Cảm nhận về nhân vật Từ Hải trong Chí khí anh hùng để làm sáng tỏ hình ảnh Từ Hải với tính cách anh hùng, chí khí phi thường cùng khát vọng tự do mãnh liệt.
Hướng dẫn làm bài cảm nhận nhân vật Từ Hải trong Chí khí anh hùng
1. Phân tích đề
– Yêu cầu của đề bài: nêu cảm nhận về nhân vật Từ Hải.
Bạn đang xem bài: Cảm nhận về nhân vật Từ Hải trong Chí khí anh hùng
– Phạm vi tư liệu, dẫn chứng : những từ ngữ, chi tiết, hình ảnh tiêu biểu trong đoạn trích Chí khí anh hùng trích Truyện Kiều của Nguyễn Du, đặc biệt những đoạn có nhân vật Từ Hải.
– Phương pháp lập luận chính : phân tích, cảm nhận.
2. Hệ thống luận điểm
– Luận điểm 1: Từ Hải – người anh hùng có chí khí phi thường
– Luận điểm 2: Từ Hải với lí tưởng cao đẹp – khao khát về một sự nghiệp lớn
– Luận điểm 3: Từ Hải ý thức rõ ràng về tài năng, nghĩa vụ, lí tưởng của mình và quyết tâm thực hiện lí tưởng đó.
3. Sơ đồ tư duy
Sơ đồ tư duy cảm nhận nhân vật Từ Hải trong Chí khí anh hùng
4. Lập dàn ý chi tiết
a) Mở bài
– Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm, đoạn trích
+ Nguyễn Du – đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới.
+ Truyện Kiều là đỉnh cao thơ văn Nguyễn Du, là kiệt tác của nền văn học Việt Nam, bộc lộ cái nhìn sâu sắc về thân phận con người, nhất là người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
+ Đoạn trích “Chí khí anh hùng” cho ta thấy rõ tính cách nhân vật Từ Hải, lí tưởng, khát vọng của Nguyễn Du về một xã hội công bằng.
– Khái quát về nhân vật: Từ Hải là một anh hùng cái thế, đầu đội trời chân đạp đất, có chí lớn và có nghị lực để đạt được mục đích cao đẹp của bản thân.
b) Thân bài: Cảm nhận về nhân vật Từ Hải
* Luận điểm 1: Từ Hải – người anh hùng có chí khí phi thường
– Tầm vóc vĩ đại cũng như khát vọng, chí khí lớn lao: “động lòng bốn phương”, “trời bể mênh mang”, “bốn bể”…
+ “Trượng phu”: chỉ người đàn ông có chí khí, bậc anh hùng -> Cách nói thể hiện thái độ trân trọng với các vị anh hùng của Nguyễn Du, dựng lên dáng vẻ bệ vệ, oai nghiêm, đĩnh đạc của một tướng võ.
+ “Thoắt”: tính từ chỉ sự dứt khoát, mau lẹ, kiên quyết, nhanh chóng trong khoảnh khắc bất ngờ -> Cách xử sự dứt khoát, khác thường của Từ Hải.
+ “Động lòng bốn phương” : chỉ chí khí anh hùng tung hoành thiên hạ, lí tưởng anh hùng thời đại, không bị ràng buộc bởi vợ con, gia đình mà ở bốn phương trời, ở không gian rộng lớn, quyết mưu cầu sự nghiệp phi thường.
– Khát vọng lên đường, tư thế ung dung, tự tin, đĩnh đạc của người anh hùng:
+ Tư thế:
- “Thanh gươm yên ngựa” : một mình, một gươm, một ngựa.
- “Thẳng rong”: đi liền một mạch.
-> Tư thế oai phong, hào hùng sánh ngang với trời đất.
- “Trời bể mênh mang”: không gian vũ trụ rộng lớn.
-> Cảm hứng vũ trụ, con người vũ trụ với kích thước phi thường, không gian bát ngát, nâng cao tầm vóc người anh hùng.
=> Nguyễn Du đặt nhân vật sánh ngang với không gian trời bể mênh mang thể hiện một tư thế đẹp, sự kiên quyết, dứt khoát, ra đi hiên ngang, độc lập, không vướng bận của Từ Hải.
+ Hình ảnh so sánh “gió mây bằng đã đến kì dặm khơi” càng tô đậm sức mạnh và bản lĩnh phi thường của Từ Hải.
=> Từ Hải không phải là một con người của những đam mê thông thường, mà là con người của khát vọng, công danh.
* Luận điểm 2: Từ Hải với lí tưởng cao đẹp – khao khát về một sự nghiệp lớn
– Người anh hùng nêu lên lí tưởng của mình:
+ “Mười vạn tinh binh”
+ “Tiếng chiêng dậy đất”
+ “Bóng tinh rợp đường”
=> Hình ảnh hào hùng có cả âm thanh, màu sắc thể hiện niềm tin sắt đá, sự quyết tâm, khát vọng lớn lao, cao cả về một sự nghiệp lẫy lừng của Từ Hải.
– Mục đích ra đi: làm cho rõ mặt phi thường -> chứng tỏ khả năng hơn người, bản lĩnh, ý chí phi phàm.
=> Từ Hải là một trang nam nhi tràn đầy tự tin: tin vào tài năng, sức mạnh của bản thân, tin vào tương lai, oai phong bản lĩnh với lí tưởng cao cả, ý chí, hoài bão lớn lao.
* Luận điểm 3: Từ Hải ý thức rõ ràng về tài năng, nghĩa vụ, lí tưởng của mình và quyết tâm thực hiện lí tưởng đó
– Từ đã biết vượt qua những níu kéo của tình cảm cá nhân riêng tư.
+ Hành động: “Quyết lời”, “Dứt áo ra đi” -> thái độ, cử chỉ, hành động dứt khoát, không hề do dự, không để tình cảm bịn rịn làm lung lạc và cản bước ý chí của người anh hùng.
+ “Gió mây bằng đã… đến kì dặm khơi”: Bút pháp lí tưởng hóa đã cực tả dáng vẻ tựa như cánh chim bằng cất mình bay thẳng vào muôn trùng dặm khơi của người anh hùng.
– Cuộc chia tay Từ Hải – Thúy Kiều khác hẳn với cuộc chia tay khác:
+ Thời điểm Từ Hải ra đi lập nên sự nghiệp lớn cũng chính là lúc cuộc sống lứa đôi với Thúy Kiều mới đang bắt đầu và vô cùng mặn nồng hạnh phúc
+ Lí do ra đi: “Động lòng bốn phương”, khát khao tung hoành
+ Tư thế ra đi hiên ngang, dũng mãnh, phóng khoáng, đi liền một mạch, không lưu luyến, bịn rịn.
-> Từ Hải ra đi không chỉ hướng đến sự nghiệp của một bậc anh hùng mà còn hướng đến khát vọng hạnh phúc phi thường của “trai anh hùng với gái thuyền quyên”.
* Đặc sắc nghệ thuật miêu tả, khắc họa nhân vật
– Bút pháp lí tưởng hóa
– Bút pháp miêu tả, khắc họa nhân vật qua dáng vẻ, hành động, lời nói
– Bút pháp ước lệ tượng trưng với các danh từ, động từ, tính từ giàu giá trị biểu đạt.
– Ngôn ngữ đối thoại trực tiếp.
c) Kết bài: Nêu cảm nhận về nhân vật
– Từ Hải là một vị anh hùng đầy tự tin, bản lĩnh, có chí khí phi thường, có lí tưởng công danh lớn, rạch ròi giữa sự nghiệp và tình cảm.
– Từ Hải là hiện thân cho giấc mơ tự do, công lí của Nguyễn Du.
Trên đây là chi tiết mẫu dàn ý cảm nhận về nhân vật Từ Hải trong Chí khí anh hùng do Trường Trung Cấp Nghề Thương Mại Du Lịch Thanh Hoá tổng hợp và biên soạn giúp em hệ thống lại những ý chính cần triển khai cho bài văn của mình. Ngoài ra, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây để mở rộng vốn từ cũng như cách trình bày cho bài văn mình sắp viết.
Hai bài văn đạt điểm cao cảm nhận về nhân vật Từ Hải trong Chí khí anh hùng
Cảm nhận về Từ Hải mẫu số 1:
Qua ngòi bút của Nguyễn Du, Từ Hải xuất hiện trong tác phẩm, trước hết là một anh hùng cái thế, đầu đội trời chân đạp đất. Khi cứu Kiều ra khỏi lầu xanh, là vì việc nghĩa, là vì trọng Kiều như một tri kỉ. Nhưng khi kết duyên cùng Kiều, Từ thực sự là một người đa tình. Song dẫu đa tình, Từ không quên mình là một tráng sĩ. Trong xã hội phong kiến, đã làm thân nam nhi phải có chí vẫy vùng giữa đất trời cao rộng. Từ Hải là một bậc anh hùng có chí lớn và có nghị lực để đạt được mục đích cao đẹp của bản thân. Chính vì thế, tuy khi đang sống với Kiều những ngày tháng thực sự êm đềm, hạnh phúc nhưng Từ không quên chí hướng của bản thân. Đương nồng nàn hạnh phúc, chợt “động lòng bốn phương”, thế là toàn bộ tâm trí hướng về “trời bể mênh mang”, với “thanh gươm yên ngựa” lên đường đi thẳng.
Không gian trong hai câu thứ ba và thứ tư (trời bể mênh mang, con đường thẳng) đã thể hiện rõ chí khí anh hùng của Từ Hải.
Tác giả dựng lên hình ảnh “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” rồi mới để cho Từ Hải và Thuý Kiều nói lời tiễn biệt. Liệu có gì phi lôgíc không ? Không, vì hai chữ “thẳng rong” có người giải thích là “vội lời”, chứ không phải lên đường đi thẳng rồi mới nói thì vô lí. Vậy có thể hình dung, Từ Hải lên yên ngựa rồi mới nói những lời chia biệt với Thuý Kiều. Và, có thể khẳng định cuộc chia biệt này khác hẳn hai lần trước khi Kiều từ biệt Kim Trọng và Thúc Sinh. Kiều tiễn biệt Kim Trọng là tiễn biệt người yêu về quê hộ tang chú, có sự nhớ nhung của một người đang yêu mối tình đầu say đắm mà phải xa cách. Khi chia tay Thúc Sinh để chàng về quê xin phép Hoạn Thư cho Kiều được làm vợ lẽ, hi vọng gặp lại rất mong manh vì cả hai đều biết tính Hoạn Thư, do đó gặp lại được là rất khó khăn. Chia tay Từ Hải là chia tay người anh hùng để chàng thoả chí vẫy vùng bốn biển. Do vậy, tính chất ba cuộc chia biệt là khác hẳn nhau.
Lời Từ Hải nói với Kiều lúc chia tay thể hiện rõ nét tính cách nhân vật. Thứ nhất, Từ Hải là người có chí khí phi thường. Khi chia tay, thấy Kiều nói :
Nàng rằng : “Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”.
Từ Hải đã đáp lại rằng :
Từ rằng : “Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”.
Trong lời đáp ấy bao hàm lời dặn dò và niềm tin mà Từ Hải gửi gắm nơi Thuý Kiều. Chàng vừa mong Kiều hiểu mình, đã là tri kỉ thì chia sẻ mọi điều trong cuộc sống, vừa động viên, tin tưởng Kiều sẽ vượt qua sự bịn rịn của một nữ nhi thường tình để làm vợ một người anh hùng. Chàng muốn lập công, có được sự nghiệp vẻ vang rồi đón Kiều về nhà chồng trong danh dự :
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”.
Quả là lời chia biệt của một người anh hùng có chí lớn, không bịn rịn một cách yếu đuối như Thúc Sinh khi chia tay Kiều. Sự nghiệp anh hùng đối với Từ Hải là ý nghĩa của sự sống. Thêm nữa, chàng nghĩ có làm được như vậy mới xứng đáng với sự gửi gắm niềm tin, với sự trông cậy của người đẹp.
Thứ hai, Từ Hải là người rất tự tin trong cuộc sống :
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì !
Từ ý nghĩ, đến dáng vẻ, hành động và lời nói của Từ Hải trong lúc chia biệt đều thể hiện Từ là người rất tự tin trong cuộc sống. Chàng tin rằng chỉ trong khoảng một năm chàng sẽ lập công trở về với cả một cơ đồ lớn.
Trong đoạn trích, tác giả đã sử dụng kết hợp nhuần nhuyễn từ Hán Việt và ngôn ngữ bình dân, dùng nhiều hình ảnh ước lệ và sử dụng điển cố, điển tích. Đặc biệt, nhân vật Từ Hải được Nguyễn Du tái tạo theo khuynh hướng lí tưởng hoá. Mọi ngôn từ, hình ảnh và cách miêu tả, Nguyễn Du đều sử dụng rất phù hợp với khuynh hướng này.
Về từ ngữ, tác giả dùng từ trượng phu, đây là lần duy nhất tác giả dùng từ này và chỉ dùng cho nhân vật Từ Hải. Trượng phu nghĩa là người đàn ông có chí khí lớn. Thứ hai là từ thoắt trong cặp câu :
Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Nếu là người không có chí khí, không có bản lĩnh thì trong lúc hạnh phúc vợ chồng đang nồng ấm, người ta dễ quên những việc khác. Nhưng Từ Hải thì khác, ngay khi đang hạnh phúc, chàng “thoắt” nhớ đến mục đích, chí hướng của đời mình. Tất nhiên chí khí đó phù hợp bản chất của Từ, thêm nữa, Từ nghĩ thực hiện được chí lớn thì xứng đáng với niềm tin yêu và trân trọng mà Thuý Kiều dành cho mình. Cụm từ động lòng bốn phương theo Tản Đà là “động bụng nghĩ đến bốn phương” cho thấy Từ Hải “không phải là người một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương” (Hoài Thanh). Hai chữ dứt áo trong Quyết lời dứt áo ra đi thể hiện được phong cách mạnh mẽ, phi thường của đấng trượng phu trong lúc chia biệt.
Về hình ảnh, “Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi” là một hình ảnh so sánh thật đẹp đẽ và đầy ý nghĩa. Tác giả muốn ví Từ Hải như chim bằng cưỡi gió bay cao, bay xa ngoài biển lớn. Không chỉ thế, trong câu thơ còn diễn tả được tâm trạng của con người khi được thoả chí tung hoành “diễn tả một cách khoái trá giây lát con người phi thường rời khỏi nơi tiễn biệt”. Nói thế không có nghĩa là Từ Hải không buồn khi xa Thuý Kiều mà chỉ khẳng định rõ hơn chí khí của nhân vật. Hình ảnh : “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” cho thấy chàng lên ngựa rồi mới nói lời tiễn biệt, điều đó diễn tả được cái cốt cách phi thường của chàng, của một đấng trượng phu trong xã hội phong kiến.
Về lời miêu tả và ngôn ngữ đối thoại cũng có những nét đặc biệt. Kiều biết Từ Hải ra đi trong tình cảnh “bốn bể không nhà” nhưng vẫn nguyện đi theo. Chữ “tòng” không chỉ giản đơn như trong sách vở của Nho giáo rằng phận nữ nhi phải “xuất giá tòng phu” mà còn bao hàm ý thức sẻ chia nhiệm vụ, đồng lòng tiếp sức cho Từ khi Từ gặp khó khăn trong cuộc sống. Từ Hải nói rằng sao Kiều chưa thoát khỏi thói nữ nhi thường tình không có ý chê Kiều nặng nề mà chỉ là mong mỏi Kiều cứng rắn hơn để làm vợ một người anh hùng. Từ nói ngày về sẽ có 10 vạn tinh binh, Kiều tin tưởng Từ Hải. Điều đó càng chứng tỏ hai người quả là tâm đầu ý hợp, tri kỉ, tri âm.
Đoạn trích ngợi ca chí khí anh hùng của nhân vật Từ Hải, một lý trí phi thường của bậc trượng phu và khẳng định lại một lần nữa tình cảm của Thuý Kiều và Từ Hải là tình tri kỉ, tri âm chứ không chỉ đơn thuần là tình nghĩa vợ chồng.
Xem thêm: Phân tích nhân vật Từ Hải trong đoạn trích Chí khí anh hùng
Cảm nhận về Từ Hải mẫu số 2:
Kim Trọng, Thúc Sinh và Từ Hải là ba nhân vật đã gắn bó với số phận và đời sống tình cảm của Thúy Kiều. Mối tình Kim – Kiều là mối tình đầu tuyệt đẹp giữa “Người quốc sắc, kẻ thiên tài” đã nặng tình thề nguyền ”Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”. Mối tình giữa Thúc Sinh và Thúy Kiều là quan hệ “Trước còn trăng gió sau ra đá vàng”. Từ Hải với Thúy Kiều đã gắn bó với nhau bằng mối tình tri kỷ giữa “trai anh hùng, gái thuyền quyên”. Những nhân vật ấy đã được thi hào Nguyễn Du thể hiện một cách tuyệt đẹp, làm cho cảm hứng nhân văn lung linh tỏa sáng trên những trang thơ “Truyện Kiều”.
Đọc đoạn thơ “Kiều gặp Từ Hải” qua nghệ thuật tả người của một ngòi bút thiên tài, qua nhân vật Từ Hải ta cảm nhận được ước mơ về tự do và công lý trong xã hội phong kiến.
Lúc bấy giờ Kiều đang sống ở Châu Thai trong tay Bạc Bà, Bạc Hạnh:
“Thoắt buôn về, thoắt bán đi,
Mây trôi bèo nổi thiếu gì là nơi!”
Trong cảnh ngộ ấy, “khách biên đình”, nơi biên ải xa xôi đã đến với Kiều. Đó là một đêm mùa thu “gió mát, trăng thanh”. Hai chữ “bỗng đâu” nói lên sự bất ngờ, đột ngột:
“Lầu thâu gió mát, trăng thanh,
Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi.”
Không phải là một văn nhân với tiếng “nhạc vàng”, với “cờ pha màu áo nhuộm non da trời” Cũng không phải là người “trăm nghìn đổ một trận cười khi không”. Mà là “một đấng anh hùng” có cốt cách phi thường:
‘’Râu hùm, hàm én, mày ngài,
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.”
Những ẩn dụ, những số đo ấy tuy mang tính chất ước lệ tượng trưng của thi pháp cổ, nhưng với cách ngắt nhịp 2/2/2 ở câu lục và 4/4 ở câu bát, giọng thơ trở nên mạnh mẽ đầy ấn tượng về một tướng mạo phi phàm, uy nghi. “Khách biên đình” có võ nghệ cao cường vô địch, có trí dũng “lược thao gồm tài”. Đó là một anh hùng xuất chúng:
“Đường đường một đấng anh hào
Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài.”
Lai lịch bí mật của “khách” được hé lộ dần về họ, tên, quê quán, về chí khí “giang hồ của một khách cung kiếm, sống một cuộc đời tự do:
Đội trời đạp đất ở đời
Họ Từ, tên Hải vốn người Việt Đông
Giang hồ quen thói vẫy vùng,
Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo.”
Nguyễn Du đã sử dụng một số từ Hán – Việt như : “đấng anh hào”, “Côn quyển”, ‘ thao”, “giang “vẫy vùng” để khắc họa tính cách anh hùng và khát vọng tự do của nhân vật Từ Hải. Các phụ âm “đ” trong các từ ngữ như : đường đường”, “đội trời, đạp đất”, “ở đời”, “Việt Đông”, làm cho giọng thơ vang lên hùng tráng, mạnh mẽ. Sau này khi Từ Công đã chết, Thúc Sinh còn nhắc lại đầy ngưỡng mộ:
“Đại vương tên Hải họ Từ,
Đánh quen trăm trận, sức dư muôn người.
Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên,
Làm nên động địa kinh thiên đùng đùng,
Đại quân dồn đóng cõi đông…”
Có thể nói, Nguyễn Du đã dùng những từ ngữ, hình ánh tráng lệ nhất, giọng thơ hùng tráng nhất, để ca ngợi cốt cách phi thường, thói giang hồ tự do,chí khí anh hùng của Từ Hải.
Từ Hải còn là một anh hùng rất đa tình. Buổi gặp gỡ đầu tiên có thiếp danh trang trọng, nhiều tâm đắc tương tri: “cùng liếc… cùng ưa”. Người đẹp đã làm cho đấng anh hào phải xiêu lòng. Cũng là khoảnh khắc “ban đầu lưu luyến” của lứa đôi:
“Thiếp danh đưa đến lầu hồng,
Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa.”
Cuộc đối thoại tại “lầu hồng” giữa anh hùng và giai nhân đã làm nổi bật thêm những nét đẹp trong tâm hồn Từ Hải. Đến “lầu hồng” gặp Kiều, Từ Hải không phải vì tình “trăng gió” mà là “tâm phúc tương cờ” đi tìm “ tri kỷ”. Vì vậy khi nghe người đẹp nói lên niềm hy vọng “‘Tấn Dương được thấy mây rồng có phen”, nghe Kiều gửi gắm sự trông cậy chở che: “Rộng thương cỏ nội hoa hèn – Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau” thì Từ Hải “gật đầu” sung sướng:
“Một lời đã biết đến ta,
Muôn chung nghìn tứ, cũng là có nhau.”
Đó là một lời hứa như dao chém đá của trang anh hùng nghĩa hiệp. Chẳng cần dùng mưu kế như Thúc Sinh “rước về hãy tạm dấu nàng một nơi”, Từ Hải đã chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, thái độ xử lý rất đàng hoàng: ‘Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn”. Con người “giang hồ quen thói vẫy vùng”, từng “đánh quen trăm trận” ấy lại có một tình yêu rất lãng mạn, Từ Hải là ân nhân của Kiều đã làm thay đổi số phận của một gái thanh lâu:
“Trai anh hùng, gái thuyền quyên,
Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng.”
Qua đoạn thơ “Kiều gặp Từ Hải”, ta càng thấy rõ nghệ thuật tả người của Nguyễn Du rất đặc sắc, độc đáo. Thi hào đã dành những câu chữ hay nhất, trang trọng nhất để khắc họa tính cách anh hùng phi thường, khát vọng tự do và đa tình lãng mạn của nhân vật Từ Hải. Từ giọng điệu đến ngôn từ đều trang trọng, cổ kính: nhân vật lung linh màu sắc huyền thoại sử thi.
Nhân vật Từ Hải tựa như một ánh hào quang chiếu qua một quãng đời ngắn ngủi của Thúy Kiều, nhưng đã để lại trong lòng người bao ấn tượng tốt đẹp. Chân dung anh hùng Từ Hải là một phương diện tuyệt đẹp về cảm hứng nhân văn của “Truyện Kiều“.
Tham khảo thêm: Văn mẫu 10 cảm nhận đoạn trích Chí khí anh hùng
Các em vừa tham khảo nội dung hướng dẫn cách làm, lập dàn ý và bài văn mẫu cảm nhận về nhân vật Từ Hải trong Chí khí anh hùng, hy vọng đã phần nào giúp các em trong quá trình làm bài. Chúc các em học tốt môn Văn khi tham khảo văn mẫu lớp 10 tại Doctailieu.com !
[Văn mẫu 10] Cảm nhận về nhân vật Từ Hải trong Chí khí anh hùng để làm sáng tỏ chí khí phi thường mang tính vũ trụ vừa có tâm hồn khoáng đạt của người anh hùng Từ Hải
tmdl.edu.vn. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: https://tmdl.edu.vn/cam-nhan-ve-nhan-vat-tu-hai-trong-chi-khi-anh-hung/
Trang chủ: tmdl.edu.vn
Danh mục bài: Giáo dục