nghĩ tới “áo” nữa nhưng mà nghĩ tới một cái gì đẹp và hùng tráng hơn rất nhiều. Nói “áo bào” ko phải là thi vị hóa hay “tiểu tư sản”, “mộng rớt” như có người đã nói. Áo bào là đúng trong trường hợp này, vì đây là tấm áo nhưng mà người chiến sĩ đã mặc để đấu tranh cho tới phút chót của đời mình. Vả lại “áo bào” chứ ko phải “chiến bào”. chiến bào thì nghe cổ quá, ko thích hợp, còn “áo bào” thì lại rất mới, rất đúng. Một sự liên kết tình cờ giữa hai từ áo và bào, coi như một đóng góp về từ vựng của Quang Dũng. Người tráng sĩ thời phong kiến coi “da ngựa bọc thây” là một niềm vinh quang thì với người lính bảo vệ quốc gia ngày nay, “áo bào thay chiếu anh về đất” là một hình ảnh đầy sức mạnh ngợi ca. Vả lại, Quang Dũng còn rất tinh tế lúc dùng từ “về”: “anh về đất”; ko từ nào có thể thay thế cho từ này được. “Về đất” ko chỉ là được chôn xuống đất nhưng mà còn là hành động “tựu nghĩa” của người người hùng đã hoàn thành nhiệm vụ, còn là niềm trân trọng, mến thương của quốc gia, của đồng chí. Bi tráng nhất là câu thơ cuối đoạn này:

“Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Buồn đấy nhưng sao nhưng mà hùng tráng quá!”

Quang Dũng kết thúc Tây Tiến bằng một khổ thơ tứ tuyệt:

“Tây Tiến người đi ko hứa ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Người nào lên Tây Tiến mùa xuân đó.

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”

          “Ko hứa ước” rồi lại “thăm thẳm một chia phôi”. Quang Dũng khẳng định cái ý nhiệm “nhất khứ bất phục hoàn” trong hình ảnh anh quân nhân Tây Tiến, cũng là cái ý niệm chung cả một thời kỳ, một thế hệ con người. Đã nói nhiều điều về Tây Tiến, đã nhắc lại nhiều kỷ niệm về Tây Tiến, nhưng cuối cùng cái đọng lại sâu nhất, vững bền nhất về Tây Tiến là cái ý thức đó. Giọng thơ trầm, chậm, hơi buồn, nhưng ý thơ thì vẫn hào hùng.

          “Tây Tiến mùa xuân đó” đã trở thành cái thời khắc một đi ko trở lại của lịch sử nước nhà. Sẽ ko bao giờ còn có lại cái thuở gieo neo và thiếu thốn tới dường đó nhưng cũng lãng mạn và hào hùng tới dường đó. Ko có cái thuở đó thì sẽ ko có bài thơ Tây Tiến; và tất nhiên ko có cái hồn thơ, cái tài thơ của Quang Dũng thì cũng sẽ ko có Tây Tiến. 

Bình giảng bài thơ Tây Tiến – Bài mẫu 2


[wpcc-script type=”rocketlazyloadscript” async src=”https://pagead2.googlesyndication.com/pagead/js/adsbygoogle.js?client=ca-pub-2940752741914611″ crossorigin=”anonymous”]
[wpcc-script type=”rocketlazyloadscript”]

Mở đầu là nỗi nhớ cất lên thành tiếng gọi thiết tha: Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi. Nỗi nhớ cứ gợi dần những kỷ niệm của đoàn quân.

1. Những nét cơ bản về con người tác giả và hoàn cảnh sáng tác của bài thơ:

* Con người Quang Dũng có mấy đặc điểm:

Yêu nước thiết tha. Ông đã ném trọn tuổi xanh của mình cho đời lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Đúng như ông viết “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Mỗi bài thơ của ông đều như mang vong hồn quê hương quốc gia.

Một thanh niên trí thức Hà Nội tài hoa, lãng mạn đồng thời hết sức hồn nhiên sống động. Những câu thơ hay nhất của ông hầu như đều là những câu tài hoa, lãng mạn và hồn nhiên chất phác.

* Hoàn cảnh sáng tác của bài Tây Tiến:

Đó là những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1947 – 1948) đời lính vô cùng thiếu thốn cùng cực. Nhưng người lính Tây Tiến lại còn thiếu thốn cùng cực hơn nữa. Vì ở rừng núi, xa đồng bào, sốt rét hoành hành, thuốc thang thiếu thốn. Hành quân thì toàn lội suối, băng đèo – nhưng mà núi rừng phía Tây của Tổ quốc vùng biên giới Việt Nam – Lào thì vô cùng hoang vu hiểm trở.

Nhưng lính Tây Tiến phần đông lại là thanh niên Hà Nội. Chất người hùng của họ vì thế có màu sắc riêng: màu sắc lãng mạn. Và dù gieo neo thiếu thốn họ vẫn sống cho ra người thanh lịch, hào hoa.

Quang Dũng là một người Tây Tiến như thế. Ông đã sống hoàn cảnh đó và sáng tác bài thơ này – lúc đầu bài thơ có nhan đề nhớ Tây Tiến.

2. Đặc điểm chung và nổi trội của bài thơ:

Cảm hứng lãng mạn và ý thức tráng:

Cảm hứng lãng mạn đặc thù hướng về sự khẳng định cái tôi tư nhân được giải phóng về tình cảm, xúc cảm và trí tưởng tượng. Nó thích đắm chìm trong một toàn cầu phi thường, bí hiểm. Nó thích vẻ đẹp có tính chất xứ lạ phương xa. Nó thích đi vào tự nhiên và tình yêu.

Đối với chủ nghĩa lãng mạn, cái buồn, nỗi đau, cái bi được xem như một phạm trù mĩ học. Cho nên nó thích nói tới sự độc thân, sự chia ly, chuyện thất tình và cái chết.

Ở bài Tây Tiến, gắn liền với cảm hứng lãng mạn là ý thức bi tráng. Ý thức bi tráng một mặt là sự phản ứng sống động hiện thực của đời người lính Tây Tiến (đầy gieo neo hi vọng, tử vong nhiều trong đấu tranh, nhất là do thiếu thốn cùng cực, bệnh tật…). Mặt khác là sự tiếp nối dòng thơ lãng mạn trước và sau năm 1945 về một chủ nghĩa người hùng bi tráng của thơ Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, Chính Hữu với hình ảnh người chiến sĩ cưỡi ngựa, vung gươm, áo bào đỏ thắm một đi ko trở về….

3. Phân tích bài thơ:

* Ở đoạn 1, núi rừng Tây Bắc hiện lên thật hùng vĩ, hiểm trở và dữ dội trên đường hành quân của người lính Tây Tiến, cảm hứng lãng mạn liền bắt lấy những hình ảnh khác thường gây xúc cảm mãnh liệt:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Hẻo lánh cồn mây, súng ngửi trời

Nghìn thước lên cao, nghìn thước xuống

Nhà người nào Pha Luông mưa xa khơi

        Đoạn thơ nhiều từ ngữ tạo hình gân guốc, bạo khỏe. Trong tưởng tượng của người đọc, hình ảnh đoàn quân như đang trèo trên những cồn mây, mũi súng chạm tới đỉnh trời. Chữ “ngửi” vừa bạo, vừa có chất tinh nghịch “lính tráng”, sức diễn tả mạnh mẽ, lạ mắt.

Nghìn thước lên cao, nghìn thước xuống

Câu thơ như bẻ đôi, tạo cảm giác gấp khúc của hai sườn núi vút lên đổ xuống gần như thẳng đứng. Tiếp đó là một câu toàn vần bằng, gợi tưỏng tượng người lính nghỉ chân ngang dốc núi, phóng tầm mắt ngang ra xa để thấy nhà người nào đó nhấp nhoáng ẩn hiện qua một ko gian mịt mùng sương rừng mưa núi. Một kết cấu âm thanh đầy thông minh, gợi nhớ hai câu thơ tuyệt tác của Tản Đà (Thăm mả cũ bên đường):

Tài cao phân thấp chí khí uất

Giang hồ mê chơi quên quê hương.

Điều không giống nhau là Tản Đà thì tả tình, còn Quang Dũng thì tả cảnh.

Đoạn thơ được kết thúc bằng hai câu thật êm ái dịu dàng:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Đoàn lính ngừng chân ở một bản làng nằm giữa rừng sâu. Ở đây có đồng bào, có sinh hoạt đông vui của con người, có những cô gái Mường hay Thái xinh đẹp như những bông hoa rừng.

Những kỷ niệm như thế, người lính Tây Tiến ko thể nào quên được. Hai câu thơ này như sẵn sàng đi vào đoạn 2 của bài thơ.

* Đoạn 2: Đoạn thơ mở ra một phương diện khác của núi rừng Tây Bắc – Thượng Lào (địa bàn hoại động của đoàn quân Tây Tiến). Có thể nói đây là phương tiện tài hoa mĩ lệ của núi rừng Tây Bắc. Những từ ngữ mạnh mẽ gân guốc của đoạn trên được thay thế bằng tiếng nói tinh tế, mềm mại, thơ mộng: Một đêm liên hoan của quân và dân. Giữa “hội hoa chúc” rực rỡ người lính như thốt lên ngỡ ngàng và trìu mến:

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Vẻ đẹp có màu sắc xứ lạ phương xa càng khiến những tâm hồn lãng mạn thêm thi vị:

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Bốn câu sau chuyển sang cảnh khác cũng thật đẹp và thơ mộng:

Người đi Châu Mộc chiều sương đó

Có thấy hồn lau nẻo bờ bến

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đu đưa

Bốn câu thơ đầy chất họa (Quang Dũng là một họa sĩ có nhiều bức tranh phong cảnh rất tài hoa), đường nét thanh thoát, màu sắc tươi tỉnh.

Có những chữ thật khó nắm bắt ý nghĩa một cách rõ rệt. Thế nào là “hồn lau” nẻo bờ bến? Những bờ lau hàng vạn bông phơ phất theo gió chiều dường như có vong hồn chăng? “Có nhớ dáng người” gợi rất nhiều về vóc dáng thon thả uyển chuyển và duyên dáng của những cô lái đò Châu Mộc (Nguyễn Tuân thì gọi là vóc dáng rất tạo hình của các cô đò Thái). “Trôi dòng nước lũ hoa đu đưa “. Tả những bông hoa rừng đu đưa nơi mép nước nhưng mà thấy được dòng nước lũ chảy xiết. Cần nhớ “đu đưa” chứ ko phải “đung đưa”. “Đung đưa” tình tứ hơn, có hồn hơn.

* Đoạn 3: Chân dung người lính Tây Tiến thực ra ko phải chỉ hiện lên từ đoạn thơ này. Nhưng ở đây nó là nhân vật chính và được mô tả trực diện trên bức tranh thơ. Vẻn vẹn chỉ có tám câu nhưng mà nói được đủ cả, từ dung mạo tới tâm hồn, khí phách, thái độ trước hết là vẻ hào hoa rất Hà Nội của những người lính Tây Tiến.

Tác giả nhìn thẳng vào sự thực: sự cùng cực, cái chết (“Ko mọc tóc”, “quần xanh màu lá”, “tản mạn biên thuỳ mồ viễn xứ”, “áo bào thay chiếu anh về đất”..v.-v…). Nhưng cảm hứng lãng mạn đã xóa đi những tiều tụy, lam lũ, bi thương, tạo nên ở người lính Tây Tiến vẻ đẹp dữ dội oai hùng, vừa sang trọng hào hoa. Cho nên bi nhưng mà ko lụy, đau buồn có nhưng ko thê thảm. Vấn đề ko phải là che giấu sự thực nhưng mà là cách nhìn sự thực xuất phát từ tình yêu nước và lòng cảm phục đối với những con người sẵn sàng hi sinh tuổi xanh, hi sinh những ước mộng hào hoa, hi sinh cả tính mệnh, sẵn sàng vùi thân nơi biên thuỳ “viễn xứ” hoang vu, hẻo lánh, vì Tổ quốc mình.

Ở đoạn thơ này có những chữ dùng rất “sang” (thường khai thác sắc thái trang trọng, cao quý của từ Hán Việt: dáng Kiều thơm, biên thuỳ, viễn xứ, chiến trường, áo bào, khúc độc hành….) có những chữ dùng rất dữ lại đi đôi với những ngôn từ rất đỗi dịu dàng thi vị “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới…”).

Đoạn thơ kết thúc bằng một âm hưởng đầy bi tráng:

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Đó là khúc nhạc dữ dội của núi rừng để tiễn đưa vong hồn người tử sĩ. Bài thơ là một nỗi nhớ những ngày gieo neo và oanh liệt của đoàn quân Tây Tiến.

Mở đầu là nỗi nhớ cất lên thành tiếng gọi thiết tha: “Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi” . Nỗi nhớ cứ gợi dần những kỷ niệm của đoàn quân. Trên cái bối cảnh hùng vĩ dữ dội nhưng mà cũng rất thơ mộng của núi rừng Tây Bắc, chân dung người lính Tây Tiến hiện lên tiều tụy nhưng mà lẫm liệt, lam lũ nhưng mà hào hoa, dữ dằn nhưng mà đa cảm và đầy thơ mộng.

Đó là những “tráng sĩ một đi ko về” – một quan niệm về người người hùng có màu sắc lãng mạn riêng của một thời.

Bài thơ cũng kết thúc bằng nỗi nhớ. Nỗi nhớ bao trùm một quá khứ tuy đã lùi xa nhưng mà sao vẫn cảm thấy như chỉ mới đây thôi.

Nhưng kỷ niệm thâm thúy và đẹp thế làm sao nhưng mà quên được! cho nên người lính Tây Tiến dù nay ở nơi đâu, hồn vẫn trở về “mùa xuân đó” ở một vùng núi rừng miền Tây Bắc xa xôi của Tổ quốc: “Hồn về Sầm Nưa chẳng về xuôi”.

Bình giảng bài thơ Tây Tiến – Bài mẫu 3

          Quang Dũng thuộc thế hệ các thi sĩ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp như Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông, Trần Hữu Thung, Hồng Nguyên, Trần Mai Ninh, Chính Hữu …Quang Dũng nổi tiếng với hai bài thơ: “Tây Tiến” và “Đôi mắt người Sơn Tây”.

           Bài thơ “Tây Tiến” được sáng tác vào năm 1948 lúc ông rời đơn vị Tây Tiến và nhớ về kỉ niệm gắn bó một thời với Tây Tiến. Đoàn quân Tây Tiến bao gồm hồ hết những thanh niên Hà Nội hoạt động ở một địa bàn rộng lớn ở vùng núi biên giới Việt – Lào. Hào hoa nhưng mà quả cảm. Đoạn đầu của bài thơ hồi ức lại những kỉ niệm của một thời chinh chiến, những cuộc hành quân gieo neo với tự nhiên vừa khắc nghiệt lại vừa hùng vĩ, thơ mộng: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Hẻo lánh cồn mây súng ngửi trời Nghìn thước lên cao, nghìn thước xuống Nhà người nào Pha Luông mưa xa khơi” Quang Dũng chịu tác động sâu đậm nhạc điệu của thơ cổ điển. Có thể nói thi sĩ Quang Dũng, hiện thực là hiện thực kháng chiến (chống Pháp) được phô diễn bằng một tâm hồn lãng mạn và âm điệu cổ điển. Qua hai câu thơ mở đầu của bài “Tây Tiến” ta nắm bắt được hồn thơ Quang Dũng: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi” Âm điệu của câu thơ thất ngôn bát cú như từ thời Lí Bạch.

         Tình cảm thì dào dạt như các thi sĩ lãng mạn thời Thơ mới. Có điều là trong dòng thơ hoài niệm đó đã xuất hiện một cái tên lịch sử. Tây Tiến! Nhưng mà đã nói tới Tây Tiến là phải nói tới sông Mã, con sông hùng vĩ đã chứng kiến những vui buồn của cuộc đời người chiến binh, là phải nói tới rừng núi với những chặng đường hành quân cheo leo bên núi cao, bên vực thẳm, đi trong sương mù, trong hương hoa. Nỗi nhớ dâng trào như nỗi nhớ của các thi sĩ lãng mạn. Đây là câu thơ của Xuân Diệu: “Tương tư nâng lòng lên chơi vơi ” Còn đây là câu thơ của Quang Dũng: “Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi ” Có điều là một đằng thì nhớ người yêu, một đằng thì nhớ những kỉ niệm kháng chiến. Những kỉ niệm về Tây Tiến, về kháng chiến cứ đậm dần lên trong sự hài hoà giữa văn pháp lãng mạn và hiện thực của thơ Quang Dũng. Những địa danh miền sơn cước như Sài Khao, Mường Lát gợi bao xúc cảm mới lạ. Những “sương”, “hoa” từng hiện diện với thi nhân, với tình yêu thì nay hiện diện với đoàn quân, gieo neo mỏi mệt đấy nhưng ko thiếu những phút chốc lãng mạn. Thủ pháp đối lập được Quang Dũng triệt để sử dụng. “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” gieo neo biết bao! “Mường Lát hoa về trong đêm hơi” thi vị biết bao!

          Tưởng hình như tự nhiên ban thưởng cho người lính một tí hương hoa để có sức mạnh nhưng mà vượt qua đèo dốc. “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Hẻo lánh cồn mây súng ngửi trời” Những thanh trắc (dốc, khúc, khuỷu, thẳm ) tức ngược mô tả được thế núi hiểm trở. Và hay nhất là mô tả chiều sâu thăm thẳm để tả chiều cao của “dốc lên khúc khuỷu”. Cao tới nỗi người lính có cảm giác mình ngự trên mây “hẻo lánh cồn mây” và “súng ngửi trời”. Cách nhân hoá thú vị cũng là để nói cách đo chiều cao riêng của những người lính. Ta lại thấy một ông Lí Bạch trong thơ Quang Dũng. Cảm hứng lãng mạn tô đậm cái phi thường. Câu thơ “Nghìn thước lên cao, nghìn thước xuống” có khác gì câu thơ của Lí Bạch “Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước” trong bài thơ “Xa ngắm thác núi Lư”. Ta cũng lại nghe âm điệu của Tản Đà trong nhạc điệu buông thả mê li của Quang Dũng: “Nhà người nào Pha Luông mưa xa khơi” với “Giang hồ mê chơi trên quê hương” của Tản Đà Mộng mơ đó nhưng mà gieo neo cũng đó.

         Qua những chặng đường hành quân, vượt qua đèo cao lũng sâu, người lính sao tránh khỏi những phút chốc mỏi mệt. Quang Dũng ko tránh né thực tiễn khắc nghiệt của người lính trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp: “Anh bạn dãi dầu ko bước nữa Gục lên súng mũ quên mất đời! Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”. Thật là bi tráng! Hình ảnh người lính “Gục lên súng mũ quên mất đời” cho ta thấm thía thêm những nỗi gian lao, vất vả, hi sinh của người lính Tây Tiến.

         Hình ảnh núi rừng hoang vu, kì bí tăng thêm chất bi tráng. Tự nhiên thay đổi theo sắc màu của thời kì. Những nét lạ, những cụ thể rùng rợn càng tăng sức quyến rũ của văn pháp lãng mạn. Âm thanh dữ dội của tiếng thác buổi chiều hoà điệu với âm thanh rùng rợn của tiếng “cọp trêu người ” đêm đêm thành một bản hợp tấu vang động cả núi rừng. Rồi tất cả lại trở về dịu êm với những kỉ niệm của con người và bản làng thân yêu: “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” Sợi khói ấm áp giữa núi rừng hoang vu, đó là chất thơ của đời sống chiến sĩ làm sao nhưng mà ko nhớ? Kỉ niệm cứ như trôi trong mộng: “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.

        Chữ của thơ thật lạ, có những chữ đã cũ mèm nhưng mà được đặt vào đúng văn cảnh thì lại dậy lên ý lạ. Chữ “em” thì có gì là mới, vậy nhưng mà thay vào đó bất kỳ chữ nào khác thì câu thơ cũng mất hết vong hồn. Nói kiểu Pautôpxki là Quang Dũng đã trả lại cho chữ “em” cái trinh trắng lúc đầu. Hương nếp hay là hương em đã làm bâng khuâng cả núi rừng, bâng khuâng cả lòng người? Thi sĩ nhớ lại một đêm liên hoan lạ lùng giữa rừng biên thuỳ: “Doanh trại bừng lên hội hoa chúc Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ ” Văn pháp lãng mạn của Quang Dũng lại được dịp mô tả những nét lạ: y phục lạ (xiêm áo), nhạc cụ lạ (khèn), âm điệu lạ (man điệu), dáng vẻ lạ ( nàng e ấp).

         Tình quân dân nơi rừng núi xa xôi càng thêm sức mạnh cho người lính Tây Tiến. Cùng với dòng hồi ức đó, tác giả nhớ lại hình ảnh người lính Tây Tiến, những hình ảnh lạ mắt ko thể nào phai nhoà: “Tây Tiến đoàn binh ko mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” “Đoàn binh ko mọc tóc” quả là kì lạ! Thời đó, đoàn quân Tây Tiến hoạt động trong rừng núi phía Tây, bệnh sốt rét hoành hành. Tóc rụng tới nỗi ko mọc lên được. Da xanh bủng như màu lá rừng. Tác giả mô tả bằng cách đối lập giữa cái bên ngoài và cái bên trong. Bên ngoài người lính thì da xanh bủng ốm yếu, nhưng ý thức thì vững vàng. Khí phách của người lính Tây Tiến không những lấn lướt cả bệnh tật ốm yếu nhưng mà còn “dữ oai hùm” làm sợ hãi quân thù.

        Ý thức của người lính Tây Tiến thật là mãnh liệt. Mãnh liệt cả trong ” mộng “, mãnh liệt cả trong “mơ”. “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” Hình ảnh “mắt trừng” trình bày ý chí quyết tâm của người lính Tây Tiến trong nhiệm vụ bảo vệ biên thuỳ, nghĩa vụ quốc tế của mình. Trên kia ta đã từng gặp hình ảnh “mộng” đó: “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”. Nhưng tình cảm, tâm tưởng người lính lại hướng về Hà Nội, quê hương thân yêu của hồ hết binh đoàn Tây Tiến: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” Hà Nội đẹp nhất là Hồ Tây và thiếu nữ. Những chàng trai Hà Nội chưa trắng nợ người hùng ra đi chinh chiến làm sao ko mang theo trong hành trang của mình hình bóng của một “dáng kiều thơm” nào đó, hoặc hình bóng của người thân yêu? Một tí lãng mạn tương tự đủ nuôi dưỡng ý thức của người lính Tây Tiến trong hoàn cảnh đấu tranh gieo neo, hi sinh. Tứ thơ mộng mơ này cũng nằm trong cấu trúc chung của bài thơ “Tây Tiến” là ngược – xuôi: con người, ý chí, hành động thì ngược về hướng tây, nhưng tình cảm thì lưu luyến xuôi về với quê hương thân yêu: “Người đi Châu Mộc chiều sương đó Có thấy hồn lau nẻo bờ bến Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đu đưa”

        Liền với tứ thơ mộng mơ đó là hình ảnh hi sinh cao quý của những người lính Tây Tiến. Từ ý thức lãng mạn chuyển sang ko khí bi tráng: “Tản mạn biên thuỳ mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành” Lần nữa ta lại thấy Quang Dũng ko tránh né những chết chóc bi thương. Người lính Tây Tiến đấu tranh ở một miền núi rừng biên thuỳ chống quân thù xâm lược làm sao tránh khỏi sự tổn thất về sinh mạng: “Tản mạn biên thuỳ mồ viễn xứ ” Câu thơ chỉ có từ “tản mạn” là thuần Việt, còn lại là từ Hán Việt cổ xưa, gợi ko khí thiêng liêng, đượm chút ngậm ngùi. Tới câu thơ tiếp theo, tác giả hoá giải được tình cảm ngậm ngùi đó: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. “Đời xanh”đẹp biết bao! Còn gì quý bằng tuổi xanh, vậy nhưng mà người lính Tây Tiến “chẳng tiếc”, cho nên họ chấp nhận tất cả. Tự vệ thành Hà Nội đã nêu cao lời thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh “trong trận chiến đấu bảo vệ Thủ đô.

        Những người con của Thủ đô ở biên thuỳ cũng có ý thức “hiệp sĩ” đó. Có nhẽ gọi những chàng trai “chẳng tiếc đời xanh” này là “hiệp sĩ” cách mệnh, như những người lính trong “Đồng chí” của Chính Hữu, trong “Nhớ” của Hồng Nguyên. Sự hi sinh của họ thật là cảm động: “Áo bào thay chiếu anh về đất” Người lính Tây Tiến thời đó hết sức thiếu thốn. Theo Trần Lê Văn thì đồng bào thấy các chiến sĩ Tây Tiến rét đã cho chiếc áo khoác thay cho “áo bào”. Lúc chết, đồng chí dùng chiếu bó lại để chôn vì ko có quan tài. Câu thơ đó có một từ rất xứng với sự hi sinh của người lính là từ “đất”. “Anh về đất “là về với non sông quốc gia, về với sự trường tồn, vĩnh hằng. Âm nhạc của tự nhiên, non sông tấu lên đưa anh về nơi an nghỉ cuối cùng: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành” Cái chết của những người lính Tây Tiến nơi biên thuỳ không những làm xúc động sâu xa những chiến sĩ đồng chí nhưng mà còn động cả lòng trời đất. ” Sông Mã gầm lên” đớn đau, tiếc thương.

         Khúc nhạc bi tráng hợp với sự hi sinh cao quý của những “hiệp sĩ” Tây Tiến. Quang Dũng đi kháng chiến, tới đoàn quân Tây Tiến với tư cách là một trí thức có tâm hồn nghệ sĩ. Lúc đặt bút làm thơ thì đã có ông Lí ông Đỗ ngự trong lòng. Âm nhạc đầy cám dỗ của thi sĩ Việt Nam hiện đâi như Tản Đà (thi sĩ cùng quê hương với ông), Thế Lữ, Xuân Diệu cũng đã dội vang trong lòng ông. Các thi sĩ cổ kim đã bồi đắp trong hồn thơ kháng chiến mới mẻ của ông. Bằng nghệ thuật điêu luyện, Quang Dũng đã khắc hoạ chân dung người lính Tây Tiến, hình hài thì kì lạ, lạ mắt, chân dung ý thức thì cao quý. Xúc cảm của thi sĩ được nuôi dưỡng bằng âm nhạc vừa cổ xưa vừa hiện đại.

…/…

Trên đây là các bài văn mẫu Bình giảng bài thơ Tây Tiến do Trường Trung Cấp Nghề Thương Mại Du Lịch Thanh Hoá sưu tầm và tổng hợp, mong rằng với nội dung tham khảo này thì các em sẽ có thể hoàn thiện bài văn của mình tốt nhất!

Đăng bởi: Trường Trung Cấp Nghề Thương Mại Du Lịch Thanh Hoá

#Bình #giảng #bài #thơ #Tây #Tiến #hay #nhất

Lương Sinh

Lương Sinh là một tác giả đầy nhiệt huyết trong lĩnh vực giáo dục, ngoại ngữ và kiến thức. Với hơn 10 năm kinh nghiệm làm việc trong ngành, cô đã tích lũy được rất nhiều kiến thức và kỹ năng quan trọng. Với tình yêu với ngôn ngữ và mong muốn chia sẻ kiến thức, Lương Sinh đã quyết định sáng lập blog tmdl.edu.vn. Trang web này không chỉ là nơi chia sẻ những kinh nghiệm và kiến thức cá nhân của cô, mà còn là một nguồn thông tin hữu ích cho những người quan tâm đến giáo dục, kiến thức và ngoại ngữ. Đặc biệt là tiếng Anh và tiếng Trung Quốc.
Back to top button