Giáo dục

Đóng vai người cháu kể lại bài thơ Bếp lửa lớp 9 ngắn gọn, hay nhất

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa lớp 9 ngắn gọn hay nhất bao gồm dàn ý chi tiết cùng 20 bài văn mẫu đạt điểm cao do Trường Trung Cấp Nghề Thương Mại Du Lịch Thanh Hoá tuyển chọn sẽ giúp các em học sinh hóa thân người cháu kể lại Bếp lửa thật cô đọng, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.

Đề bài: Đóng vai người cháu kể lại bài thơ Bếp lửa

Bạn đang xem bài: Đóng vai người cháu kể lại bài thơ Bếp lửa lớp 9 ngắn gọn, hay nhất

Đóng vai người cháu kể lại bài thơ Bếp lửa lớp 9
Đóng vai người cháu kể lại bài thơ Bếp lửa lớp 9

Để đóng vai người lính kể lại bài thơ Bếp lửa chí đạt yêu cầu, các em cần sử dụng ngôi kể thứ nhất (tôi), theo tuần tự của bài thơ để phác họa lên tình cảm sâu nặng của người cháu với người bà kính yêu!

3 Dàn ý Đóng vai người cháu kể lại bài thơ Bếp lửa đầy đủ, chi tiết

Dàn ý đóng vai người cháu kể lại bài Bếp lửa – Mẫu 1

1. Mở bài

Giới thiệu về bản thân (nhân vật cháu trong bài thơ)

2. Thân bài

* Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn hồi tưởng cảm xúc về bà

  • Hình ảnh bếp lửa gần gũi, quen thuộc trong mỗi gian bếp người Việt xưa
  • Hình ảnh bếp gợi lên hình ảnh bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng chi chút của người bà nhóm lửa.

* Hồi tưởng lại kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà, bếp lửa gắn liền với bà

  • Tuổi thơ đầy thiếu thốn, gian khổ, nhọc nhằn
  • Bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945, mẹ và cha bận công tác không về
  • Cháu sống cùng bà, được bà cưu mang, dạy dỗ, phải tự lập và sớm phải lo toan

* Suy ngẫm về bà và cuộc sống của bà

  • Thương bà khó nhọc, tần tảo sớm hôm
  • Đức hy sinh, sự chăm lo cho mọi người của bà
  • Ngọn lửa bà nhóm lên là ngọn lửa yêu thương, niềm vui

* Cảm nghĩ sau khi đã trưởng thành và nỗi nhớ về bà

  • Cháu bây giờ đã lớn khôn, được chắp cánh bay xa, niềm vui mở rộng ở phía trước
  • Không nguôi quên ngọn lửa của bà, tấm lòng và tình yêu của bà, bà là người truyền lửa – Ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho thế hệ sau

3. Kết bài

Nêu cảm nghĩ của bản thân về bà, về ngọn lửa bà nhóm lên

Dàn ý đóng vai người cháu kể lại bài Bếp lửa – Mẫu 2

I. Mở bài:

Giới thiệu về mình (Nhân vật trữ tình trong bài thơ)

II. Thân bài:

Nhân vật trữ tình kể theo mạch kể riêng của mình nhưng đảm bảo được mạch cảm xúc của bài thơ là:

Bài thơ được mở ra với hình ảnh bếp lửa, từ đó gợi về những kỷ niệm tuổi thơ sống bên bà tám năm ròng, làm hiện lên hình ảnh bà với sự chăm sóc, lo toan, vất vả và tình yêu thương trìu mến dành cho đứa cháu.Từ kỷ niệm, đứa cháu nay đã trưởng thành suy ngẫm và thấu hiểu về cuộc đời bà, về lẽ sống giản dị mà cao qúy của bà. Cuối cùng người cháu muốn gửi niềm thương, nhớ mong về bà khi ở xa bà… Ví dụ hình thành mạch kể riêng:

* Cách 1:

1 – Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng hồi tưởng, cảm xúc về bà.

2 – Hồi tưởng những kỷ niệm tuổi thơ sống bên bà và hình ảnh bà gắn liền với hình ảnh bếp lửa.

3 – Suy ngẫm về bà và cuộc đời bà.

4 – Nỗi niềm của cháu khi đã trưởng thành, đi xa về bà

* Cách 2:

1 – Hình ảnh bếp lửa đã gợi lên trong tâm trí tôi, quá khứ hiện về như một cuộn phim quay chậm.

2 – Tuổi thơ của tôi phải sống trong chiến tranh đầy bom đạn dữ dội.

3 – Tuổi thơ của tôi với bao niềm vui sướng, hạnh phúc được ở bên bà.

4 – Đóng vai người cháu, kể lại nội dung bài thơ Bếp Lửa – Bằng Việt. Yêu cầu có sử dụng yếu tố nghị luận, độc thoại nội tâm – Từ kỷ niệm tuổi thơ ở bên bà, tôi lại nhớ về bà và hình ảnh bếp lửa.

5 – Giờ đây tôi đã trưởng thành, nhưng tôi không thể nào quên hình ảnh bà gắn với hình ảnh bếp lửa.

III. Kết bài:

Niềm mong ước, suy nghĩ của nhân vật trữ tình từ hình ảnh bà và bếp lửa

Dàn ý đóng vai người cháu kể lại bài Bếp lửa – Mẫu 3

Đây là dàn ý được xây dựng với tình huống người cháu đang đi du học ở nước ngoài, nhớ về bà và bếp lửa thân thương.

I. Mở bài:

Giới thiệu về mình (Nhân vật người cháu trong bài thơ)

Ví dụ: Tôi là một sinh viên đang du học ở nước ngoài. Ở phương trời Tây, tuyết thường rơi trắng xóa vào buổi sáng. Cái lạnh ở nơi đây làm tôi luôn nhớ đến bếp lửa bà thổi chờn vờn trong sương sớm. Bếp lửa toả sáng bập bùng, in bóng bà tôi trên vách bếp. Ôi hình ảnh bếp lửa gắn liền với những kỉ niệm với bà, hình ảnh đã khắc sâu trong tâm trí tôi.

II. Thân bài:

Kể chuyện

1- Hình ảnh bếp lửa đã gợi lên trong tâm trí

Tuổi thơ của tôi được sống bên bà, cùng bà nhóm lửa là tuổi thơ với nhiều gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn. Lên bốn tuổi tôi đã quen mùi khói. Năm 1945 nạn đói khủng khiếp xảy ra do chính sách cai trị của Thực dân Pháp nên gia đình tôi cũng đói mòn , đói mỏi. Cha tôi đi đánh xe ngựa chở hàng thuê. Xóm làng điêu tàn ngập trong mùi khói , nhĩ lại đến giờ sống mũi còn cay, nước mắt cứ chực ứa ra.

2- Tuổi thơ của tôi phải sống trong chiến tranh đầy bom đạn dữ dội.

Năm ấy, giặc càn vào làng đốt nhà cháy tàn, cháy lụi. Làng xóm phải giúp bà cháu tôi dững lại túp lều tranh để che mưa nắng. Bố mẹ tôi đi công tác bận không về, bà tôi dặn nếu có viết thư cho bố thì đừng kể này kể nọ, cứ bảo rằng ở nhà mọi việc bình yên để bố mẹ yên tâm công tác. Chao ôi! tôi hiểu lòng bà và càng yêu quý bà hơn.

3 – Kỉ niệm tuổi thơ ở bên bà

Suốt tám năm ròng, tôi ở cùng bà, sớm sớm chiều chiều cùng bà nhóm lửa. Bà kể cho chúng tôi nghe những ngày lưu lạc ở Huế. Bà dạy tôi điều hay lẽ phải. Bà là người thầy đầu tiên trong cuộc đời tôi . Tôi lớn lên trong sự chăm sóc , dạy bảo của bà. Mỗi lần nghe tiếng chim tu hú kêu, lòng tôi trỗi dậy những hoài niệm nhớ mong, muốn được ở gần bà, sợ phải xa bà.

4 – Từ kỉ niệm tuổi thơ ở bên bà, tôi lại nhớ về bà và hình ảnh bếp lửa.

Hình ảnh bà tôi mái tóc bạc phơ, thân hình còm cõi luôn đi đôi với bếp lửa rực hồng . Hình ảnh bà luôn gắn liền với hình ảnh bếp lửa. Bếp lửa do tay bà nhóm lên tỏa hơi ấm khắp căn lều nhỏ và sưởi ấm lòng tôi, khơi dậy ở tôi những tâm tình của thời thơ dại. Bà là người phụ nữ Việt Nam muôn thuở với vẻ đẹp tần tảo , nhẫn nại và đầy yêu thương. Bếp lửa là tình bà nồng ấm, bếp lửa là tay bà chăm chút, bếp lửa gắn với những khó khăn gian khổ của đời bà. Ngày ngày bà nhóm lên bếp lửa cũng là nhóm lên niềm vui , sự sống, niềm yêu thương chi chút dành cho tôi và mọi người. bà không những là người nhóm lửa, giữ lửa, mà còn là người truyền lửa, truyền niềm tin , sự sống cho tôi.

5- Giờ đây người cháu đã trưởng thành.

Tôi có những niềm vui mới, tình cảm mới, bến bờ mới. Tổ quốc đã chắp cánh cho tôi bay vào bầu trời thênh thang của tri thức khoa học,nhưng tôi không thể nào quên hình ảnh bà gắn với hình ảnh bếp lửa mà bà tôi ấp iu nhen lên mỗi sớm, mỗi chiều ở nơi quê nhà.

III. Kết bài:

Tôi ước ao được về ngay bên bà, ôm chặt lấy bà để được tiếp thêm sức mạnh, niềm tin.

Ví dụ: Những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời phải không các bạn ? Tình yêu thương , lòng biết ơn trong gia đình chính là cội nguồn của tình yêu quê hương đất nước, con người.

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa ngắn gọn

Ở một nơi xa xôi, ngồi một mình trong căn phòng nhỏ, hình ảnh bếp lửa ấm áp quen thuộc của tuổi thơ bỗng ùa về trong tâm trí của tôi. Hình ảnh bếp lửa thân thuộc của góc bếp Việt Nam, hình ảnh bếp lửa còn khiến tôi nhớ về bà.

Mỗi sáng sớm bà đều dậy nhóm lửa, ánh lửa cháy lên bắt đầu một ngày mới, bếp lửa ấy còn là nỗi vất vả sớm hôm không quản nắng mưa của bà. Nhớ lại hồi đó tôi mới bốn tuổi, mùi khói của bếp lửa cho đến giờ vẫn chẳng thể quên, những năm tháng ấy là nạn đói của cả dân tộc, cả bố và mẹ đều phải đi công tác và nhiệm vụ nên chỉ có tôi ở nhà với bà. Ngày xưa mắt tôi nhèm vì làn khói bếp thì bây giờ sống mũi lại cay khi nhớ về nó. Trong suốt tám năm tôi sống cùng bà, tôi là người cùng bà nhóm lửa, cứ mỗi mùa tu hú kêu bà tôi lại kể chuyện những ngày ở Huế. Tiếng tu hú tha thiết như chính tình cảm thương yêu của bà, bà chăm lo cho tôi từng cái ăn, cái mặc, dạy tôi học, dạy tôi làm, tôi thương bà khó nhọc nên bà bảo gì tôi đều nghe. Nhớ năm giặc vào làng tôi đốt cháy cả nhà nhưng bà vẫn dặn tôi có viết thư không được kể linh tinh mà phải bảo nhà vẫn bình yên cho bố mẹ yên tâm công tác. Ngọn lửa bà tôi nhóm lên không đơn thuần là ngọn lửa cháy mà còn là ngọn lửa niềm tin, hy vọng. Cả cuộc đời bà suốt mấy chục năm ngày nào bà cũng dậy sớm nhóm lửa, tôi nhờ có ngọn lửa mà có niềm yêu thương, có khoai sắn ngọt bùi và cả những tâm tình tuổi thơ. Giờ đây khi đã đi xa đến miền đất xa lạ, có những niềm vui mới có nhiều tương lai thế nhưng tôi lại chẳng có bếp lửa và bà, trong lòng vẫn luôn khắc khoải câu hỏi “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”.

Cả cuộc đời này tôi sẽ chẳng bao giờ quên được hình ảnh bếp lửa, cũng không thể nào quên được tình yêu thương vĩ đại, vô bờ bến mà bà đã dành trọn cả cuộc đời cho tôi.

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa ngắn gọn
Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa ngắn gọn

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa ngắn đạt điểm cao

Hôm nay, tôi bắt gặp hình ảnh bếp lửa, thật khó để diễn tả những cảm xúc, trạng thái và ý thức của tôi lúc bấy giờ. Tôi chỉ nhớ rằng mình đã đứng ngây người trước bếp lửa đó và hình ảnh người bà thân thương nhóm bếp lửa cho tôi lại sống lại trong tâm hồn.

Bếp lửa có từ bao giờ, tôi cũng chẳng thể biết rõ, chỉ biết rằng từ khi tôi sinh ra đã quen thuộc với việc nhóm bếp lửa của bà. Ngày nắng to cũng như ngày mưa bão, chẳng ngày nào là bà không nhóm bếp, năm tôi bốn tuổi mùi khói đã trở nên quen thuộc, ám vào quần áo và cả tâm hồn. Giữa những năm 1945 sao mà cái đói lại đáng sợ đến thế, bố mẹ vất vả mưu sinh chỉ còn lại hai bà cháu nương tựa nhau mà sống. Khói bếp khi ấy làm nhèm mắt tôi nhưng bây giờ tôi lại bật khóc vì không được ngửi làn khói ấy.

Tám năm ròng, tôi cùng bà nhóm lửa, ngồi cạnh bà bên bếp lửa bà hay kể tôi nghe chuyện ngày còn ở Huế. Đã lâu rồi tôi không nghe thấy tiếng tu hú, nhớ về kỉ niệm sống với bà là quãng đời tuyệt đẹp, bà dạy tôi làm, bà bảo tôi học, bà chăm tôi ăn từng miếng ăn, giấc ngủ, thương bà khó nhọc tần tảo sớm hôm tôi chỉ biết chăm ngoan nghe lời. Ngày xưa khổ lắm ai ơi, giặc tràn về đốt hết mái nhà tranh, khó khăn lắm mới dựng lại được, để cho bố mẹ yên tâm công tác bà vẫn dặn tôi không được nói về chuyện đó. Ngày tháng cứ thế trôi qua, sáng nào bà cũng nhóm bếp, bà nhóm lên ngọn lửa yêu thương, niềm tin và hy vọng về tương lai tươi sáng, ấm no, sum vầy. Nhờ có bếp lửa của bà tôi thấu hiểu được nỗi lận đận nắng mưa, dù thời thế có thay đổi trong suốt mấy chục năm bà vẫn giữ thói quen dậy sớm nhóm bếp lửa. Từ bếp lửa ấy có xôi có gạo, có khoai sắn ngọt bùi và có cả tâm tình tuổi nhỏ. Bếp lửa của bà kì lạ và thiêng liêng lắm, để bây giờ khi rời xa quê hương, tôi ở nơi miền đất mới nhiều điều tươi sáng nhưng vẫn không thể quên bếp lửa và bà.

Trưởng thành rồi ta lại muốn trở nên bé lại, được trở về với những đơn sơ, ngây dại. Sẽ chẳng có gì có thể nói hết được tình yêu của tôi với bà và với quê hương Việt Nam.

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa – Mẫu 1

Mỗi năm mùa đông đến, phải ngồi bên lò sưởi, ngồi nhìn ngọn lửa cháy tôi lại nhớ đến bếp lửa thân thuộc nơi quê nhà. Ở Việt Nam có bếp lửa, có bà hàng ngày nhóm lửa, ngọn lửa nơi đất khách quê người này dù có to và sáng đến đâu cũng chẳng thể ấm áp và giàu tình thương như ngọn lửa của bà.

Xa quê hương rồi tôi mới thấm thía nỗi nhớ quê, nhớ gia đình và người bà kính yêu. Ai cũng có quê hương và có những kỉ niệm với nơi sinh ra và lớn lên ấy, đối với tôi cái tôi nhớ nhất bây giờ là bếp lửa chờn vờn sương sớm, bếp lửa ấp iu nồng đượm của bà. Bà tôi – một người có đức hy sinh cao cả, cả một đời lo cho con cho cháu, tôi nhớ bếp lửa của bà, cái bếp khiến tôi quen mùi khói khi bốn tuổi. Cái nghèo đói năm 1945 ấy cả đời tôi sẽ chẳng quên được, bố đi đánh xe khô rạc cả người, cái đói mòn mỏi quanh quẩn bên bếp lửa của bà, làn khói hun nhèm mắt mà bây giờ nghĩ lại khiến tôi cay sống mũi.

Tám năm ròng tôi cùng bà nhóm bếp lửa, thường ngồi bên bếp nghe văng vẳng tiếng tu hú kêu, chẳng biết bà còn nhớ không, những câu chuyện bà bà kể cho tôi ngày còn ở Huế. Vì cha mẹ bận công tác không về, cuộc sống tôi quanh quẩn bên bà, bà cho tôi được ăn ngủ, học hành, dạy bảo tôi từng thứ nhỏ nhặt và cả những điều sâu xa, cao cả. Giống như năm mà giặc đến đốt nhà tôi, cơ sự nghiêm trọng ấy nhưng cũng chỉ mình bà gánh vác, bà không muốn con cái phải lo lắng nên dặn tôi có viết thư cho bố phải bảo ở nhà vẫn bình yên. Tu hú ơi, tu hú còn kêu nữa hay không, hãy thay tôi đến ở cùng bà, san sẻ những lận đận vất vả của bà, cùng bà sớm chiều nhen lên bếp lửa. Trong lòng bà luôn có một ngọn lửa đã ủ sẵn, đó là ngọn lửa niềm tin, yêu thương, cho nồi xôi gạo thơm ngon, cho củ khoai sắn ngọt bùi, chỉ cần bếp lửa bà nhóm lên là bao tâm tình tuổi nhỏ trong tôi lại trỗi dậy. Tiếc thay tôi không còn được bên cạnh bếp lửa kì lạ và thiêng liêng ấy, lựa chọn đi xa quê hương, rời xa bà tôi thầm tiếc nuối quãng thời gian được bà ủ ấp, vỗ về yêu thương, được cùng bà nhóm lên bếp lửa.

Ở chốn phồn hoa nhưng xa lạ tôi luôn khắc khoải một niềm nhớ thương về bà, về tình yêu và sự hy sinh của cuộc đời bà. Vẫn là câu hỏi tôi rất muốn được hỏi bà “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”.

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa – Mẫu 2

Trời độ này thời tiết bắt đầu trở lại, từng cơn gió rét căm căm cứ thay nhau ùa về lạnh buốt đến từng làn da thớ thịt. Những gia đình có điều kiện đã bắt đầu mua những chiếc áo bông, những chiếc máy sưởi để giữ ấm bản thân qua khỏi những đợt gió đông đang về. Tôi bất giác nhớ về cái bếp lửa đơn thuần, bình dị của bà, tất cả ký ức từ mơ hồ đến rõ rệt cứ ùa về như thác lũ. Đó là năm 1945 đen tối của cả dân tộc, hơn hai triệu đồng bào ta vì những chính sách vô lý của Đế quốc thực dân mà lâm vào cảnh đói khát rồi từ giã cuộc đời. Miếng ăn bấy giờ là thứ xa xỉ, con người có thể đánh đổi cả mạng sống mình để có được dẫu chỉ là chút thực phẩm con con.

Không nằm ngoài dòng chảy ấy, gia đình tôi cũng bị cái đói giăng mắc đến không thể cựa quậy hay vẫy vùng. Cái xe ngựa chòng chành của cha tôi giành kiếm sống qua ngày cũng bị cái đói dai dẳng theo đuổi. Những năm kháng chiến chống Pháp nổ ra, cha mẹ tôi cũng đi theo kháng chiến nên chỉ còn bà là điểm tựa duy nhất của tôi.

Ký ức của tôi gắn liền với hình ảnh người bà lam lũ, với những thời khắc nhóm lửa đến chảy cả nước mắt. Tám năm trời ròng rã, cái mùi khói cất lên từ bếp lửa khiến người ta chảy cả nước mắt, nước mũi ấy không biết tự bao giờ đã trở thành một phần ký ức của tôi, cứ thế theo bước tôi trên con đường trưởng thành.

Tôi vẫn nhớ như in dáng vẻ người bà tần tảo dẫu tuổi đã xế chiều nhưng vẫn gắng sức chăm lo cho tôi không thua kém lũ bạn. Bao nhiêu nắng mưa nhọc nhằn đều in hằn lên những nếp nhăn ngày một nhiều, những vết nhăn ấy mang đậm dấu ấn thời gian và cũng là minh chứng cho một đời bà vất vả vì con cháu. Bà chăm lo cho tôi đến từng bữa ăn, giấc ngủ, bà tuy vất vả nhưng luôn mong con cháu sống một đời an yên. Năm ấy đói mòn, đói mỏi, cơn bão của sự nghèo đói kéo đến mang bao mạng người đi xa, ấy vậy mà bà vẫn một tay nuôi tôi trưởng thành.

Những năm tháng vất vả ấy, cha mẹ tất bật chạy theo kháng chiến, trong căn nhà nhỏ đơn sơ, bình dị có hai bà cháu vẫn vui vẻ nương tựa nhau vượt qua những ngày dài. Bà dạy tôi làm mọi thứ để tôi luyện sự trưởng thành, từ việc nhỏ đến lớn, sau những lời bảo ban, dạy dỗ của bà, đứa trẻ như tôi đã có thể làm thoăn thoắt. Bà còn là một người thầy ân cần dạy tôi chữ nghĩa, từng con chữ, phép tính mà bà dạy đều hằn sâu trong tim tôi như những bài học vỡ lòng. Càng lớn khôn tôi lại càng yêu thương bà da diết, bà dùng tất cả tấm lòng của mình chăm sóc tôi những ngày dài cha mẹ vắng mặt, nhờ sự bao dung của bà mà tôi chưa từng cảm thấy bản thân mình thiếu vắng tình thương.

Thế rồi cái làng nhỏ vốn bình yên của tôi cũng không thoát khỏi sự hung tàn của giặc. Năm đó giặc kéo vào đốt từng căn nhà mái vách nhỏ bé hóa thành tro bụi. Tài sản của những người nông dân chân chất cả đời chắt chiu, dành dụm kia cũng hóa thành hư không. Cái làng nhỏ của tôi vốn nghèo khó nay lại càng chồng chất thê lương, tôi cùng bà đứng nhìn căn nhà dung chứa cả tuổi thơ tôi lụi tàn dưới ngọn lửa hung ác.

Càng căm hận, uất ức lũ cướp nước kia bao nhiêu, tôi càng đau xót, đớn đau trước tình cảnh của hai bà cháu bấy nhiêu. Hình ảnh ngọn lửa nuốt chửng cả mấy mươi căn nhà mái vách nghèo trước tiếng oán than của những kiếp đời khốn khó ngày ấy vẫn còn hiện hữu trong tiềm thức, ám ảnh tôi đến tận những năm tháng trưởng thành.

Căn nhà trước kia được thay bằng túp lều tranh tạm bợ, hàng xóm bốn phương cũng trở về lầm lụi, tôi thấy ở dáng vẻ mỗi người đều mang theo mình những nét trầm tư. Tôi mang trong mình suy nghĩ sẽ viết thư nói tình hình hiện tại, mong cha mẹ sớm trở về quê hương.

Như đọc được những suy nghĩ trong lòng tôi, bà bảo tôi viết thư chớ kể này kể nọ. Dẫu bà đã mất đi tất cả nhưng vẫn một lòng hướng về con cháu, bà dặn tôi bất luận thế nào cũng phải bảo gia đình bình yên, tôi và bà đều đang sống tốt. Bà sợ bố lo lắng cho gia đình, bà muốn bố dành trọn tâm trí để giúp đỡ quê hương.

Sớm rồi lại chiều cái bếp lửa trong túp lều tranh tạm bợ vẫn lấp lánh những ngọn lửa hồng. Bà nhen bếp lửa cũng như nhen nhóm niềm tin hòa bình trong bà. Sáng, trưa, chiều, tối, những ánh lửa hồng chưa bao giờ ngơi. Bếp lửa bình dị nhưng lại dung chứa trong ấy tình làng nghĩa xóm sâu nặng, tình quân dân đậm đà và dung chứa cả một khoảng trời đẹp đẽ tuổi thơ tôi. Cuộc đời bà lận đận là thế, đến tuổi xế chiều vẫn gồng gánh lên mình biết mấy nắng mưa. Tôi đã quen với hình ảnh người bà thức dậy khi thế gian còn đang say giấc để giữ bếp lửa kia luôn luôn ấm hồng.

Bếp lửa luộc những củ khoai, củ sắn tuy dân dã nhưng lại nuôi tôi đến ngày lớn khôn. Cũng chính nhờ bếp lửa ấy, cái tình làng xóm của những người nông dân chân chất, dân dã cũng càng vẹn tròn hơn. Từ những tháng ngày chinh chiến đau thương chia nhau từng củ khoai, củ sắn đến tận khi đất nước hòa bình, kiến thiết, dân tộc ta được nếm trọn hương vị của xôi, gạo thơm nồng.

Tôi vẫn nhớ những ngày tháng dân tộc ta xem gạo vẫn là món ăn xa xỉ, cắn vội một miếng khoai sắn rồi lại chạy đi lo việc đồng áng. Những củ khoai được nhét vội vào tay những chiến sĩ bộ đội những ngày hành quân gian khổ lại tiếp thêm tinh thần dân tộc cho những anh hùng bảo vệ từng tấc đất quê hương.

Ngọn lửa cháy âm ỉ kia dung chứa hết những điều đẹp đẽ nhất, tươi đẹp nhất, còn dung chứa cả những tâm tình tuổi nhỏ trong tôi. Bao vui, buồn, nắng, mưa đều được hiện hữu bằng hình ảnh người bà, bằng hình ảnh chiếc bếp lửa thấm đượm tình thương.

Thứ mà bà nhen nhóm không đơn thuần là một ngọn lửa mà còn là niềm vui, niềm yêu thương chân thành đến con cháu và cả những người xung quanh. Bếp lửa cứ thế chưa bao giờ lụi tàn bởi luôn được bà tiếp thêm lửa cũng là tiếp thêm niềm tin cho tương lai tươi sáng mai này. Bếp lửa giản dị nhưng trong tôi lại quá đỗi thiêng liêng cao đẹp..

Giờ đây guồng quay cuộc sống cứ thế luân chuyển, tôi đang sống ở xã hội với đầy rẫy những tiện nghi, đó có thể là những bếp gas, bếp từ nhưng hình ảnh bếp lửa trong tôi vẫn thật thiêng liêng. Đất nước ta thoát khỏi xiềng xích nô lệ, cứ thế tiến lên phát triển từng ngày, những ngày tháng đau thương trong quá khứ lùi về sau để niềm vui ngập tràn trăm ngả.

Thế nhưng một câu hỏi vẫn luôn hiển hiện trong đầu tôi rằng: “Sớm mai này, bà đã nhóm bếp lên chưa”. Tôi muốn những giá trị đẹp đẽ của tuổi thơ chẳng mãi mãi nằm lại vô tri trong ký ức mà phải luôn hiện hữu lưu truyền lại đến muôn đời sau.

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa – Mẫu 3

Mỗi lần đi ngang qua những cánh đồng của đất nước Nga mênh mông, rộng lớn, tôi lại nhớ đến quê hương Việt Nam thân thương của tôi. Nhất là vào những ngày tuyết rơi trắng xóa, thời tiết lạnh thấu xương, tôi run rẩy trong chiếc áo dày cộm ngồi bên lò sưởi. Nhưng lúc đó sao tôi lại thấy lò sưởi sao quen thuộc đến thế! Ngọn lửa ấm áp làm tôi nhớ đến cái bếp lửa của bà tôi quá!

Tôi sinh ra vào thời chiến tranh loạn lạc, cái thời kì mà đất nước bị chia cắt làm hai, cái thời kì mà đất nước bị giày xéo bởi gót giày của giặc. Gia đình tôi có một truyền thống yêu nước nồng nàn, nên từ khi tôi còn bé, bố mẹ tôi đã luôn rời xa tôi để đi phục vụ Tổ quốc ở nơi chiến khu gian nan, hiểm trở. Vì vậy tôi đã sống với bà từ những ngày thơ ấu. Tôi có những kỉ niệm không bao giờ quên với bà, đặc biệt là hình ảnh bà luôn gắn với cái bếp lửa ấp iu nồng đượm ấy. Bà thức dậy từ sớm tinh mơ để nhóm cái bếp lửa chờn vờn sương sớm, để nhóm lên cái ngọn lửa bởi tình bà cháu ấm áp, nồng đượm. Nghĩ về bếp lửa tôi lại thương bà tha thiết, sự tần tảo, vất vả của bà sao tôi có thể quên.

Còn nhớ lại cái năm tôi vừa mới lên bốn tuổi, năm ấy là năm 1945 – cái năm đói mòn đói mỏi. Tôi đã chứng kiến cái nạn đói len lỏi vào trong từng gia đình, gây nên cái chết thương tâm của hai triệu dân mình, cái chết như để thể hiện cho tội ác của chiến tranh, một thời kì đau khổ của dân tộc Việt Nam ta. Bố tôi thì đi đánh xe khô rạc ngựa gầy. Còn tôi thì vẫn ở với bà, bà nhóm bếp để khói xua tan cái mùi chết chóc. Nghĩ lại đến giờ sống mũi vẫn còn cay! Cay vì mùi khói! Cay vì một thời kì bi thương, đói khổ, chết chóc của dân tộc ta!

Tám năm ròng tôi cùng bà nhóm bếp, bà bao bọc, che chở tôi, bà dạy tôi làm, bà chăm tôi học. Tôi lớn lên trong sự dạy dỗ, bảo ban của bà. Nhớ đến mùa hè năm ấy, tu hú kêu trên những cánh đồng xa, tiếng tu hú nghe sao mà tha thiết thế! Tiếng tu hú như khơi dậy những hoài niệm, những nhớ nhung mong nhớ trong tôi. Bà hay kể cho tôi nghe những ngày ở Huế, tôi luôn hào hứng, thích thú những câu chuyện của bà, từng giọng nói ấm áp của bà chạm đến trái tim tôi, cho tôi biết thương cảm, yêu thương người khác hơn. Nghĩ đến đây tôi liền trách thầm những con tu hú sao không ở cùng bà mà lại kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?

Cuộc sống tưởng như yên bình trôi qua trong mắt đứa trẻ như tôi, nhưng không ngờ năm đó là năm giặc càn quét dữ dội, chúng để lại một kí ức in mãi trong tâm trí tôi. Chúng đốt làng cháy tàn cháy rụi, hình ảnh làng xóm lại trở về lầm lụi, may thay bà tôi sống có nghĩa có tình, được hàng xóm đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh trên đống tro tàn. Lúc đó tôi sợ đến òa khóc, nói với bà rằng:” Cháu muốn viết thư cho bố mẹ để bố về nhà chăm sóc, bảo vệ bà cháu mình “. Thế mà bà vẫn vững lòng, vẫn còn niềm tin vào cuộc chiến đấu của dân tộc. Bà dặn tôi đinh ninh rằng:” Bố ở chiến khu, vẫn còn việc bố, mày có viết thư chớ kể này kể nọ, cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”. Rồi sớm rồi chiều bà lại nhóm bếp lửa lên, nhóm lên tình bà thắm thiết, nhóm lên niềm tin dai dẳng của bà vào cuộc sống, vào tương lai của đất nước.

Ngày qua ngày bếp lửa vẫn được nhóm lên, nhóm lên niềm yêu thương ngọt bùi của khoai sắn, nhóm lên hương vị dẻo thơm của nồi xôi gạo mới sẻ chung vui, nhóm dậy cả tâm tình tuổi nhỏ. Ôi thật kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa! Bếp lửa kì lạ vì nó cháy lên trong mọi hoàn cảnh, dù nắng hay mưa, đói khát hay chiến tranh thì nó vẫn cháy lên. Nó chưa bao giờ tắt vì bất cứ lý do gì.

Bếp lửa thật thiêng liêng và mầu nhiệm, nó gắn liền với hình ảnh người bà đáng kính của tôi, nó cũng là hình ảnh cho hi vọng niềm chiến thắng của dân tộc tôi, cháy lên không bao giờ bị dập tắt, vẫn ấp iu nồng đượm, vẫn ấm áp đầy yêu thương. Giờ tôi đã đi xa, tiếp nhận được tri thức của nhân loại. Có ngọn khói trăm tàu, có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả. Nhưng không đâu bằng ngọn lửa của bà tôi, không niềm vui nào bằng những ngày ở cùng bà, bà ơi!

Nay tôi đang ở nơi đất khách quê người, nơi xa lạ, không người thân thiết làm tôi nhớ Tổ quốc, nhớ bà tha thiết. Ánh lửa lò sưởi bập bùng ngay trước mắt, nhưng không có mùi khói cay của bếp lửa bà tôi. Ôi bà ơi, con nhớ mùi khói cay và hình ảnh bếp lửa gắn bó với bà cháu mình, cháu chỉ muốn nhắc bà rằng : “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa”.

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa – Mẫu 4

“Đôi mắt càng già càng thấm thía yêu thương

Da dẻ dù khô đi tấm lòng không hẹp lại

Giàu kiên nhẫn bà còn hi vọng mãi

Chỉ mỗi ngày rắn lại ít lời thêm”

Đó là những vần thơ mà tôi muốn tặng cho người bà kính yêu của mình. Tôi đang là sinh viên ngành Luật ở nước Nga. Bây giờ đã là tháng 9, trời bắt đầu trở lạnh  làm tôi nhớ những kí ức về bà, bếp lửa mà ngày xưa tôi cùng bà nhóm bếp, cũng là một phần đã tạo nên tuổi thơ của tôi.

Tuổi thơ của tôi được sống bên bà, lúc đó nhóm lửa cùng bà vô cùng cực khổ và nhọc nhằn. Lên năm bốn tuổi , tôi đã quen với mùi khói. Tôi vẫn nhớ lúc ấy vào năm 1945, nạn đói xảy ra khủng khiếp đối với gia đình tôi cũng như bao gia đình ở Việt Nam. Cái cảnh mọi người làm việc kiếm miếng ăn thấy mà đau lòng. Số người chết vì đói cũng ngày càng tăng. Ba tôi đi đánh xe ngựa cực khổ con ngựa cũng gầy gò mà cái đói vẫn bám riết không tha, người dân cực khổ vô cùng.

Rồi vào những năm kháng chiến chống thực dân Pháp xảy ra, ba và mẹ tôi tham gia công tác kháng chiến nên tôi ở cùng bà. Tám năm tôi cùng bà nhóm lửa, hẳn là tuổi thơ tôi đã gắn liền với bếp lửa đó. Cái mùi bếp lửa cay cay, khiến mỗi lần tôi nhóm lửa nước mắt, nước mũi đều chảy .  Bà đã thay ba mẹ tôi nuôi dạy tôi nên người. Bà dạy tôi làm việc nhà, dạy tôi học, chăm sóc tôi với tình yêu thương vô vàn như một người mẹ .

Mỗi buổi sáng, bà đều làm đồ ăn để tôi dậy ăn. Bà làm việc này tới việc khác không nghỉ ngơi mà cũng không  than phiền hay trách móc gì cả. Cuộc đời bà đã đi qua bao nhiêu sóng gió nắng mưa, đã chịu nhiều cực khổ nên tôi không muốn phiền lòng bà nữa. Tôi đã lớn lên trong vòng tay yêu thương và bảo bọc của bà. Đôi lúc những khi rảnh rỗi bà còn thường kể chuyện tôi nghe rồi nhắn nhủ với tôi rằng: ” Con phải ráng học để xây dựng đất nước , nếu không thì đất nước mình chỉ mãi nghèo khổ thôi”.

Có những khi trời mưa làm cho củi ướt, lúc đó nhóm bếp khổ vô cùng. Mỗi khi tu hú kêu trên những cánh đồng, bà thường kể cho tôi nghe những chuyện ở Huế. Bà kể giọng rất truyền cảm , từng chữ từng lời nói của bà đều khác sâu trong lòng tôi. Tiếng tu hú kêu làm tôi và bà đều nhớ ba mẹ tôi ở chiến khu da diết. Càng lớn tôi càng cảm thấy thương bà, càng không muốn xa quê hương để bà khó nhọc.

Năm đó là nạn giặc tàn phá xóm làng, thiêu rụi nhà cửa, tài sản. Hàng xóm và bà cháu tôi đều chịu nhiều khổ cực, mất mát và đau thương. Cái hình ảnh đó đã ám ảnh hết một phần của tuổi thơ tôi. Sau những ngày rời khỏi quê nhà, thì hàng xóm và bà cháu tôi trở về lậm lụi. Tôi đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh nhỏ để sống qua ngày. Tôi thấy bây giờ cuộc sống cực khổ nên nói với bà: “Bà ơi hay là cháu viết thư cho ba mẹ nhé , để ba mẹ trở về để phụ bà”. Nhưng bà không chịu và nói nhỏ nhẹ với tôi rằng: “Ba mẹ ở chiến khu còn rất nhiều việc, nên mày có viết thư chớ kể này kể nọ , cứ bảo là gia đình vẫn bình yên là được rồi.

Tôi hiểu lòng bà nên chỉ vâng lời thôi ,và tôi càng thấy thương bà hơn, một mình bà gánh vác hết mọi công việc còn lo cho con ở chiến khu, tôi cảm thấy bà như một vị anh hùng giàu tình yêu thương và đức hi sinh. Nên mọi việc gì trong nhà tôi có thể làm được thì tôi liền giúp bà như: cho gà ăn, lấy củi, hái rau ,… dù những công việc đó nhỏ nhưng cũng giúp bà đỡ được phần nào. Những ngày mà bà làm việc nặng, tới tối tay chân bà mỏi thì đôi đấm bóp cho bà, cho bà dễ chịu.

Ngày qua ngày tôi cùng bà nhóm bếp lửa. Một ngọn lửa chứa niềm tin và hình ảnh của bà . Mấy chục năm rồi mà bà vẫn thức khuya dậy sớm trải qua mưa nắng cuộc đời, tảo tần chăm sóc tôi. Công việc của bà giản dị nhưng tôi vẫn biết ơn vô cùng như: bà nấu khoai, bà san sẻ tình làng nghĩa xóm. Bếp lửa đã cùng bà trải qua nắng mưa trong cuộc đời bà. Ôi bếp lửa giản dị nhưng riêng tôi cảm thấy đó là điều kì lạ thiêng liêng cao đẹp.

Bếp lửa còn là tình bà nồng ấm, bếp lửa gắn với những gian khổ, gian lao đời bà. Ngày ngày bà nhóm bếp lên, cũng giống như bà nhóm niềm vui niềm yêu thương dành cho tôi và mọi người . Bà không những là người nhóm lửa, mà còn là người truyền lửa truyền niềm tin cho mọi người .

Giờ đây tôi đã trưởng thành sống với những nơi có bếp gas, bếp điện. “Có ngọn khói trăm tàu, có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả “luôn hiện hữu trong tâm trí tôi với câu hỏi: “Mai này bà nhóm lửa lên chưa”. Ôi bếp lửa tình bà sao ấm áp đến như vậy ! Bếp lửa đã nuôi lớn tôi, giúp tôi trưởng thành như ngày hôm nay. Bây giờ tôi chỉ muốn về với bên bà, được bà kể chuyện, được bà chăm sóc yêu thương. Mỗi con người ai cũng đều có cội nguồn để trưởng thành. Vì thế mà tôi sẽ không bao giờ quên được cái hình ảnh người bà và bếp lửa đã nuôi dạy tôi trưởng thành như ngày hôm nay.

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa – Mẫu 5

Tháng chín tại Liên Xô khá lạnh, ngồi trong phòng nhìn ra ô cửa sổ, tuyết vẫn còn rơi. Tôi đi lại gần lò sưởi, hơi ấm từ ngọn lửa tỏa ra khiến tôi chợt nhớ về một bếp lửa nhỏ luôn chờn vờn trong sương sớm. Bỗng những ký ức của thời thơ ấu trở về như một thước phim quay chậm. Hình ảnh người bà ngày đêm tần tảo chăm sóc và nuôi lớn tôi từng ngày dần hiện rõ nét hơn bao giờ hết. À, nói đến đây chắc mọi người biết tôi là ai rồi, tôi là đứa cháu bé nhỏ trong tác phẩm “Bếp lửa” của Bằng Việt đây, hiện tại tôi đang là sinh viên học ngành Luật ở nước ngoài, hôm nay tôi bỗng nhớ về một tuổi thơ khó khăn, một cảm xúc gì đó không nói được bằng lời về người bà của mình.

Nhớ về mảnh ký ức có bà là những buổi sáng mặt trời chưa kịp lên thì đã thấy bà nhóm một bếp lửa cho một ngày mới, là một bếp lửa được bà nhen nhóm bằng cả tình yêu thương của mình, trong đó có chứa đựng sự kiên nhẫn, một hình ảnh bình dị nhưng lại luôn khắc sâu trong lòng tôi. Tuổi thơ của tôi vốn đã luôn gắn bó với bà, với bếp lửa nhỏ có sự cần cù, chịu khó và giàu đức tính hy sinh của bà. Và vì thế khi lên bốn tuổi, tôi đã quen với mùi khói. Tuy nhiên, đó cũng là quãng thời gian tối tăm nhất trong cuộc đời mà tôi sẽ chẳng thể nào quên được. Đấy là vào năm một nghìn chín trăm bốn mươi lăm, có một nạn đói khủng khiếp trên toàn nước Việt Nam, đây chính là một bóng đen vô tận bao trùm lên cuộc sống con người. Cái đói và tiếng khóc thương len lỏi vào từng ngóc ngách của mỗi một gia đình trên đất nước và gia đình tôi cũng không ngoại lệ. Bởi vì lẽ đó mà bố tôi phải làm thêm việc là đi đánh xe, đói đến nỗi con người còn không có cái ăn thì nói chi đến những con thú, cho nên bạn đồng hành của bố tôi là con ngựa cũng ốm khô rạc cả người. Một mảnh ký ức tôi muốn lãng quên đi, một mảnh tuổi thơ tôi chẳng nhớ gì ngoài những ngọn khói hun nhèm mắt tôi. Chẳng hay là khói bếp của bà hay những làn khói của bom đạn, của những đống tro tàn còn sót lại bởi những người đã qua đời vì nạn đói. Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay, nỗi sợ vẫn còn hiện hữu trong tâm trí tôi.

Ký ức tuổi thơ của tôi chính là tám năm ròng rã cùng bà nhóm lửa, là tiếng kêu của tu hú trên những cánh đồng quê vào mùa hè. Khi tiếng tu hú kêu, không biết bà có còn nhớ hay không, nhưng tôi lại nhớ rất rõ, nhớ về những lần gối đầu lên chân bà để nghe bà kể những câu chuyện khi bà còn ở Huế. Tiếng tu hú trong ký ức của tôi mang theo cảm giác tha thiết và khắc khoải đến lạ. Khiến nỗi nhớ của tôi về bà ngày càng to lớn, những kỷ niệm về bà ngày càng trở nên tươi đẹp hơn bao giờ hết. Thời gian trôi qua chiến tranh ngày càng khốc liệt, bố mẹ tôi nghe theo tiếng gọi của tổ quốc, cả hai người cùng nhau theo cách mạng kháng chiến. Bởi lẽ đó tôi lại được bà bảo bọc và nuôi lớn trong quãng thời gian tiếp theo của tuổi thơ. Tôi ở cùng bà, bà bảo tôi nghe những chuyện tốt nên làm, bà dạy tôi học từng con chữ mà bà biết, bà chăm tôi từ bữa ăn đến giấc ngủ. Bà không chỉ đơn giản là một người bà, mà còn là một người bố, người mẹ, người thầy và cũng là một người bạn. Cuộc sống của bà có nhiều sự khó nhọc, vất vả cả một đời vì con cháu, trước đó là nuôi dạy bố tôi nên người, bây giờ lại tiếp tục che chở và dạy bảo tôi. Bà trong tâm tôi chính là một người phụ nữ tần tảo vì gia đình, chịu khó cực nhọc mà không một lời oán than.

Chiến tranh vẫn chưa kết thúc, tiếng bom đạn vẫn còn inh ỏi khắp nơi. Vào một năm nọ đám giặc tàn ác đã đốt cháy cả ngôi làng mà bà cháu tôi ở. Khiến cho những người dân vô tội vốn đã khổ vì nghèo đói lại càng thêm lam lũ hơn rất nhiều. Ấy vậy mà bà vẫn chở che tôi an toàn đi qua khó khăn đó, khi trở về bà nắm chặt tay tôi. Cảnh tình trước mắt chúng tôi vô cùng hoang tàn, là một đổ nát chẳng còn lại gì. Cũng may có hàng xóm tốt, giúp bà dựng lại túp lều tranh để ở tạm. Cũng vào đêm hôm đó, khi bà thấy tôi đang viết một lá thư gửi cho bố, bà vẫn vững lòng dặn đinh ninh tôi rằng: “Bố ở chiến khu, bố còn việc bố. Mày có viết thư thì chớ kể này kể nọ khiến bố bây lo lắng. Cứ bảo là nhà vẫn được bình yên!”

Khi đó tôi đã luôn thắc mắc, tại sao bà lại cam chịu đến vậy, không một lời oán trách, không một lời than vãn. Đến giờ mới hiểu, hóa ra là vì bà muốn bố tôi yên tâm công tác, bà muốn tổ quốc nhanh chóng được độc lập và tự do. Nước mắt chợt lăn dài trên má mà tôi lại chẳng hiểu vì sao, có lẽ là sự kính trọng của tôi dành cho bà bỗng trở nên to lớn hơn rất nhiều. Nghĩ lại thì dù là sáng sớm hay chiều tối muộn, bà vẫn nhen nhóm một bếp lửa, có một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn, một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng về một tương lai tốt đẹp hơn, về tấm lòng của bà luôn dành cho đất nước.

Bà đã trải qua bao lần dầm mưa dãi nắng, cuộc đời phải chiều nhiều sự vất vả. Bà đã luôn tần tảo lo toan vì con cháu, đảm đang và giàu đức hy sinh. Bà vẫn luôn giữ thói quen dậy sớm, đã mấy chục năm rồi đến tận bây giờ. Vẫn luôn dậy sớm để nhóm một bếp lửa nhỏ, một bếp lửa được bà nhóm bằng tất cả tình yêu thương mình có. Bếp lửa ấy chứa đựng bao niềm yêu thương. Là những củ sắn củ khoai bà lấm lem đào được cho tôi, ngọt bùi đến lạ. Là nồi xôi gạo tuy ít nhưng lại đong đầy tình làng nghĩa xóm khi được bà chia sẻ cho mọi người trong làng. Bếp lửa của bà sao mà thiêng liêng và kỳ lạ đến thế, có thể nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ, chính tôi đã sống với nó cả một quãng thời gian dài cũng không thể hiểu hết được. Sau này tôi đã trưởng thành hơn, có con đường riêng của mình nên tôi bắt buộc phải đi xa, xa ngọn lửa ấm áp của bà, xa người bà yêu dấu của bản thân. Nơi chân trời mới của tôi không chỉ còn ngọn khói từ bếp lửa của bà, còn có ngọn khói từ trăm con tàu trên biển, có triệu niềm vui ở khắp mọi nơi. Tuy vậy, bản thân tôi vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở: “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa”

Qua những mảnh ký ức của tuổi thơ, tôi cảm thấy bản thân thật may mắn khi có một người bà như vậy. Dù bây giờ tôi đã ở xa bà hàng nghìn ki-lô-mét, nhưng trong lòng thì luôn nhớ đến bà, luôn kính trọng và yêu thương bà và cũng là nhớ về một quê hương thân yêu. Tôi muốn gửi vài lời nhắn nhủ đến các bạn, cho dù là ở đâu hay bất kỳ quãng thời gian nào đi nữa, thì gia đình, người thân của chúng ta sẽ luôn muốn ta hạnh phúc, có một cuộc sống an nhiên và sẽ luôn bảo bọc yêu thương ta. Chỉ mong các bạn sẽ trân trọng những khoảnh khắc vô cùng đáng quý khi ở bên gia đình, để sau này sẽ chẳng có hối hận gì, cũng sẽ không như tôi, lúc muốn ôm bà vào lòng nhất lại chẳng thể làm được…

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa – Mẫu 6

Mùa đông nước Nga tuyết phủ trắng xóa. Đêm lạnh như cắt da cắt thịt, ngồi bên lò sưởi, hơ bàn tay ấm, nhìn ánh lửa lắc lử, tôi chợt nhớ đến bà và quê hương da diết.

Tuổi thơ của tôi được sống bên bà, lúc đó nhóm lửa cùng bà vô cùng cực khổ và nhọc nhằn. Lên năm bốn tuổi , tôi đã quen với mùi khói. Tôi vẫn nhớ lúc ấy vào năm 1945, nạn đói xảy ra khủng khiếp đối với gia đình tôi cũng như bao gia đình ở Việt Nam. Cái cảnh mọi người làm việc kiếm miếng ăn thấy mà đau lòng. Số người chết vì đói cũng ngày càng tăng. Ba tôi đi đánh xe ngựa cực khổ con ngựa cũng gầy gò mà cái đói vẫn bám riết không tha, người dân cực khổ vô cùng.

Rồi vào những năm kháng chiến chống thực dân Pháp xảy ra, ba và mẹ tôi tham gia công tác kháng chiến nên tôi ở cùng bà. Tám năm tôi cùng bà nhóm lửa, hẳn là tuổi thơ tôi đã gắn liền với bếp lửa đó. Cái mùi bếp lửa cay cay, khiến mỗi lần tôi nhóm lửa nước mắt, nước mũi đều chảy . Bà đã thay ba mẹ tôi nuôi dạy tôi nên người. Bà dạy tôi làm việc nhà, dạy tôi học, chăm sóc tôi với tình yêu thương vô vàn như một người mẹ .

Mỗi buổi sáng, bà đều làm đồ ăn để tôi dậy ăn. Bà làm việc này tới việc khác không nghỉ ngơi mà cũng không than phiền hay trách móc gì cả. Cuộc đời bà đã đi qua bao nhiêu sóng gió nắng mưa, đã chịu nhiều cực khổ nên tôi không muốn phiền lòng bà nữa. Tôi đã lớn lên trong vòng tay yêu thương và bảo bọc của bà. Đôi lúc những khi rãnh rỗi bà còn thường kể chuyên tôi nghe rồi nhắn nhủ với tôi rằng: ” Con phải ráng học để xây dựng đất nước , nếu không thì đất nước mình chỉ mãi nghèo khổ thôi”.

Có những khi trời mưa làm cho củi ướt, lúc đó nhóm bếp khổ vô cùng. Mỗi khi tu hú kêu trên những cánh đồng, bà thường kể cho tôi nghe những chuyện ở Huế. Bà kể giọng rất truyền cảm , từng chữ từng lời nói của bà đều khác sâu trong lòng tôi. Tiếng tu hú kêu làm tôi và bà đều nhớ ba mẹ tôi ở chiến khu da diết. Càng lớn tôi càng cảm thấy thương bà, càng không muốn xa quê hương để bà khó nhọc.

Năm đó là nạn giặc tàn phá xóm làng, thiêu rụi nhà cửa, tài sản. Hàng xóm và bà cháu tôi đều chịu nhiều khổ cực, mất mát và đau thương. Cái hình ảnh đó đã ám ảnh hết một phần của tuổi thơ tôi . Sau những ngày rời khỏi quê nhà, thì hàng xóm và bà cháu tôi trở về lầm lụi. Tôi đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh nhỏ để sống qua ngày. Tôi thấy bây giờ cuộc sống cực khổ nên nói với bà: “Bà ơi hay là cháu viết thư cho ba mẹ nhé , để ba mẹ trở về để phụ bà”. Nhưng bà không chịu và nói nhỏ nhẹ với tôi rằng: “Ba mẹ ở chiến khu còn rất nhiều việc, nên mày có viết thư chớ kể này kể nọ , cứ bảo là gia đình vẫn bình yên là được rồi.

Tôi hiểu lòng bà nên chỉ vâng lời thôi ,và tôi càng thấy thương bà hơn, một mình bà gánh vác hết mọi công việc còn lo cho con ở chiến khu, tôi cảm thấy bà như một vị anh hùng giàu tình yêu thương và đức hi sinh. Nên mọi việc gì trong nhà tôi có thể làm được thì tôi liền giúp bà như: cho gà ăn, lấy củi, hái rau ,… dù những công việc đó nhỏ nhưng cũng giúp bà đỡ được phần nào. Những ngày mà bà làm việc nặng, tới tối tay chân bà mỏi thì đôi đấm bóp cho bà, cho bà dễ chịu.

Ngày qua ngày tôi cùng bà nhóm bếp lửa. Một ngọn lửa chứa niềm tin và hình ảnh của bà . Mấy chục năm rồi mà bà vẫn thức khuya dậy sớm trải qua mưa nắng cuộc đời, tảo tần chăm sóc tôi. Công việc của bà giản dị nhưng tôi vẫn biết ơn vô cùng như: bà nấu khoai, bà san sẻ tình làng nghĩa xóm. Bếp lửa đã cùng bà trải qua nắng mưa trong cuộc đời bà. Ôi bếp lửa giản dị nhưng riêng tôi cảm thấy đó là điều kì lạ thiêng liêng cao đẹp.

Bếp lửa còn là tình bà nồng ấm, bếp lửa gắn với những gian khổ, gian lao đời bà. Ngày ngày bà nhóm bếp lên, cũng giống như bà nhóm niềm vui niềm yêu thương giành cho tôi và mọi người . Bà không những là người nhóm lửa, mà còn là người truyền lửa truyền niềm tin cho mọi người .

Giờ đây tôi đã trưởng thành sống với những nơi có bếp gas, bếp điện. “Có ngọn khói trăm tàu, có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả “luôn hiện hữu trong tâm trí tôi với câu hỏi: “Mai này bà nhóm lửa lên chưa”. Ôi bếp lửa tình bà sao ấm áp đến như vậy ! Bếp lửa đã nuôi lớn tôi, giúp tôi trưởng thành như ngày hôm nay. Bây giờ tôi chỉ muốn về với bên bà, được bà kể chuyện, được bà chăm sóc yêu thương. Mỗi con người ai cũng đều có cội nguồn để trưởng thành. Vì thế mà tôi sẽ không bao giờ quên được cái hình ảnh người bà và bếp lửa đã nuôi dạy tôi trưởng thành như ngày hôm nay.

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa ngắn gọn hay nhất
Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa ngắn gọn hay nhất

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa – Mẫu 7

Tôi vẫn nhớ nhà thơ Nguyễn Duy đã từng viết:

“Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá

níu váy bà đi chợ Bình Lâm

bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật

và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần”

Dường như trong kí ức tuổi thơ của bao đứa trẻ, những tháng năm vô lo vô nghĩ bên người bà luôn là quãng thời gian êm đềm và thân thương nhất. Vượt qua bao sự thăng trầm trong cuộc đời và sàng lọc của thời gian, những kỉ niệm mộc mộc ấy về bà vẫn đọng lại trong miền nhớ của biết bao tâm hồn, nó đưa ta về với khoảng trời xưa cũ bình dị mà an nhiên tự tại thuở niên thiếu. Với riêng tôi, có lẽ kỉ niệm về bà bên bếp lửa bập bùng mỗi sớm mai luôn đi về trong cõi nhớ của tôi trên những chặng đường mà tôi trải qua. Nỗi nhớ ấy lại càng cồn cào da diết hơn trong những năm tháng sống xa xứ, đón những đợt gió tuyết nơi xứ sở Bạch Dương. Trong những phút giây tĩnh lặng,mỗi khi nhìn làn khói của những ngôi nhà phía xa kia , cả một trời nhớ thương  trong tôi lại ùa về , về bà về bếp lửa hồng sưởi ấm cả tuổi thơ tôi, về hương vị quê nhà…

Theo dòng hoài niệm, kí ức đưa tôi về với những đêm đen của cái đói mòn đói mỏi  năm 1945. Ngôi làng nhỏ nơi tôi sinh sống , nhà nào cũng rơi vào cảnh đói thê thảm. Trong những năm tháng cơ cực ấy , để giành giật lấy sự sống ngày một thoi thóp , bố tôi phải lên phố xe thuê rạc cả người, dẫu vậy cũng chỉ đủ để rau cháo cầm hơi mà sống qua ngày. Cái đói nghèo cùng cực của năm Ất Dậu ấy như một nỗi ám ảnh  trong tâm hồn non nớt của đứa trẻ bốn tuổi lúc đó.  Chính mùi khói bếp của bà đã mang đến cho tôi những hơi ấm , sự an lòng  và xua đi cái mùi tử khí tràn ngập quanh ngõ xóm thôn nghèo. Thứ hương thơm dung dị như nhen lên từ tình yêu nồng hậu của bà đã sưởi ấm cho tôi trong suốt thuở thiếu thời để rồi sau này trên mỗi hành trình dài và rộng mà tôi qua , mùi khói bếp ấy vẫn làm tôi cay cay sống mũi mỗi khi hồi tưởng lại. Những năm tháng sau đó khi kháng chiến bùng nổ, bố mẹ tôi thoát ly gia đình đi làm cách mạng, lên đường theo tiếng gọi của Tổ Quốc.  Suốt tám năm trời đằng đẵng tôi sống trong sự đùm bọc chở che của bà, bên bóng dáng tảo tần của bà và bên bếp lửa hồng bà nhen lên mỗi sớm chiều. Những năm tháng thơ bé ấy, bên cạnh bà cháu tôi , bên cạnh bếp lửa vẫn còn một nhân chứng mà tôi chẳng thể nào quên đó là chim tu hú. Tiếng hót của nó nghe sao mà chơ vơ lạc lõng như khao khát được che chở ấp iu đến vậy. Tiếng tu hú khắc khoải như xé tan cả khoảng không gian mênh mông buồn vắng, thương con chim tu hú bất hạnh biết bao nhiêu tôi càng biết ơn và trân trọng những ngày tháng tuổi thơ hạnh phúc được bà chăm chút , bảo bọc bấy nhiêu. Bên bếp lửa bập bùng, tôi được nghe bà trải lòng về cuộc đời bà những tháng năm còn ở Huế. Một cuộc đời đầy truân chuyên và cùng cực. Bà gửi những hi vọng , ước mong về một tươi lai tươi sáng hơn trong tôi. Rồi cũng ở bếp lửa nơi góc bếp,bà chăm tôi từng bữa ăn giấc ngủ và là người thầy đầu tiên dạy tôi những bài học quý giá trong cuộc đời. Những bài học làm người cao đẹp ấy đã trở thành một điểm tựa vững chắc chắp cánh cho những giấc mơ cao đẹp trong cuộc đời . Thứ ánh lửa ấm áp nồng nàn ấy mang đến cho tầm hồn tôi một sự an ủi trong những ngày tháng sống thiếu tình cảm của cha mẹ, bà như điểm tựa tinh thần cho tôi vững bước.  Cuộc sống vẫn vậy, vẫn khắc nghiệt và luôn muốn thử thách bản lĩnh của con người. Đến một ngày tiếng súng, tiếng bom của cuộc chiến tranh khắc nghiệt giội về làng tôi. Trước họng súng và ngòi nổ hủy diệt của quân địch, ngôi làng tôi lúc đó là một đống tro tàn, nhà cửa của mọi người đều hoàn toàn cháy rụi. Tôi biết lúc đó bà đang nuốt ngược nỗi đau và nước mắt vào trong. Nơi chốn nương thân của hai bà cháu tôi không còn, nhưng nghị lực và ý chí thép được tôi luyện trong những năm tháng bể dâu của cuộc đời không cho phép bà tôi gục ngã buông xuôi. Bà cứng rắn dắt tôi vượt qua hoàn cảnh ngặt nghèo. Tôi hiểu rằng những thiếu thốn, cơ cực mà tôi mới trải qua không thể nào đong đếm được với những gian khó , nhọc nhằn và nỗi nhớ thương con nơi chiến trường đỏ lửa đều phải nén lại vào trong của bà. Và rồi đâu rồi cũng vào đó , nhờ vào tình làng nghĩa xóm mà bà cháu tôi cũng dựng được căn nhà nhỏ trên nền đất cũ năm nào. Bà đã nhóm lên trong tôi ý chí và nghị lực sống trong cuộc đời này . Thật kì diệu bởi tôi tin rằng những gì bị thiêu cháy trong ngọn lửa hung tàn kia đã được hồi sinh trong bếp lửa của bà. Cứ thế  tuổi thơ tôi được bà che chở qua bao tháng năm. Chính ngọn lửa của lòng bà đã nhóm lên ngọn lửa bền bỉ , trường tồn theo dọc thời gian của bếp lửa kia.

Tháng năm làm tôi lớn lên và trưởng thành, những hoài bão đưa bước chân tôi đến với những chân trời xa nhưng chẳng thể nào tôi quên được ngọn lửa hồng nơi góc bếp bởi nơi đó có tình yêu thương và đức hi sinh lặng thầm của người bà mà tôi dành cả cuộc đời mình để biết ơn và trân trọng, cũng chính tại nơi đó bà nhen nhóm lên trong tôi những ước mơ về một cuộc đời mới. Nếu những câu chuyện cổ tích là người bạn của bao tâm hồn thơ bé, thì bà chính là người viết lên câu chuyện cổ tích giữa cuộc đời này cho riêng tôi. Trong câu chuyện ấy là ánh lửa bập bùng sớm tối, là tình yêu nồng hậu của bà , là mùi nếp mùi sắn thơm hương, của quê hương xứ sở , và luôn là nơi mà tôi thuộc về…

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa – Mẫu 8

Trong mỗi chúng ta, có lẽ kỉ niệm tuổi ấu thơ bao giờ cũng là những trang kí ức sâu đậm nhất. Đó có thể là kỉ niệm về làng quê thân thương, hay cũng có thể là kỉ niệm về tuổi học trò. Những kỉ niệm ấy như ăn sâu vào tiềm thức của chúng ta, khiến ta khó lòng mà quên được. Đối với tôi cũng vậy !

Tuổi thơ về người bà thân thương gắn liền với bóng đen ghê rợn của nạn đói năm Ất Dậu, đó trở thành dấu ấn sâu đậm nhất trong lòng tôi. và trong nỗi nhớ ấy, lòng tôi đã dấy lên một niềm xúc động khi những dòng kí ức ấy ùa về.

Đối với bản thân tôi “bếp lửa chờn vờn sương sớm”, “bếp lửa ấp iu nồng lượm” đã trở thành một hình ảnh gần gũi, quen thuộc trong gia đình nông thôn chúng tôi. Bếp lửa là nơi bắt đầu nỗi nhớ da diết của tôi. Trong dòng cảm xúc dạt dào ấy, bếp lửa đã trở thành một kỉ niệm khó phai. Bếp lửa thể hiện sự tần tảo của bà mà còn thắp lên tình thương yêu sâu sắc của hai bà cháu.

Từ năm lên bốn tuổi, tôi đã quen với mùi khói mà bà nhóm lên. Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi và hình ảnh bếp lửa đã trở nên không thể thiếu trong đời tôi. Để bây giờ nhớ lại tôi lại cảm thấy cay xè sống mũi. Bếp lửa thiêng liêng trở thành một dấu ấn, một nỗi nhớ, nỗi ám ảnh sâu sắc trong cuộc đời tôi.

Tám năm ! một quãng thời gian không dài cũng không ngắn nhưng đủ để nhen nhóm trong lòng tôi một ngọn lửa tình yêu cháy bỏng dành cho người bà. Bếp lửa của quê hương, của sự yêu thương gợi lên tiếng chim tú hú như giục giã nghe sao mà da diết quá !

Trong khoảng thời gian chiến tranh, tôi sống trong sự cưu mang, dạy dỗ của bà. Bếp lửa hiện lên như tình bà ấm áp, như chỗ dựa tinh thần, như sự đùm bọc châm chút của bà. Bên bếp lửa, bà kể tôi nghe những câu chuyện còn ở Huế, bà dạy, bà bảo, bà chăm chút tôi.

Giặc đi, ai ai cũng bị mất mát rất nhiều, tuy nhiên mọi người vẫn giúp đỡ nhau dựng cho nhau những túp lều. Bà âm thầm chịu dựng để bố mẹ tôi yên tâm công tác nơi phương xa. Vất vả chồng lên vất vả, gian truân nối tiếp gian truân, nhưng bà vẫn dặn tôi đinh ninh ” Bố ở chiến khu, bố còn việc bố, mày viết thư chớ kể này, kể nọ, cứ bảo nhà vẫn bình yên ” Ôi chao ! khi nghĩ lại lời dặn ấy thật mộc mạc, bình dị nhưng lại chất chứa trong ấy biết bao tâm tình, biết bao đau khổ cuộc đời bà

Khi nhớ lại, nỗi kỉ niệm ấy lại dâng lên thêm. Tôi lại suy ngẫm về cuộc đời tần tảo của bà, cuộc đời luôn cặm cụi làm việc. Bà vẫn luôn giữ thói quen dậy sớm nhóm lửa và công việc ấy kéo dài suốt cuộc đời bà, bà nhóm lửa cho hôm nay, cho ngày mai và đến mãi mai sau,… Bà nấu cho tôi những bữa ăn trông thật đơn giản nhưng lại chất chứa trong đó tình cảm sâu đậm của bà. Và chính bà là người khơi dậy ước mơ, khát vọng tuổi thơ của tôi.

Ngọn lửa mà bà nhen nhóm cả một đời người là ngọn lửa thiêng liêng và kì lạ, là kỉ niệm nâng bước tôi trong cuộc đời dài. Bà tôi không chỉ lag người nhóm lửa mà còn là người truyền lửa – ngọn lửa của sự sống, tình yêu thương, niềm tin cho bao thế hệ. Bếp lửa có lẽ trở thành một biểu tượng của sự sống của niềm yêu thương và cội nguồn, gia đình, đất nước, là sự sống bền bỉ của con người

Không chỉ như vậy, hiện diện cùng bếp lửa là người bà, cũng là tiêu biểu cho hình ảnh người phụ nữ Việt Nam với vẻ đẹp tần tảo, nhẫn nại và đầy yêu thương. Bà là người giàu đức hi sinh, giàu lòng yêu nước. Giữa tro tàn, mất mát đau thương, bà vẫn miệt mài nhóm lửa. Bếp lửa mà bà vẫn thường nhóm sớm sớm chiều chiều đã dâng lên thành ngọn lửa trong lòng bà.

Những nỗi nhớ về bà khép lại trông sự buồn man mác của tôi. Tôi rất nhớ, rất nhớ về tình yêu thương của bà, bếp lửa thiêng liêng và quê hương nồng nàng, tha thiết của tôi. Vì vậy, tôi càng trân trọng những tình cảm tôi đang có. Bếp lửa như lời nhắc nhở tôi về cội nguồn, nghĩa tình thiêng liêng, sâu nặng trong cuộc sống.

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa – Mẫu 9

“Tách, tách, tách…” – Tiếng lửa cháy giữa cái thời tiết giá buốt giữa đất nước Liên Xô càng khiến những người xa xứ như tôi thêm tha thiết. Nó dâng lên trong tôi nỗi nhớ nhà, nhớ cha mẹ và đặc biệt là người bà thân thương và bếp lửa mà bà nhóm lên.

Cứ mỗi sớm mai thức dậy, bếp lửa quen thuộc của căn nhà tôi cũng như bao gia đình khác trên đất nước Việt Nam lại được nhóm lên bằng đôi bàn tay khéo léo của bà tôi cho dù phải trải qua bao nhiêu khó khăn vất vả. Bây giờ nhớ lại, hình ảnh ngọn lửa bập bùng, chờn vờn trong sương sớm lại làm tôi nhớ đến bà, thương bà nhiều hơn.

Theo dòng hoài niệm, bếp lửa còn gợi nhắc con tôi thời kì khủng khiếp nhất đời mình- nạn đói năm 1945. Cái đói mòn mỏi đã đeo bám không chỉ gia đình tôi mà còn hang triệu người khác trên đất nước. Trong lúc ấy, vì để giành lấy sự sống thoi thóp mà bố tôi phải đi đánh xe ngựa thuê đến khô rạc cả người. Cái đói khổ ấy đã ám ảnh vào trí nhớ của cậu bé bốn tuổi như tôi, và tôi cứ nghĩ mình đã chết. Nhưng không, chính mùi khói bếp của bà đã mang cho tôi sự ấm áp duy nhất, xua đi những ý nghĩa tiêu cực trong tôi. Thứ hương thơm dung dị ấy đã cho tôi thấy tình yêu nồng hậu của bà và sưởi ấm tâm hồn của tôi để mai này, trên hành trình dài dăng dẳng của cuộc đời, cứ mỗi lần tôi nhớ lại là một lần sống mũi tôi cay cay.
Sau này, thực dân Pháp trở lại xâm lược đất nước, kháng chiến bùng nổ, bố mẹ đi theo tiếng gọi của Tổ quốc mà rời khỏi gia đình. Suốt tám năm trời đó, tôi sống cùng bà, sống cùng sự đùm bọc và cả tiếng tu hú. Bên bếp lửa hồng, mỗi khi tiếng tu hú kêu thì bà lại kể cho tôi nghe những ngày ở Huế. Tiếng tu hú kêu làm cả tôi và bà dậy lên nỗi nhớ cha mẹ ở chiến khu. Được sống trong tình yêu thương của bà càng khiến tôi thấy thương con tu hú cô độc ngoài đồng xa. Bà phải trải qua những khó khăn vất vả nhưng vẫn giữ thói quen dậy sớm. Bếp lửa bà nhóm thiêng liêng, kì lạ.

Rồi cũng ở nơi bếp lửa ấy, bà dạy tôi làm, bà chăm tôi học. Những bài học làm người cao đẹp ấy đã trở thành nguồn động lực chắp cánh cho những giấc mơ cao đẹp trong cuộc đời tôi. Có bà, tôi như có điểm tựa vững chắc cho cuộc đời trong những ngày tháng thiếu cha mẹ bên cạnh. Thế nhưng, cuộc sống luôn thích thử thách con người, năm ấy, giặc đốt làng cháy rụi. Nhà của bà cháu tôi cũng như nhiều gia đình biến thành những đống tro. Tôi thấy và tôi biết được bà lặng lẽ lau giọt nước mắt, vuốt ngược nỗi đau vào trong. Và đến mãi bây giờ, tôi mới hiểu được hành động của bà, bởi nơi dung thân của chúng tôi không còn, nhưng ý chí và nghị lực của bà không cho phép bà gục ngã. Và đó là lí do bà vực tôi dậy, dắt tôi qua những khó khăn gian khổ. Lúc ấy, tôi hiểu rằng, ngần ấy những khó khăn tôi trải qua nào đong đếm được với những cùng cực của bà. Vì thương tình, làng xóm dựng cho hai bà cháu túp lều tranh. Tôi tin rằng, ngọn lửa ấy không thiêu cháy chúng tôi, mà đang hồi sinh niềm tin của chúng tôi. Vẫn vững lòng bà dặn tôi rằng:

– Bố mày ở chiến khu còn nhiều việc phải lo, phải nghĩ. Chớ có viết thư kể này, kể nọ. Cứ bảo nhà vẫn được bình yên.

Tôi đáp lại:

– Cháu biết rồi ạ!

Bà tôi là thế đấy. Bà dù nghèo khổ khó khăn nhưng vẫn nghĩ cho con cháu, là hậu phương vững chắc cho con (Chắc hẳn, trên quê hương này của tôi, đã rất nhiều hậu phương tinh thần như vậy).

Rồi sớm rồi chiều, bếp lửa từ đôi tay bà bừng cháy lên. Một ngọn lửa từ trong lòng bà luôn ủ sẵn. Nó cháy lên mọi lúc. Nó dai dẳng cháy mãi như niềm tin bất diệt của bà. Bà đã truyền ngọn lửa ấy cho tôi, đốt lên trong tôi một ngọn lửa ấm áp. Đó là ngọn lửa yêu nước. Đó là ngọn lửa đấu tranh, ngọn lửa của niềm tin và khát vọng đến tương lai. Và bà không chỉ là người nhóm nó lên, mà còn là người truyền sức mạnh cho nó nữa.

Giờ đây, tôi đã lớn, được đến những nơi rộng lớn và hiện đại nhưng trong tiềm thức không lúc nào không hỏi: “Sớm mai này bà nhóm bếp lửa lên chưa?”

Bếp lửa ấy nồng ấm làm sao! Bếp lửa ấy chắc hẳn đã nâng đỡ để những người xa xưa như tôi vững tin nơi xứ người. Và cũng từ đó mà tôi luôn dặn mình rằng hãy kính yêu trân trọng và biết ơn gia đình, quê hương, đất nước – cái nôi của niềm tin, khát vọng và tương lai.

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa – Mẫu 10

Bao nhiêu năm xa quê hương, xa bà, xa miền quê yêu dấu nhưng tôi vẫn không thể nào quên được những thánh năm tuổi thơ, có bà bên bếp lửa ấm. Dường như cái rét cắt da thịt của mùa đông nước Nga khiến tôi hồi tưởng về ký ức khi ấy.

Năm tôi lên bốn, tức là năm 1945, đất nước đang lâm vào một nạn đói khủng khiếp, khi ấy cuộc sống khó khăn rất nhiều. Bố mẹ tôi phải ra ngoài kiếm tiền, tôi được bà chăm sóc. Tôi còn nhớ khi ấy nhà nhà ai cũng đói, cả người lẫn ngựa đều gầy. Người chết vì đói cũng không ít, thế nên người dân phải đót rơm để trừ tử khí, đốt nhiều đến nỗi khói hun nhèm mắt, tới giờ vẫn còn cay. Dù vậy tôi cùng bà cũng không bỏ cuộc, chúng tôi ngồi bên ngọn lửa như có một hy vọng, dù không lớn nhưng vẫn sống mãnh liệt.

Bố mẹ tôi đi theo tiếng gọi Tổ Quốc, giao tôi cho bà giữ. Tám năm ròng tôi cùng bà nhóm lửa, dù có khổ đến mấy, bà vẫn ngày ngày thắp lên ngọn lửa như thấp lên mỗi niềm hy vọng. Tôi ngồi trông những đàn chim tu hú hót tha thiết ngoài cánh đồng, tôi chỉ muốn nó rằng: ” Tu hú ơi sao chẳng ở cùng bà?”. Tôi từ nhỏ đã quen cái hơi thân thuộc của bà. Cùng bà dậy sớm để cùng thắp lên “hy vọng” dần dần đã trở thành niềm vui nho nhỏ của tôi.

Tôi vẫn nhớ những câu chuyện khi ấy của bà. Bà thường hay kể những ngày ở Huế cho tôi nghe, dù bà có kể bao nhiêu tôi vẫn không thấy chán. Được áp đầu nằm lên đùi bà, được những ngón tay ấm áp của bà luồn qua khe tóc, nằm nghe những câu chuyện cùng với hơi ấm của bếp lửa và tất nhiên là với bà cũng đủ làm cho tôi hạnh phúc.

Bố mẹ đi xa, bà tôi thay bố mẹ dạy tôi nhiều việc, bà lo cho tôi ăn học, lo cho tôi ăn uống, chăm sóc tôi, khuyên răn tôi những việc sai. Khi lớn lên tôi mới nhận ra, bà thương tôi, lo cho tôi không có đủ tình thương, bà cố gắng đảm nhiệm là một người bố, người mẹ và là một người thầy để lo cho tôi. Dù khó khăn bà cũng chỉ để tôi thấy một nụ cười hiền hòa. Nhớ đến đây, hai gọt lệ lăn dài trên má tôi…

Bình yên là thế cho đến khi…. Năm đó, giặc đốt làng cháy rụi. Tôi cùng bà đi trốn. Khi mọi việc kết thúc, bà nắm chặt tay tôi đi từng bước run rẩy vào làng, mọi thứ trước mắt tôi thật hoang tàn. Tôi có thể nghe được cả tiếng khóc than của người dân. Chúng tôi về tới ngôi nhà tranh của mình, nó đã bị đổ xuống nhưng may là các bác hàng xóm đã giúp chúng tôi dựng lại được. Đêm ấy, ngồi bên bà, chợt bà bảo tôi: ” Mày có viết thư cho bố thì đừng kể này kể nọ, cứ bảo là chúng ta vẫn bình yên. Đừng để bố bây lo.”

Chính là thế, dù có ra sao bà tôi vẫn gắng gượng. Người phụ nữ ấy là niềm tự hào to lớn của tôi, bà không bao giờ than vãn, hay tỏ ra mệt mỏi, tôi biết bà đang cố gắng giữ cho tôi luôn lạc quan. Dù sớm dù chiều, dù đã qua mấy chục năm, bà vẫn luôn thắp lên bếp lửa ấp iu ấy. Ngọn lửa được bà dành chọn tất cả niềm thương yêu của mình. Chính bếp lửa ấy là nơi có khoai sắn ngọt bùi, nồi xôi gạo sẻ chia và những tâm tình tuổi thơ. Tôi hiểu lòng bà, vì sao bà lại nhóm lửa, tôi hiểu rằng bà đang hy vọng, ngọn lửa bà thắp như là một niềm tin đất nước sẽ chiến thắng, sẽ bình yên. Bà dành cả đời mình chỉ để hy vọng niềm tin hạnh phúc của bà có thể thành hiện thực.

Dù tôi đang ở nơi xa Tổ Quốc, cho dù tôi không thể ở cùng bà, dù tôi đang thấy những điều mới lạ. Tôi vẫn không quên hình ảnh người bà thân thường cùng bếp lửa thắp lên niềm tin của tôi. Tôi tin bà vẫn luôn ở đây, đang thắp lên ngọn lửa ấm áp trong lồng tôi. “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?.”

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa – Mẫu 11

Nhận được thư nhà tôi vui sướng vô cùng. Ngồi bên lò sưởi, giở đọc bức thư, lòng tôi lại nhớ đến quê hương tha thiết. Mùa đông châu Âu giá rét căm căm. Căn lò sưởi lửa cháy bừng bừng nhưng vẫn không đủ ấm. Ánh sáng chói gắt và hơi ấm phả vào mặt khiến tôi chợt nhớ về bếp lửa hắt hui và hình bóng bà tôi năm xưa. Nỗi nhớ ngập tràn chiếm lĩnh hồn tôi, bâng khuân đến lạ. Hình ảnh bếp lửa hiu hắt, chờn vờn trong sương sớm và người bà hiền hậu, tảo tần sớm hôm hiện về trong trí nhớ xa mờ. (Đóng vai người cháu)

Tôi sinh ra giữa thời đói khổ cùng cực. Chính sách bóc lột tàn tệ của thực dân Pháp khiến cho đất nước kiệt quệ, người nông dân khốn khổ không sao kể xiết. Đất nước rơi vào bóng tối của cuộc khủng hoảng. Cuộc sống trở nên bế tắc. Một cảnh sống bức bối, ngột ngạt phủ khắp mặt đất.

Tôi không còn nhớ rõ tôi đã lớn lên như thế nào. Kí ức xa xăm và rõ ràng nhất là năm tôi lên bốn tuổi. Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi. Hết thiện tai, hạn hán lại đến đại dịch, sản xuất liên tục bị mất mùa, thất thu. Cái đói như bóng ma, lạnh lùng len lỏi trong mọi gia đình. Đâu đó xung quanh, thỉnh thoảng vẳng nghe tiếng khóc tiễn người đi. khói rấm um lên khắp cả làng, phủ trùm một không khí thương tang.

Bố đi đánh xe khô rạc cả ngựa gầy. Có khi bố đi nhiều ngày mới về. Còn mẹ tảo tần trên đồng dưới ruộng, sớm đi tối về để lo cuộc sống mưu sinh. Bà tôi tuổi già sức yếu ở nhà chăm nom tôi. Quẩn quanh chỉ có tôi và bà. bà đi đâu tôi thoe đấy. bà làm gì, tôi cũng đứng cạnh. Tôi sợ hãi với những thứ có ở xung quanh. Bởi nó điêu tàn và im lặng đáng sợ.

Nhớ nhất là những lần cùng bà nhóm lửa, những làn cùng bà ngồi bên bếp lửa ấm. Khói bếp cuộn cay xè cả hai con mắt, cứ chớp lia lịa, rồi thở, nước mắt, nước mũi ròng ròng chảy. Cho đến bây giờ, mỗi khi nghĩ lại, tôi vẫn còn thấy cay cay trên sống mũi.

Không chịu được kiếp đời nô lệ lầm than, sớm giác ngộ lí tưởng Cách mạng, bố mẹ tôi thoát li đi kháng chiến, quyết chiến đấu tiêu diệt kẻ thù giành lại đất nước. Ở nhà vẫn chỉ còn lại tôi và bà tôi. Bao nhiêu năm thức dậy cùng bà là bấy nhiêu yêu thương, thấu hiểu. Hết mùa hạ, đến mùa thu, rồi đông tới, xuân sang. Thời gian cứ lặng lẽ trôi đi. Đằng đẵng bao năm bố mẹ không ở nhà. Tôi cũng dần lớn lên trong vòng tay yêu thương, che chở của bà.

Tôi thương bà tảo tần khổ nhọc, bàn tay làm lụng không khi nào ngơi nghỉ. Việc đồng, việc nhà đều do một tay bà lo liệu cả. Mỗi sớm bà thức dậy, tôi cũng dậy theo bà. Bà nhóm lửa, tôi ngồi cạnh xem. Rồi tôi phụ bà nhóm bếp để bà đi vo gạo.

Ôi! Có giúp bà nhóm bếp mới thương bà cam chịu khổ, nhọc đắng cay. Mùa khô nhóm lửa không khó. Nhưng vào mùa mưa và mùa đông lạnh thì đó là một việc làm kì công. Cái cúi rơm ẩm ướt thổi mãi mà không chịu cháy, cứ khói um lên mịt mù. Càng thổi mạnh, càng khói dữ hơn. Cái cúi rơm cứ lầm lì, bướng bỉnh và đáng ghét ấy. Nhiều lúc bực quá, tôi dập cho nó tắt rồi mồi lửa lại. Bà nhìn và cười bảo để bà nhóm cho.

Bố mẹ công tác không về được. Thỉnh thoảng, tôi thấy có người đến nhắn gửi cái gì đó. Biết là bố mẹ nhắn lời hỏi thăm. Bà tôi cũng dặn gửi mấy lời. Thương bà, tôi cũng ngoan lắm, luôn nghe lời bà và không nghịch ngợm bao giờ. Bà thường dạy tôi làm mọi việc, bảo rằng sau này lớn len còn biết mà làm. Bà tuổi già sức yếu, không biết sống được bao lâu, bố mẹ lại ở xa, cuộc chiến chưa biết khi nào kết thúc. Mỗi khi nhắc đến điều đó, khóe mắt bà rưng rưng muốn khóc.

Bà còn dạy tôi học. Bà nào biết chữ nên cũng không thể dạy tôi viết chữ. Bà dạy tôi đạo lí ở đời qua những câu chuyện kể. Có lẽ, cố tôi ngày xưa đã dạy bà những điều đó. Bà thuộc trong lòng và dạy lại cho cháu con. Mãi sau này, các anh chị quân giải phóng về làng và dạy tôi viết chữ, tôi mới biết viết, biết đọc.

Đêm đêm, bà ôm tôi vào lòng, kể chuyện cho tôi nghe. Bà hay kẻ chuyện những ngày ở Huế. Rồi những chuyện ngày xửa, ngày xưa… Những câu chuyện cổ tích kì diệu đưa tôi vào thế giới thần tiên, cái thiện và cái ác. những câu chuyện ngụ ngôn nhắc nhở tôi phải biết sống tốt đẹp, thảo hiền. Ôi, những năm tháng thần tiên có bà là những tháng năm đầy mơ mộng và niềm vui. Tôi ước có một thần tiên nào đó đến đây ban cho bà thật nhiều điều ước. và tôi chỉ ước là làm sao đất nước thái bình, để cho đời bà bớt khổ là tôi an lòng rồi.

Thế nhưng, đó chỉ là mơ ước. Cuộc sống vẫn còn nhiều kham khổ. Mỗi buổi trưa hè, cái nắng hừng hực đốt lửa trên những cánh đồng khô khốc, trơ trọi, tiếng tu hú kêu khan khiến tôi không khỏi nao lòng. Tiếng tu hú khắc khoải u buồn vang lên từng nhịp. Mùa này tu hú kêu có cái gì đó khác lạ. Có phải vì đói quá mà lang thang tìm đến chốn này chăng?

Tiếng tu hú ảo não vọng về từ những lùm cây bụi rậm trên cánh đồng xa vật vờ đáng sợ. Tiếng tu hú vang lên trong buổi chiều tắt nắng, trên nghĩa địa tiêu ma mỗi khi có người chết vừa chôn cất. Âm thanh ấy ám ảnh trong tôi như một kí ức không thể phai mờ. Phải chăng nó cũng đang tìm một chỗ trú ngụ nhưng chưa tìm thấy? Nhiều lúc, tôi nghĩ sao nó chẳng đến ở cùng bà, kêu quanh vườn bà cho bớt cô đơn.

Thắm thoắt thời gian trôi đi. Cuộc chiến ngày càng ác liệt. Bố mẹ không về được. Kẻ thù tràn đến làng. Đi đến đâu chúng cướp sạch, đốt sạch đến đó. Không những cướp của con người nguồn sống, chúng còn muốn hủy diệt luôn nguồn sống của con người. Chúng là ác quỷ. Chúng không có trái tim. Bởi thế, chúng cũng không có lòng thương xót. Chúng hung hăng và cuồng bạo tràn đến gieo rắc tai họa.

Năm ấy, cả ngôi làng yên bình bỗng rực sáng. Mọi nóc nhà bao năm kiên cường trước mưa bão đều hóa thành tro. Công sức mấy mươi năm gây dựng của con người phút chốc trở thành cát bụi. Sau cuộc khủng bố ấy, mọi người trở về làng. Không đầu hàng, họ lại quyết tâm làm lại, quyết tâm gây dựng cuộc sống mới. Kẻ thù có tàn bạo, có hủy diệt bao lần đi chăng nữa cũng không thể khuất phục được họ. Bếp lửa tắt rồi lại cháy lên tin tưởng và mạnh mẽ.

Bà con xung quanh lại giúp bà tôi dựng lại túp lều tranh trên nền đất cũ. Lúc chạy giặc chẳng mang theo được thứ gì. Bà lại tay đan thúng, tay dựng lều, sửa lại cái kiềng cho thẳng, kê lại mấy cái kệ ngồi. Một không gian ấp lại hiện lên. Bếp lửa đêm ấy lại sáng. Hai bà cháu trông chờ nồi cháo chín. Một nỗi lo âu đeo đẳng trong lòng, không biết ròi mai nay sẽ ra sao?

Tuy khổ nhọc đến thế nhưng bà vẫn vững lòng, đinh ninh dặn dò tôi tha thiết rằng có viết thư cho bố thì chớ có kể chuyện nhà. Cứ bảo là nhà mình vẫn bình an, bà vẫn mạnh khỏe. Ôi, đến lúc này mà bà vẫn nghĩ cho đất nước. Dù có đâu khổ đến thế nào bà vẫn một lòng nghĩ về cuộc chiến đấu. Kẻ thù càng hung bạo thì lòng căm thù và quyết tâm đánh thắng kẻ thù trong bà càng lớn. Tôi thấu hiểu lòng bà nên “dạ” một tiếng thật rõ to.

Rồi sớm rồi chiều,bếp lửa từ đôi tay bà bừng cháy lên. Một ngọn lửa từ trong lòng bà luôn ủ sẵn. Nó cháy lên mọi lúc. Nó dai dẳng cháy mãi như niềm tin bất diệt của bà. Bà đã truyền ngọn lửa ấy cho tôi, đốt lên trong tôi một ngọn lửa ấm áp. Đó là ngọn lửa yêu nước. Đó là ngọn lửa đấu tranh, ngọn lửa của niềm tin và khát vọng đến tương lai.

Chiến tranh đi qua. Hòa bình lại đến. Niềm tin tưởng của bà đã được đền đáp. Bố mẹ tôi trở về quê hương. Ngày đoàn tụ xúc động vô cùng. Dù đã cố giấu đi giọt nước mắt hạnh phúc nhưng khóe mắt bà cứ rưng rưng. Bà lại đi nhóm lửa, nấu một cái gì đó để đãi cả nhà, ăn mừng ngày vui.

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa, kham khổ đã nhiều, đau thương cũng không ít. Vậy mà mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ, bà vẫn giữ thói quen dậy sớm nhóm lên bếp lửa nồng ấm yêu thương. Đâu phải tuổi già mất ngủ. Ấy là do bà muốn giữ ấm quá khứ đau thương mà nghĩa tình đấy thôi. Bà muốn được tận tay bà nhóm lên những niềm vui, làm nên những bữa khoai sắn ngọt bùi, cùng xóm láng giềng gần chung vui lúa mới để nhắc nhở về những tháng ngày lầm lụi xưa kia mà thêm trân trọng và mến yêu.

Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa! Nó kì lạ bởi không bao giờ tắt. Có tắt đi rồi lại mạnh mẽ cháy lên. Nó cháy lên trong cả những thanhgs ngày mưa bão hay giá rét. Nó lại cháy sau mỗi lần kẻ thù đến và cố hủy dệt nó. Từ đôi bàn tay cằn cõi của bà lại làm cháy lên ngọn lửa ấm diệu kì. Thiêng liêng là bởi nó gắn chặt với hình bóng và tình cảm nồng ấm của bà tôi đã dành cho tôi tất cả.

Giờ tôi đã đi xa, cách tổ quốc trăm núi nghìn sông. Cuộc sống lầm than, đói khổ đã qua rồi, cuộc sống mới hân hoan khắp mọi nơi. Nhưng chẳng bao giờ tôi thôi nhớ về bếp lửa quê hương và người bà hiền hậu. Nhưng chẳng bao giờ tôi quên nhắc nhở về bổn phận và trách nhiệm của tôi đối với bà tôi, đối với quê hương, đất nước tôi.

Dân tộc ta đã sống kiên cường bất khuất, sẵn sàng hi sinh để bảo vệ mảnh đất thiêng liêng, trách nhiệm của thế hệ chúng tôi hôm nay là bảo vệ thành quả lớn lao ấy và làm cho đất nước ngày càng giàu mạnh. Tôi dặn lòng mình nhớ lấy điều ấy. Và tiếp tục truyền ngọn lửa kì lạ và thiêng liêng này đến với mọi thế hệ mai sau.

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa – Mẫu 12

Mùa đông đã đến trên đất Nga, đó là lúc mà tôi cảm thấy buồn nhất vì mọi thứ ở đây thật hoang sơ, ghê rợn do cái lạnh mà những cơn mưa, tuyết giá tạo nên. Sáng nay, tôi thức dậy sớm, co ro trong lớp áo khoác dày sụ và vội kéo tấm màn ra từ tầng trên của khu kiến túc xá nhìn ra ngoài, tôi chợt nhìn thấy một làn khói được tỏa ra từ trong ống khói của ngôi nhà đằng xa kia, nhìn làn khói tôi chợt nhớ về người bà ở quê nhà với bao kỉ niệm vui buồn đan xen nhau. Nhớ đến bà bỗng dưng tôi nhớ đến những lúc ngồi bên bếp lửa hồng cùng bà sưởi ấm, vừa canh nồi bánh chưng vừa sôi và đón giao thừa. Chao ôi! Nhớ lắm cái hương vị quê nhà. Cầm tách cà phê, tôi miên man trong dòng hồi tưởng về quá khứ. Quá khứ hiện lên như một thước phim chậm, in đậm dấu ấn một thời ấu thơ.

Hai mươi năm đã trôi qua, có lẽ kỉ niệm mà tôi không bao giờ quên, xóa nhòa trong kí ức đó là cái năm đói mòn, đói mỏi của năm Ất Dậu (1945) ấy, người chết như ngả rạ, người sống thì vật vờ như bóng ma. Cả làng tôi, nhà nào cũng rơi vào cảnh đói thê đói thảm. Nhà tôi, bố tôi phải lên phố kéo xe gầy rạc cả người mà cả nhà chỉ rau cháo cầm hơn để sống qua ngày. Xóm làng thì tiêu điều ngập tràn trong mùi khói, nghĩ lại đến giờ sống mũi tôi vẫn còn cay, nước mắt cứ chực ứa ra. Thế nhưng theo thói quen, độ gà gáy canh ba là bà tôi đã trở dậy. Bà lặng lẽ nhóm bếp lửa rồi chẳng có gì để nấu. Bà nhìn ánh lửa mà nước mắt bà tuôn trào. Nhiều hôm tôi bắt gặp bà khóc bên bếp lửa nhưng tôi ngây thơ nào có hiểu bà khóc vì lẽ gì. Do ngây thơ nên tôi cứ tin vào lời của bà: ‘Bà khóc vì khói làm cay mắt bà đấy thôi “. Tôi tò mò nên hỏi: ‘Sao khói không làm cay mắt cháu bà nhỉ’. Bà cười, nụ cười sao mà buồn đến thế! Rồi bà ôm tôi vào vòng tay ấm áp của bà.

Những năm ấy, kháng chiến bùng nổ, bố mẹ tôi thoát ly gia đình đi làm cách mạng, bà vừa là bà, vừa là ba vừa là mẹ của tôi. Suốt tám năm ròng rã đó, tôi sống trong vòng tay yêu thương của bà và bên bếp lửa hồng mà bà nhen lẽn mỗi sớm chiều. Tình cờ bên bếp lửa ấy, tôi được nghe bà kể về cuộc đời của bà những ngày còn ở Huế. Đó là một cuộc đời cơ cực, lầm than mà bà phải gánh chịu. Rồi bên bếp lửa ấy tôi được bà dạy bao bài học làm người, nâng bước cho những giấc mơ cao đẹp trong cuộc đời tôi. Ánh lửa bập bùng nơi góc bếp cũng chính là ngọn đèn giúp tôi học bài và làm bài. Tiếng tu hú ngân nga theo tiếng kể chuyện của bà, và theo sự chập chờn của ngọn lửaÁnh lửa ấy như có sức truyền cảm, mang đến sự ấm áp cho tâm hồn bé thơ của tôi. Và bà đã trở thành chổ dựa tinh thần vững chắc cho tôi, bà thay cha, thay mẹ chăm sóc tôi nên người.

Ơn bà cháu nhớ mãi bà ơi! Nhớ bà, tôi nhớ cái ngày giặc càng vào làng. Đó là một buổi trưa hè oi ả, cả làng đang yên ắng. Bỗng dung tiếng nổ sung vang lên rầm trời. Rồi tiếng gào thét thất thanh: ‘giặc càn, giặc càn bà con ơi!’. Bà chỉ kịp cắp chiếc nón, vơ vội áo quần cho tôi, rồi vội xốc tôi lên vai chạy một mạch sang làng bên lánh nạn. Giặc rút, hai bà cháu lại dắt díu nhau trở về nhưng về đến làng một cảnh tượng thật hãi hùng. Ngôi làng tiêu điều, nhà cửa cháy rịu, ruộng vườn tan hoang. Bà lặng lẽ đứng trước ngôi nhà của mình, giờ chỉ là một đống tro tàn. Có lẽ bà đang nuốt ngược nỗi đau vào lòng. Bà không khóc nhưng tôi bật khóc. Tôi khóc vì thương bà, thương mình, rồi không biết hai bà cháu sẽ sống ở đâu? Bà xoa đầu tôi an ủi, vỗ về bằng những lời nói ngọt ngào để xóa nhòa đi cái nỗi đau mất mác trong lòng tôi. Nhưng rồi đâu cũng vào đó, được sự giúp đỡ của bà con, láng giềng mà bà cháu tôi cũng có ngôi nhà nhỏ trên nền đất cũ năm nào. Gian nan thế đấy nhưng mỗi lần viết thư cho bố mẹ tôi bà cứ căn dặn mãi: ‘Đừng kể chuyện nhà mình cháy cháu nhé, cứ bảo nhà vẫn được bình yên thế là đủ rồi”. Vâng lời bà, tôi làm theo dù trong lòng còn nhiều thắc mắc. Mãi sau này lớn lên tôi mới hiểu vì sao bà lại nói dối ba tôi, bà chẳng muốn ba lo lắng, bà muốn ba tập trung lo việc kháng chiến. Tấm lòng hy sinh, tình yêu Tổ quốc của bà đã bao trùm lên tình yêu gia đình, bao trùm lên tình cảm riêng tư của bà.

Bà tôi chưa bao giờ mất đi niềm tin mạnh mẽ, mất đi ngọn lửa tình yêu quê hương Tổ Quốc. Sớm chiều bà lại nhen lên, nhóm lên bếp lửa không chỉ bằng than, bằng củi, mà còn bằng niềm tin vào ngày đất nước được giải phóng trong lòng bà, bằng tình yêu thương gia đình, yêu quê hương đất nước mà bà mãi gìn giữ.

Bếp lửa ấy đã gắn liền với cuộc đời bà. Mỗi sáng sớm, bà thức dậy và nhóm bếp lên, nhóm ngọn lửa ấm áp lên để đun nước, để nấu cơm. Nhưng mãi sau này tôi mới hiểu được rằng, bà không chỉ nhóm lên ngọn lửa bình thường ấy, mà còn nhóm lên tình yêu thương gia đình, tình yêu quê hương đất nước cho tôi. Bà dạy cho tôi tính cảm làng xóm thiết tha sâu đậm. Rồi ngọn lửa trên bếp lửa bập bùng ấy, lại nhóm lên trong tôi cả một bầu trời tuổi thơ, cả một miền ký ức về những tháng năm tôi sống bên bà.

Những nỗi nhớ về bà khép lại trông sự buồn man mác của tôi. Tôi rất nhớ, rất nhớ về tình yêu thương của bà, bếp lửa thiêng liêng và quê hương nồng nàng, tha thiết của tôi. Vì vậy, tôi càng trân trọng những tình cảm tôi đang có. Tháng năm làm tôi lớn lên và trưởng thành, những hoài bão đưa bước chân tôi đến với những chân trời xa nhưng chẳng thể nào tôi quên được ngọn lửa hồng nơi góc bếp bởi nơi đó có tình yêu thương và đức hi sinh lặng thầm của người bà mà tôi dành cả cuộc đời mình để biết ơn và trân trọng, cũng chính tại nơi đó bà nhen nhóm lên trong tôi những ước mơ về một cuộc đời mới.

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa – Mẫu 13

Thời tiết đã bước vào mùa đông thật rồi. Trời trở nên lạnh giá, nhiệt độ cũng giảm dần. Học tập xa nhà đã lâu, khiến cho tôi luôn nhung nhớ về bà. Và cả hình ảnh bếp lửa ngày xưa hai bà cháu cùng nhóm bếp. Tất cả là một phần kí ức tươi đẹp không bao giờ quên đối với tôi.

Ngay từ khi còn bé, vì hoàn cảnh mà bố mẹ tôi không thường xuyên ở nhà. Vì tham gia vào kháng chiến chống Pháp. Nên tôi được sống cùng với bà. Bà đã thay cha me chăm nom, nuôi nấng tôi nên người. Đó có lẽ là những năm tháng vô cùng khó nhọc và vất vả. Chiến tranh xảy ra liên miên, rồi đến nạn đói năm 1945. Tuổi thơ tôi đã quen với mùi khói khi chỉ tròn 4 tuổi. Bạn sẽ không thể hình dung tới hình ảnh mà ngoài đường người chết la liệt, ai nấy cũng đều gầy guộc và đen nhẻm. Cái đói cái rét cứ bao trùm lên toàn cảnh nơi đây.

Tám năm ròng tôi cùng bà nhóm lửa. Sống cùng bà, bà dạy tôi học, dạy tôi làm việc nhà và nhiều thứ khác nữa. Bà luôn dành cho tôi những tình yêu thương tốt đẹp nhất. Nhớ những hôm mưa rơi ướt củi, nhóm bếp trở nên khó khăn vô cùng. Tôi vẫn ngồi đó cùng bà. Bà kể tôi nghe những câu chuyện khi còn ở Huế. Rồi tiếng tu hú kêu trên những cánh đồng. Hình ảnh ấy luôn vọng mãi trong lòng tôi.

Giặc đến, phá làng phá xóm, vào tận làng để đốt nhà cửa, lửa cháy bùng lên ở khắp mọi nơi. May nhờ có hàng xóm mà bà cháu tôi đã có được túp lều tránh nắng, tránh mưa. Tôi rất muốn viết thư kể cho bố mẹ nghe về những tủi cực này. Nhưng bà không muốn và nói với tôi rằng “Ba mẹ ở chiến khu còn bận nhiều việc, mày viết thư chớ kể này kể nọ, cứ bảo ở nhà vẫn được bình yên”. Dù chịu bao gian khổ nhưng bà không muốn con cái phải phiền lòng về mình. Hiểu lòng bà tôi càng thấy thương bà nhiều hơn. Tôi luôn muốn bà cười thật nhiều và không bao giờ bị ốm đau, bệnh tật. Để bà có thể sống thật là lâu bên cạnh tôi.

Mấy chục năm rồi, bà vẫn thức khuya dậy sớm, tần tảo làm việc. Bếp lửa dường như đã trở thành một người bạn đồng hành cùng bà, san sẻ biết bao câu chuyện.

Hình ảnh bếp lửa luôn thiêng liêng trong lòng của tôi. Bếp lửa thể hiện tình bà nồng ấm. Ngoài ra nó còn gợi lên trong kí ức tôi hình ảnh mỗi khi bà nhóm bếp. Bà nhóm niềm vui, niềm yêu thương dành cho tất cả mọi người. Đồng thời cũng là người lan tỏa niềm tin và sự hi vọng lớn lao đối với tôi.

Giờ đây, khi mà tôi đã lớn khôn, được thích nghi với một môi trường mới. Một môi trường hiên đại với những trang thiết bị tiện nghi bậc nhất. Có bếp gas, bếp điện, “có ngọn khói tram tàu, có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” luôn hiện hữu. Thì tôi vẫn luôn luôn nhớ về hình ảnh bếp lửa thân thương ở tuổi thơ tôi. Bếp lửa nuôi tôi trưởng thành, sưởi ấm tình cảm và ước mơ của tôi. Bếp lửa đồng hành cùng bà trong quá trình nuôi dạy tôi nên người. Được nghe bà bảo ban và kể chuyện. Và tôi cứ thế lớn dần. Giờ đây tôi ước mong được về bên cạnh bà, ôm bà một cái thật lâu. Và lại được nghe bà kể chuyện như ngày bé thơ. Chao ôi mới tuyệt làm sao.

Dù đi học xa nhà, nhưng tôi vẫn không thể nào quên được hình ảnh ấy. Nhiều khi bản thân vẫn vu vơ tự hỏi “Không biết sơm mai này, bà đã nhóm bếp chưa?”

Xa quê, tự mình chăm sóc bản thân, tôi mới thấy thương bà nhiều hơn. Hi vọng rằng bà luôn luôn khỏe mạnh và vui vẻ. Chắc chắn rằng tôi sẽ không bao giờ quên được hình ảnh về bà và bếp lửa đã nuôi lớn tôi như ngày hôm nay.

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa – Mẫu 14

Có một nơi là nơi xuất phát, cũng là nơi trở về và là điểm tựa vững chắc cho con người trong hành trình sống. Nơi ấy là nhà. Nơi ấy với tôi còn có người bà kính yêu. Và để rồi, khi trưởng thành, khi đang sinh sống và làm việc tại Liên Xô, tôi lại bồi hồi, xốn xang nhớ về người bà kính yêu gắn với hình ảnh bếp lửa….

Tôi lại nhớ về hình ảnh ngọn lửa hồng ấy…Ngọn lửa có lẽ là không lạ gì trong đời sống của mỗi chúng ta. Một ngọn lửa được bà nhen lên mỗi buổi sáng sớm. Một ngọn lửa được đôi bàn tay gầy guộc của bà ấp iu, che chở để chúng có thể cháy lên và tỏa sáng…

Hình như cái ngọn lửa thân thương ấy, tôi đã quen mùi khói từ năm tôi lên bốn. Năm đó gắn với nạn đói của dân tộc- năm 1945 với hình ảnh của những người chết vì đói nằm như ngả rạ. Bố tôi phải làm việc vất vả. Đến bây giờ tôi vẫn còn cay sống mũi mỗi khi nhớ lại về những năm đó…

Rồi tám năm ròng, tôi đã bên bà, cùng bà nhóm lên những ngọn lửa hồng. Khi con tu hú kêu trên những cánh đồng xa báo hiệu một mùa hè lại về, bà ơi, bà có còn nhớ không bà? Tôi còn nhớ, khi tu hú kêu, lại gắn với những câu chuyện bà hay kể về những ngày ở xứ Huế. Tiếng tu hú tha thiết kêu mãi không ngừng… Đó là những ngày tháng chiến tranh, bố mẹ tôi bận công tác ở xa nên không có nhà. Tôi ở cùng bà, được bà dạy làm, được bà dạy học. Bà đã thay cha mẹ tôi nuôi tôi khôn lớn và trưởng thành.

Rồi năm đốt làng cháy tàn cháy rụi, hàng xóm bốn bên trở về trong cảnh lầm lụi. Bằng tình cảm làng xóm láng giềng. mọi người đã giúp bà dựng lại túp lều tranh. Vẫn vững lòng, và thêm cả sự lo lắng cho bố mẹ tôi, bà liền dặn tôi rằng:

– Bố ở chiến khu, bố vẫn còn nhiều việc lắm. Mày có viết thư, không được kể này kể nọ nghe chưa, cứ bảo nhà vẫn được bình yên để bố mẹ an tâm công tác!

Rồi hàng ngày, cứ sớm rồi lại chiều, bà vẫn tiếp tục với công việc hàng ngày của mình là nhóm lửa. Một ngọn lửa chứa tình yêu thương của bà luôn ủ ấp nơi đáy lòng, một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng của bà…

Đời bà luôn vất vả như thế. Vất vả nuôi tôi khôn lớn và ngày trước là vất vả nuôi bố tôi. Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ bà vẫn giữ thói quen dậy sớm, nhóm những bếp lửa ấp iu nồng đượm, nhóm cả những nồi khoai sắn có cả những yêu thương của bà để xây đắp cho tôi bao ước mơ, để giờ tôi có thể du học tại đất nước Liên Xô. Bếp lửa của bà còn nhóm lên cả nghĩa tình với xóm làng. Ôi bếp lửa của bà, tuy giản dị mà lại rất đỗi thiêng liêng!

Giờ đây, tôi đã đi xa, cách bà đến nửa vòng Trái Đất. Một cuộc sống mới đã mở ra trước mắt tôi. Nơi ấy, có những ngọn khói trăm tàu, có lửa trăm nhà và có niềm vui trăm ngả. Nhưng tôi vẫn chẳng thể nào tự quên nhắc nhở bản thân rằng ” Sớm mai này, bà đã nhóm bếp lên chưa?”

Bà ơi! Cháu yêu bà và cũng thương bà biết bao. Cuộc sống hiện đại dễ làm lòng người đổi thay nhưng hình ảnh của một người bà ngày ngày nhóm lên những ngọn lửa yêu thương sẽ mãi không bao giờ phai nhạt trong tâm trí cháu. Cuộc sống ở phương xa này, dù vui thật nhưng khi niềm vui tàn đi, nhất là những khi cháu ở một mình, cháu lại nghĩ về bà nơi mái nhà tranh, nơi bà kể chuyện cháu nghe, nơi bà dạy cháu học, nơi hình thành con người cháu, nơi có ngọn lửa hồng thắp lên trong cháu những ước mơ.

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa – Mẫu 15

Tôi đang du học ở một nước xa xôi, cách Việt Nam hàng ngàn kilomet, nơi đất nước lạnh giá bỗng thèm hơi ấm từ bếp lửa của người bà thân yêu, ngọn lửa mà bà thắp lên mỗi sáng tinh mơ.

Tuổi thơ tôi gắn bó với bà, ngọn lửa chờn vờn trong sớm mai, ngọn lửa gắn liền với hình ảnh người phụ nữ Việt Nam cần cù, chịu khó và giàu đức tính hi sinh. Bà tôi là một người phụ nữ như vậy, kí ức về bà gắn với kỉ niệm tuổi thơ nạn đói năm 1945 hoành hành khiến hàng triệu người chết, gia đình tôi cũng vậy phải cố gắng đi tìm miếng ăn để vượt qua thời khắc đen tối đó, giờ nghĩ lại mà sống mũi còn cay cay.

Tôi có nhiều kỉ niệm nhớ mãi với người bà, thời gian kháng chiến chống thực dân Pháp mẹ và cha tôi phải đi công tác ở chiến khu, bà ở nhà nuôi nấng, dạy dỗ tôi trưởng thành, bà đun lửa lên sưởi ấm cho tôi mỗi khi trời trở rét. Bà thương yêu bao bọc che chở giúp cha mẹ an lòng công tác xa nhà.

Một kỉ niệm đến tận giờ tôi vẫn không quên đó là lần giặc càn tàn phá xóm làng, ngọn lửa thiêu rụi tài sản mọi người trong làng, khi giặc đi qua tất cả không còn gì. Trong hoàn cảnh như vậy bà vẫn dặn tôi không được nói với cha mẹ để họ yên tâm công tác. Bà không chỉ cần cù, giàu tình yêu thương mà còn giàu đức hi sinh làm hậu phương vững chắc cho cha mẹ yên lòng, với tôi bà là người mẹ Việt Nam trung hậu, đảm đang, bất khuất.

Ngọn lửa của bà không chỉ dùng để sưởi ấm mà chứa đựng niềm yêu thương luôn cháy trong lòng tôi, bà là đại diện thế hệ cha anh giữ lửa truyền lửa đến thế hệ tương lai, hình ảnh bếp lửa giản dị quen thuộc như chứa đựng sự cao quý thiêng liêng đến kỳ lạ.

Trải qua thời gian, tôi đã trưởng thành, tìm đến với những con đường, chân trời mới, cuộc sống mới đã có “khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” nhưng trong lòng tôi vẫn luôn hiện hữu câu hỏi “sớm mai này bà nhóm lửa lên chưa” ? ngọn lửa của bà chính là kỉ niệm tuổi thơ, tình bà cháu đã nuôi nấng tôi trưởng thành, hình ảnh đó sẽ cháy mãi trong lòng tôi – ngọn lửa yêu thương của gia đình, yêu quê hương đất nước.

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa – Mẫu 16

Đã rất nhiều năm trôi qua, tôi ngày nào còn là một đứa trẻ giờ đây đã trưởng thành và đang là sinh viên ngành Luật ở Nga. Khí trời dạo này se se lạnh, vì thế thoải mái nhất là khi ngồi bên bếp lửa ấm áp, sau một ngày dài. Bếp lửa gợi cho tôi về rất nhiều kỉ niệm, về những ngày thơ ấu, những năm chiến tranh được ở cùng với bà – người đã bên cạnh tôi suốt nhiều năm, người mà tôi kính trọng nhất.

Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn nỗi nhớ sâu sắc trong tôi. Một buổi sáng sớm thời tiết trở mùa, cái khí lạnh của miền Bắc lùa vào trong gian nhà nhỏ. Và cũng vào lúc ấy, bà thức dậy nhóm bếp, một bếp lửa chứa hơi ấm và tình yêu thương của bà dành cho đứa cháu. Thời ấu thơ bên bà, có nhiều gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn.

Tôi ở với bà có lẽ từ rất bé, đến nỗi tôi chẳng nhớ rõ bắt đầu từ lúc nào. Chỉ nhớ là khi tôi lên bốn, mùi khói bếp đã trở nên quen thuộc. Đó là năm sau giải phóng, là năm mà nạn đói hoành hành, cướp đi sinh mạng của rất nhiều người dân. Còn đối với tôi, đó là khoảng thời gian rất khó khăn. Cái ăn cái mặc không đủ, sống trong sự lo sợ, phải dành dụm từng miếng ăn. Bố tôi phải đi đánh xe cùng với con ngựa gầy nhom vì đói. Tiền chẳng được bao nhiêu, nhưng vẫn đủ để lây lất từng ngày. Những ngày tháng ấy, bếp lửa đối với tôi như một nỗi ám ảnh, khói hun nhèm cả mắt, cùng ngồi với bà bên bếp lửa. Đến bây giờ khi nhớ lại, sống mũi tôi bỗng cay cay, những kí ức đó vừa là kỉ niệm nhưng cũng làm tôi nghẹn lòng khi nghĩ về.

Tám năm có lẽ không phải là một khoảng thời gian quá dài, nhưng cũng quá đủ đối với tôi để bếp lửa trở thành hình ảnh gắn liền với tuổi thơ bên bà, cùng bà nhóm bếp. Tôi vẫn còn nhớ tiếng chim tu hú kêu trên những cánh đồng, tiếng kêu vang vảng, nghe sao tha thiết. Những lúc ấy, bà kể tôi nghe chuyện những ngày còn ở Huế, rằng bà từng sống thế nào, đến giờ tôi vẫn còn nhớ.

Mẹ cùng cha đi công tác bận không về, vì vậy mà suốt thời gian đó tôi ở với bà, sống trong sự cưu mang và dạy dỗ của bà. Bà dạy tôi học, kể chuyện cho tôi nghe, những lời bà dạy rất bổ ích, ý nghĩa. Sống với bà nên từ bé tôi đã sớm có ý thức tự lập, sớm biết lo toan, giúp đỡ bà. Tôi thương bà lắm, trước đây vất vả nuôi cha tôi khôn lớn, giờ lại phải chăm cháu dù tuổi khá cao, vậy mà bà vẫn rất yêu thương tôi.

Giặc Pháp đi rồi bọn Mỹ lại đến, bao khốn khổ cứ kéo đến. Bọn ác nhân ấy đốt làng cháy tàn cháy lụi. Chúng tôi mất nhà cửa, phải đỡ đần nhau dựng lain túp lều tranh. Tôi lúc ấy đã đủ lớn để thấu nỗi cơ cực của bà. Vất vả là thế nhưng bà vẫn luôn dặn tôi rằng:”Bố ở chiến khu, bố còn việc bố. Mày viết thư chớ kể này kể nọ, cứ bảo nhà vẫn được bình yên”Lúc ấy tôi vẫn từng hỏi rằng tại sao phải làm vậy. Bởi lẽ tôi lúc ấy đã rất mệt mỏi với cuộc sống này, muốn được kể hết cho bố nghe, nói ra nỗi lòng của mình rằng tôi đã rất vất vả, mà tại sao bố vẫn không biết. Giờ nghĩ lại, sao khi ấy tôi ích kỉ thế, không nghĩ rằng bố mẹ còn phải lo việc chiến khu căng thẳng. Quả thật, lời bà luôn đúng.

Sớm hay chiều bà luôn nhóm bếp. Hình ảnh của bà luôn gắn liền với hình ảnh ngọn lửa, bà chính là người giữ cho ngọn lửa luôn ấm và tỏa sáng trong mỗi gia đình, để đứa cháu như tôi không lớn lên mà không cảm thấy cô đơn vì không được cha mẹ chăm sóc. Ngọn lửa mà bà luôn ủ sẵn trong lòng, ngọn lửa chứa niềm tin một ngày đất nước sẽ được giải phóng của bà, như chuyện cho tôi thêm sức mạnh vào cuộc sống.

Cuộc đời bà lận đận, không biết bao lần chịu đựng vất vả. Mấy chục năm rồi, bà vẫn giữ một thói quen cũ, đó là dậy sớm. Bà dậy sớm để nhóm bếp, bếp lửa lan tỏa hơi ấm và tình yêu của bà. Bao nhiêu năm, khoai sắn ngọt bùi, nồi xôi gạo thơm nóng, được bà nhóm chứa đầy những tâm tình của tuổi nhỏ. Cái vị ấy sao mà quen thuộc, thân thương đến thế. Cùng bà sẻ chia niềm vui, cay đắng trong suốt nhiều năm trời, tôi làm sao quên được.

Giờ tôi đã đi xa. Ở nơi đất nước xa lạ này, có ngọn khói trăm tàu, niềm vui trăm ngả nhưng hình ảnh bếp lửa vẫn rất thiêng liêng. Nó gợi cho tôi về người bà đã gắn bó với cả tuổi thơ của mình Ngày ngày, bà nhóm lên bếp lửa cũng là nhóm lên niềm vui, sự sống, niềm yêu thương chi chút cho cháu và mọi người. Không chỉ bằng nhiên liệu thông thường, mà bếp lửa còn được nhóm bằng chính ngọn lửa mà bà luôn giữ trong lòng, của sức sống và niềm tin, một cách kì diệu và thiêng liêng.

Mùi khói thoang thoảng, sống mũi tôi lại cay. Những kí ức chợt ùa về trong cơn gió mùa đông se lạnh. Tôi nhớ bà, nhớ cả bếp lửa, có vui lẫn buồn. Có lẽ bếp lửa đã trở thành một thứ rất quan trọng trong cuộc sống của tôi, thứ mà tôi không thể nào quên được. Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa.

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa – Mẫu 17

Ở một nơi xa xôi của châu Âu, nơi mùa đông giá rét, ngồi bên lò sưởi lửa cháy, hơi ấm của ngọn lửa phả vào mặt khiến tôi nhớ về bếp lửa nhỏ sớm mai và hình bóng bà tôi của tuổi thơ. Hình ảnh bếp lửa nhỏ chờn vờn trong sương sớm và người bà hết mực yêu thương khiến nỗi nhớ trong tôi khôn nguôi.

Tôi sinh ra trong thời điểm đói kém, khi mà nhân dân ta cùng chống thực dân Pháp xâm lược. Đất nước chìm trong chiến tranh và khủng hoảng. Cuộc sống khó khăn và ngột ngạt nhất là người nông dân. Năm tôi lên bốn, thiên tai, hạn hán khiến cho sản xuất nông nghiệp mất mùa, thất thu. Cái đói len lỏi và từng gia đình. Tiếng người chết, khóc thương khiến khung cảnh trở nên u ám.

Bố mẹ tôi làm quần quật mưu sinh để lo cho cuộc sống, còn bà ở nhà chăm nom tôi. Cả tuổi thơ của tôi chỉ ở bên bà. Mỗi khi nhóm lửa, ngồi bên bếp lửa ấm vô cùng. Khói bếp cay xè mắt, nước mắt, nước mũi chảy. Nhớ về những hình đó khiến tôi như cay cay trên sống mũi. Bố mẹ theo cách mạng kháng chiến chống lại kẻ thù. Tôi ở cùng bà vượt qua nhiều khó khăn và tôi dần khôn lớn trong vòng tay người bà thân yêu. Thời gian trôi qua chiến tranh ngày càng ác liệt. Bố mẹ không về được. Kẻ thù tấn công ngôi làng, chúng cướp sạch, đốt sạch. Chúng gieo rắc sự sợ hãi cho nhiều người dân vô tội.

Bà con bên cạnh giúp bà tôi dựng lại túp lều tranh, gây dựng lại từ đống đổ nát, trong tâm trí của mọi người cũng không biết ngày mai thế nào? Tuy khổ nhọc nhưng bà vẫn dặn dò tôi có viết thư cho bố thì chớ kể chuyện nhà. Bảo rằng bà vẫn mạnh khỏe. Dù thế nào đi chăng nữa bà vẫn một lòng nghĩ về cuộc chiến, mong bố mẹ tôi an tâm công tác. Bà nhóm ngọn lửa như cháy lên trong tôi ngọn lửa yêu nước, niềm tin và khát vọng gửi gắm đến tương lai.

Hòa bình trở lại với chúng tôi, bố mẹ tôi trở về quê hương đoàn tụ. Bà vui mừng đến nỗi khóe mắt cứ rưng rưng. Dù nắng hay mưa, mấy chục năm qua bà vẫn giữ thói quen dậy sớm nhóm lên bếp lửa, ngọn lửa tuổi thơ trong tôi. Ôi ngọn lửa kỳ lạ và thiêng liêng, có tắt đi rồi lại cháy lên mãnh liệt. Ngọn lửa như nhắn nhủ tôi luôn nhớ về người bà yêu thương, hi sinh vì con cháu và cả quê hương đất nước.

Dù sau này có đi xa, hưởng cuộc sống sung túc, tôi vẫn không quên hình ảnh bếp lửa và người bà hiền hậu, đồng thời luôn nhắc nhở trách nhiệm của tôi với bà cũng như quê hương, đất nước.

************************

Với 20 bài văn mẫu Đóng vai người cháu kể lại bài thơ Bếp lửa được thầy cô chia sẻ trên đây. Hy vọng sẽ giúp ích cho các em có thêm tài liệu tham khảo, có thêm nhiều ý tưởng hoàn thiện bài văn của mình hay hơn, sâu sắc hơn. Chúc các em học tốt và đạt điểm cao khi gặp bài tập làm văn kể lại bài thơ Bếp lửa.

Đăng bởi: Trường Trung Cấp Nghề Thương Mại Du Lịch Thanh Hoá

Chuyên mục: Giáo dục

Bản quyền bài viết thuộc Trường Trung Cấp Nghề Thương Mại Du Lịch Thanh Hoá. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: https://tmdl.edu.vn https://tmdl.edu.vn/dong-vai-nguoi-chau-ke-lai-cau-chuyen-ve-ba-trong-bai-tho-bep-lua/

Trang chủ: tmdl.edu.vn
Danh mục bài: Giáo dục

Lương Sinh

Lương Sinh là một tác giả đầy nhiệt huyết trong lĩnh vực giáo dục, ngoại ngữ và kiến thức. Với hơn 10 năm kinh nghiệm làm việc trong ngành, cô đã tích lũy được rất nhiều kiến thức và kỹ năng quan trọng. Với tình yêu với ngôn ngữ và mong muốn chia sẻ kiến thức, Lương Sinh đã quyết định sáng lập blog tmdl.edu.vn. Trang web này không chỉ là nơi chia sẻ những kinh nghiệm và kiến thức cá nhân của cô, mà còn là một nguồn thông tin hữu ích cho những người quan tâm đến giáo dục, kiến thức và ngoại ngữ. Đặc biệt là tiếng Anh và tiếng Trung Quốc.
Back to top button