Giáo dục

Cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ

cam nhan ve nhan vat ba cu tu

Tổng hợp dàn ý, văn mẫu cảm nhận về về nhân vật bà cụ Tứ hay, chọn lọc

Bạn đang xem bài: Cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ

I. Dàn ý cảm nhận về về nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ nhặt

1. Mở bài:

– Sơ lược về tác giả, tác phẩm.
– Giới thiệu nhân vật cụ Tứ.

2. Thân bài:

a. Hoàn cảnh nhân vật:
– Xuất hiện với những nét vẽ rất đơn giản “húng hắng ho, một bà lão lọng khọng từ rặng tre đi vào. Vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”
– Xuất thân trong một gia đình nông dân, sống cuộc đời nghèo khó, một tay bà tần tảo làm lụng vất vả nuôi lớn con trai, là dân ngụ cư.
– Sống dựa vào người con trai duy nhất là Tràng trong căn nhà tồi tàn, rách nát, cuộc sống bấp bênh bữa đói bữa no.
– Mang trong mình mặc cảm nghèo khó, không cưới nổi cho con một cô vợ.

b. Vẻ đẹp của nhân vật cụ Tứ:

* Vẻ đẹp của tình mẫu tử:
– Nghe tin con trai có vợ, thay vì vui mừng, trong lòng bà lại dấy lên biết bao nhiêu tâm sự “Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi”.
– Thấu hiểu cho quyết định của con trai nhưng nhìn lại phận mình, phận con trai bà, lòng bà cụ lại tràn đầy những chua xót không tên. Bà tủi phận vì nghèo khó mà không lo cho con nổi một đám cưới.
– Thấy “ai oán xót thương cho số kiếp con trai mình”, cái sự xúc động, tủi thân ấy khiến “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai hàng nước mắt”.
– Lo lắng “biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không”. Bà không trách móc con trai tự làm chủ chuyện hôn nhân đại sự, chỉ trăn trở một nỗi lo lắng cho cuộc đời của người con trai duy nhất.
– Nhanh chóng thông suốt, thấu hiểu, tự vực dậy tinh thần của mình “Người ta có gặp …Chẳng may ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?”.
=> Chấp nhận chuyện của Tràng và thị đồng thời mở lời động viên các con, săn sóc đến người phụ nữ vừa bước vào nhà làm dâu, vun vén cho vợ chồng Tràng bằng những lời của tổ tiên “Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?”.
=> Kín đáo giấu đi những trăn trở lo toan vào lòng, gieo vào lòng các con một hy vọng tốt đẹp vào tương lai.

* Tấm lòng bao dung, cảm thông sâu sắc với số phận con người:
– Không vì sự đường đột xuất hiện của thị mà cụ Tứ tỏ ý xa cách, trái lại bà rất thấu hiểu, bà thương cho thị gặp phải bước khó khăn mới chịu lấy đến con trai bà, cho con trai bà một người vợ.
– Bà chủ động mở lời đồng ý chuyện hôn nhân “ừ, thôi các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng”.
– Thấy bộ dạng xấu hổ, tả tơi của thị “lòng đầy thương xót” vội giục “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống cho đỡ mỏi chân”
– Bà nghĩ đến sự thiệt thòi của một người phụ nữ không có cỗ cưới trong ngày trọng đại nhất cuộc đời mà thầm thương xót thị “Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá”.

* Niềm tin vào cuộc sống, vào tương lai ngay giữa những năm tháng tối tăm nhất:
– Tin tưởng sẽ có một ngày nạn đói đi qua, cuộc sống sẽ khấm khá hơn, bà cũng gieo niềm tin đó vào tâm trí con trai, con dâu của mình.
– Hăm hở cùng con dâu dọn dẹp nhà cửa, cái mặt bủng beo của bà tươi tắn rạng rỡ hẳn lên.
– Vừa ăn vừa hăng say kể chuyện làm ăn, vẽ ra một tương tươi sáng trước mắt vợ chồng Tràng, lên kế hoạch nuôi gà đẻ trứng,…
– Hình ảnh nồi cháo cám thể hiện tấm lòng của người mẹ, cũng là lời nhắc nhở sâu kín của bà với vợ chồng Tràng rằng, cuộc sống mới chỉ bắt đầu, những khó khăn, vất vả về sau sẽ còn nhiều hơn.

3. Kết bài:

– Nêu cảm nhận chung về tác phẩm, về nhân vật cụ Tứ.

II. Bài văn mẫu Cảm nhận về về nhân vật bà cụ Tứ trong truyện Vợ nhặt

Kim Lân là một trong số những tác giả nổi bật nhất của nền văn học hiện thực Việt Nam trong cả hai giai đoạn trước và sau cách mạng tháng Tám, mặc dù số lượng tác phẩm để lại không nhiều, nhưng tác phẩm nào của ông cũng hay và ấn tượng. Sở dĩ những sáng tác của ông để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc là bởi Kim Lân vốn là một người con của làng quê, ông sống trong cái nghèo đói và mang trong mình những tình cảm nồng hậu chất phác của một người thôn quê chính hiệu. Cuộc sống của người nông dân được tái hiện trong các tác phẩm của ông rất gần gũi, chân thực, trong đó ẩn chứa tất cả những sự cảm thông, thấu hiểu, bộc lộ được nhiều khía cạnh mà có lẽ các nhà văn khác không thể chạm tới. Một trong số các tác phẩm nổi tiếng nhất của Kim Lân phải kể đến Vợ nhặt, truyện tái hiện lại cuộc sống khắc nghiệt của người nông dân trong nạn đói năm 1945. Trong đầy rẫy những tuyệt vọng, đau thương, người ta vẫn thấy được ánh sáng của niềm hy vọng sống, niềm tin vào một tương lai tốt đẹp hơn, đặc biệt là vẻ đẹp tâm hồn, lòng yêu thương con người cũng được thể hiện rõ nét trong các nhân vật, tiêu biểu là nhân vật bà cụ Tứ – mẹ Tràng.

Cụ Tứ là nhân vật có ít “đất diễn” trong tác phẩm Vợ nhặt, thế nhưng bà lại là điểm sáng của cả tác phẩm, ở nhân vật này ta thấy được nhiều vẻ đẹp tổng hòa, bao gồm vẻ đẹp của tình mẫu tử thiêng liêng sâu sắc, vẻ đẹp của tấm lòng lương thiện, biết cảm thông chia sẻ, và niềm tin mãnh liệt vào một cuộc sống tốt đẹp.

Có thể nói rằng cụ Tứ là nhân vật tiêu biểu, đại diện cho một thế hệ các bà các mẹ trong giai đoạn đất nước nhiều đau thương. Hình ảnh cụ Tứ trong truyện cũng xuất hiện với những nét vẽ rất đơn giản “húng hắng ho, một bà lão lọng khọng từ rặng tre đi vào. Vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”, nhưng cũng đủ tái hiện hình ảnh của một người đàn bà trải qua biết bao thăng trầm của cuộc đời. Bà xuất thân trong một gia đình nông dân, sống cuộc đời nghèo khó, lấy chồng sinh con, chồng mất sớm, một tay bà tần tảo làm lụng vất vả nuôi con, sau lại gặp nạn đói hoành hành. Bà cụ Tứ sống dựa vào người con trai duy nhất là Tràng trong căn nhà tồi tàn, rách nát, cuộc sống bấp bênh bữa đói bữa no. Không chỉ thế trong lòng bà cụ còn luôn mang trong mình mặc cảm không cưới nổi cho con một cô vợ, chỉ vì bà nghèo quá, cả cuộc đời vẫn trắng tay, điều đó làm bà càng thêm yêu thương và tội nghiệp đứa con trai duy nhất của mình.

Đi sâu vào nội tâm nhân vật bà cụ Tứ, ta dần thấy những vẻ đẹp tâm hồn đáng quý hiện ra, trước hết là vẻ đẹp của tình mẫu tử thiêng liêng. Khi nghe anh Tràng thông báo chuyện cưới vợ, bà lão vẫn chưa hiểu ra cớ sự, phần vì bất ngờ, phần vì không thể tin được lại có một người đàn bà chịu về làm vợ con trai mình, chịu sống trong căn nhà tồi tàn, rách nát của bà. Nhưng sau năm lần bảy lượt anh Tràng giải thích và khẳng định, bà cụ cuối cùng cũng tin đó là sự thật, tuy nhiên thay vì vui mừng, trong lòng bà lại dấy lên biết bao nhiêu tâm sự, một nỗi buồn bắt đầu len lỏi trong tâm hồn già nua của người đàn bà khắc khổ “Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi”. Đời bà đã trải qua biết bao nhiêu những đắng cay, tủi hờn, bà cũng hiểu rõ con người đến tuổi dựng vợ gả chồng, ai cũng mong muốn được một hạnh phúc nho nhỏ, dẫu là giàu sang hay nghèo khó. Thế nhưng nhìn lại phận mình, phận con trai bà, lòng bà cụ lại tràn đầy những chua xót không tên. Bà tủi phận vì nghèo khó mà không lo cho con nổi một đám cưới, để nó phải tự lấy về một người vợ, một người đàn bà chắc cũng đến bước đường cùng mới phải về đây. Càng nghĩ bà lại càng thấy “ai oán xót thương cho số kiếp con trai mình”, cái sự xúc động, tủi thân ấy khiến “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai hàng nước mắt”. Tấm lòng thương con của bà còn thể hiện trong nỗi lo lắng “biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không”. Bà không trách móc con trai tự làm chủ chuyện hôn nhân đại sự, mà lòng người mẹ nhân từ chỉ xuyên suốt một nỗi lo đau đáu rằng biết rồi mai đây vợ chồng chúng có vượt qua cơn đói khát này để sống đời với nhau được hay không, hay lại làm khổ nhau. Cụ Tứ thương con, lòng bồi hồi vì có dâu mới, cũng lại trăn trở một nỗi lo lắng cho cuộc đời của người con trai duy nhất. Thế nhưng cụ không suy nghĩ, buồn rầu quá lâu, người ta nhanh chóng nhìn thấy ở cụ sự thông suốt, thấu hiểu, tự vực dậy tinh thần của mình “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mấy lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được. Thôi bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con…Chẳng may ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?”. Cụ đã chấp nhận cái đám cưới chớp nhoáng giữa nạn đói kinh hoàng, đồng thời mở lời động viên các con, săn sóc đến người phụ nữ vừa bước vào nhà làm dâu, vun vén cho vợ chồng Tràng bằng những lời của tổ tiên “Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?”. Bà kín đáo giấu đi những trăn trở lo toan vào lòng, mở ra cho các con của mình một hy vọng tốt đẹp vào tương lai.

Cụ Tứ có tấm lòng bao dung, cảm thông sâu sắc với số phận con người, điều đó bộc lộ rõ nét nhất thông qua cái cách mà bà đối xử với thị – vợ Tràng. Hai người đàn bà một già một trẻ gặp mặt nhau trong một tình huống kỳ lạ – một đám cưới chớp nhoáng, họ đã trở thành mẹ chồng – nàng dâu ngay từ lần đầu tương ngộ. Thế nhưng không vì sự đường đột xuất hiện của thị mà cụ Tứ tỏ ý xa cách, trái lại bà rất thấu hiểu, bà thương cho thị gặp phải bước khó khăn mới chịu lấy đến con trai bà, cho con trai bà một gia đình. Để cho thị đỡ lúng túng, xấu hổ bà mở lời đồng ý chuyện hôn nhân “ừ, thôi các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng”. Rồi khi thấy bộ dạng xấu hổ, tả tơi của thị “lòng đầy thương xót” vội giục “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống cho đỡ mỏi chân”, bà đã dang rộng vòng tay thương cảm cho thị một con đường, xóa đi cái sự xa lạ trong lòng thị, để thị được vững tin vào cái đám cưới kỳ lạ này, đồng thời xem thị chính thức là dâu con trong nhà mà đối xử. Bà nghĩ đến sự thiệt thòi của một người phụ nữ không có cỗ cưới trong ngày trọng đại nhất cuộc đời mà thầm thương xót thị, chính lẽ ấy nên bà đã thân mật với cô con dâu mới những lời từ đáy lòng “cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u vui lắm rồi. Năm nay đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá”, nói đoạn không kìm nổi nỗi xúc động, xót xa bà lão “nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt chảy xuống ròng ròng”. Lòng thương con của người mẹ, sự xót xa cho cuộc đời mình, cùng tấm lòng đồng cảm với thị đã khiến cụ Tứ không nén nổi nước mắt, cuộc đời này bà có lẽ đã khóc nhiều, nhưng khóc lần này chắc là mang nhiều xúc cảm hỗn độn nhất.

Ngoài tình mẫu tử cao đẹp, tấm lòng bao dung nhân hậu, Kim Lân còn khắc họa ở cụ Tứ một vẻ đẹp đáng quý khác, ấy chính là niềm tin vào cuộc sống, vào tương lai ngay giữa những năm tháng tối tăm nhất. Dù đã già cả, không còn được bao nhiêu năm tháng nhưng cụ Tứ vẫn tin tưởng sẽ có một ngày nạn đói đi qua, cuộc sống sẽ khấm khá hơn, bà cũng gieo niềm tin đó vào tâm trí con trai, con dâu của mình. Bà hăm hở cùng con dâu dọn dẹp nhà cửa, cái mặt bủng beo của bà tươi tắn rạng rỡ hẳn lên. Đối diện với một bữa ăn sáng đạm bạc, khắc khổ “giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, một dĩa muối ăn với cháo” nhưng cả nhà ăn rất ngon lành, bà cụ vừa ăn vừa hăng say kể chuyện làm ăn, vẽ ra một tương tươi sáng trước mắt vợ chồng Tràng, lên kế hoạch nuôi gà đẻ trứng,… Hình ảnh nồi cháo cám đắng nghét mà cụ Tứ dùng để chiêu đãi các con mừng tân hôn, không chỉ thể hiện tấm lòng của người mẹ, vì không có tiền mà chỉ tìm được ít cám nấu cho con một bữa ăn. Mà nó còn là lời nhắc nhở sâu kín của bà với vợ chồng Tràng rằng, cuộc sống mới chỉ bắt đầu, những khó khăn, vất vả về sau sẽ còn nhiều hơn, vợ chồng phải cố gắng cùng nhau vượt qua những khổ ải, đắng cay như nồi cháo cám nay thì mới mong vào một tương lai hạnh phúc ấm êm được. Có thể nói rằng, tuy là người già cả nhất, thế nhưng bà cụ lại người có sức sống mạnh mẽ với niềm hy vọng vào tương lai mãnh liệt nhất, chính bà là người mở ra trước mắt con trai con dâu những niềm tin vào tương lai, vào cuộc sống, biết bản thân không thể làm gì hơn, nên cách duy nhất bà có thể giúp họ ấy chính là ra sức động viên các con. Cuối cùng tổng kết lại tất cả những vẻ đẹp của cụ Tứ đều bắt nguồn từ tình mẫu tử thiêng liêng sâu sắc.

Có thể nói rằng mỗi nhân vật trong tác phẩm Vợ nhặt đều là một điển hình cho những người nông dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945, ở họ hiện lên những vẻ đẹp phẩm giá, nhân cách, nghị lực, niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống, mà ở cụ Tứ là tình mẫu tử thiêng liêng, tấm lòng bao dung, cùng với hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn. Điều đó thể hiện tấm lòng nhân đạo của Kim Lân trong sáng tác của mình, giữa đói khổ, chết chóc tăm tối, thế nhưng nhà văn không hướng người đọc đến sự bi quan tiêu cực, thay vào đó lại thắp sáng đêm đen bằng những vẻ đẹp tiềm ẩn trong từng số phận nghèo khổ.

—————HẾT—————

Vợ nhặt là một tác phẩm hay, lồng ghép đan xen giữa hai nội dung chính là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo tái hiện lại thực cảnh đất nước và con người những năm tháng trước cách mạng, đồng thời cũng mở ra một hướng đi mới, một con đường mới cho những người nông dân thời bấy giờ ấy là làm cách mạng. Để tìm hiểu thêm về tác phẩm mời các em tìm đọc các bài viết Phân tích tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong truyện Vợ nhặt, Phân tích nhân vật vợ Tràng trong truyện Vợ nhặt, Phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt, Phân tích vẻ đẹp tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống ở các nhân vật trong truyện ngắn Vợ nhặt.

Bản quyền bài viết thuộc Trường Trung Cấp Nghề Thương Mại Du Lịch Thanh Hoá. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: https://tmdl.edu.vn/cam-nhan-ve-nhan-vat-ba-cu-tu/

Trang chủ: tmdl.edu.vn
Danh mục bài: Giáo dục

Lương Sinh

Lương Sinh là một tác giả đầy nhiệt huyết trong lĩnh vực giáo dục, ngoại ngữ và kiến thức. Với hơn 10 năm kinh nghiệm làm việc trong ngành, cô đã tích lũy được rất nhiều kiến thức và kỹ năng quan trọng. Với tình yêu với ngôn ngữ và mong muốn chia sẻ kiến thức, Lương Sinh đã quyết định sáng lập blog tmdl.edu.vn. Trang web này không chỉ là nơi chia sẻ những kinh nghiệm và kiến thức cá nhân của cô, mà còn là một nguồn thông tin hữu ích cho những người quan tâm đến giáo dục, kiến thức và ngoại ngữ. Đặc biệt là tiếng Anh và tiếng Trung Quốc.
Back to top button