Cảm nhận Bình Ngô đại cáo lớp 10
Cảm nhận về tác phẩm Bình Ngô đại cáo
Suy nghĩ của em về bài Bình Ngô đại cáo – Bình Ngô đại cáo là một trong những tác phẩm văn học có giá trị lịch sử vô cùng to lớn, khẳng định nền độc lập chủ quyền của dân tộc. Trong bài viết này Tmdl.edu.vn xin chia sẻ dàn ý cảm nhận Bình Ngô Đại Cáo kèm theo các bài văn mẫu cảm nhận tác phẩm Bình Ngô đại cáo hay và chi tiết sẽ giúp các bạn đọc hiểu rõ hơn về nội dung và ý nghĩa của tác phẩm.
Bạn đang xem bài: Nêu cảm nhận của anh chị về Bình Ngô Đại Cáo
1. Dàn ý cảm nhận Bình Ngô đại cáo chi tiết
1. Mở bài
– Giới thiệu chung về tác phẩm Bình Ngô đại cáo
– Nêu cảm xúc và suy nghĩ chung về tác phẩm
2. Thân bài
a) Cảm nhận về phần đầu tác phẩm: Nguyễn Trãi nêu ra luận đề chính nghĩa, tư tưởng nhân nghĩa
– Mệnh đề tư tưởng nhân nghĩa:
+ “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”: Cần phải bảo vệ cuộc sống cho nhân dân, cho dân được sống trong thanh bình, hạnh phúc, yên ổn làm ăn
+ “Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”: Xuất phát từ điển cố trong kinh thư, là bậc quân vương thì phải tiêu trừ tham tàn bạo ngược, trừ hại cho dân
=> Quan điểm mới mẻ và tiến bộ: Nhân nghĩa là yêu nước, thương dân, là yêu hòa bình
– Khẳng định sự tồn tại có độc lập chủ quyền của Đại Việt qua năm yếu tố: Có nền văn hiến lâu đời, có cương vực lãnh thổ riêng, có phong tục tập quán riêng, có truyền thống lịch sử riêng, chủ quyền riêng.
+ Các từ ngữ: “Từ trước, vốn xưng, đã lâu, đã chia, cũng khác” => Mang sắc thái khẳng định nhằm nhấn mạnh chân lí không dời đổi là nước Đại Việt ta là đất nước có chủ quyền độc lập.
=> Nguyễn Trãi hoàn thiện quan niệm về một quốc gia, dân tộc
b) Cảm nhận về phần hai tác phẩm: Bản cáo trạng về tội ác của giặc Minh
Tác giả đứng trên lập trường của dân tộc, lập trường nhân nghĩa để tố cáo sự tàn bạo của kẻ thù
– Tố cáo âm mưu cướp nước của giặc Minh: Mượn cớ “phù Trần diệt Hồ”, “nhân”, “thừa cơ”
– Tội ác man rợn của kẻ thù:
+ Hành động diệt chủng tàn bạo: “Nướng dân đen… hầm tai vạ”
+ Hủy hoại môi trường sống: “nặng thuế khóa… đầm núi”, “tàn hại… cây cỏ”
+ Coi người dân như những công cụ để phục dịch, vơ vét sản vật: “Người bị ép… mò ngọc”; “Kẻ… tìm vàng”
=> Giặc Minh đã triệt tiêu toàn bộ đường sống của người dân và tội ác của chúng là không thể dung tha “Ai bảo thần nhân chịu được”
– Nghệ thuật đặc sắc trong khổ thơ:
+ Nghệ thuật tương phản, đối lập giữa nhân dân với kẻ thù: Nhân dân nheo nhóc góa bụa, lao dịch vất vả còn quân thù “Thằng há miệng… chưa chán”.
+ Sử dụng hình tượng gợi tả, gợi cảm “trúc Nam Sơn”, “nước Đông Hải” – những cái vô cùng vô tận của tự nhiên để diễn tả tội ác của giặc
+ Giọng văn khi thống thiết, đau xót, khi đanh thép kết tội kẻ thù.
c) Cảm nhận về đoạn thơ tái hiện lại quá trình chinh phạt của nghĩa quân Lam Sơn chống kẻ thù
* Giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa:
– Phía quân thù:
+ Lực lượng đông đảo
+ “hung đồ ngang dọc”, thỏa sức tác oai tác quái, phô trương thanh thế
– Phía quân ta:
+ Lực lượng mỏng, yếu
+ Thiếu người tài ra giúp nước “Tuấn kiệt… lá mùa thu”, thiếu quân lính, thiếu lương thực
+ Thứ duy nhất có là lòng yêu nước, lòng căm thù quân giặc sâu sắc “Tấm lòng cứu nước… phía tả”
=> Buổi đầu chống thù của nghĩa quân Lam Sơn vô cùng khó khăn, gian khổ nhưng chúng ta có tinh thần kiên cường, bất khuất, đoàn kết “nhân dân bốn bể một nhà”…
* Vai trò của người lãnh đạo Lê Lợi vô cùng quan trọng:
– Lý tưởng cao đẹp
– Lòng căm thù sâu sắc
– Lòng quyết tâm, coi trọng nhân tài, coi trọng vai trò của nhân dân
– Khả năng thu phục lòng người, tài mưu lược hơn người
* Giai đoạn phản công quyết liệt và giành chiến thắng vẻ vang:
– Tiến đánh các vị trí khác nhau để giành lại các cứ điểm quan trọng: Tây Kinh, Đông Đô, Ninh Kiều, Tốt Động…
– Kết quả trận chiến:
+ Quân ta: Càng đánh lại càng hăng, lần lượt giành thắng lợi ở các trận chiến, thừa thắng xông lên
+ Quân giặc: Liên tiếp bại trận phải bỏ chạy, “thây chất đầy nội”, “kẻ bêu đầu, kẻ bỏ mạng…”, quân sĩ tan tác, tinh thần sa sút, ngoan cố phản công cầu chi viện nhưng bị ta đánh cho tơi bời…
– Nghệ thuật trong đoạn thơ này:
+ Nghệ thuật miêu tả giàu chất anh hùng ca
+ Sử dụng hình tượng đo bằng sự hùng vĩ, rộng lớn của thiên nhiên
+ Sử dụng nhiều động từ, tính từ
+ Câu văn dài ngắn linh hoạt, nhịp điệu nhanh chậm rõ ràng.
d) Cảm nhận về đoạn cuối của tác phẩm: Tuyên bố chiến quả và khẳng định sức mạnh chính nghĩa
– Giọng văn trở nên trầm lắng tuyên bố chiến thắng, khẳng định nền độc lập dân tộc: “Xã tắc từ đây vững bền… đổi mới”
– Niềm tin về một tương lai tươi sáng: Đất nước bước vào kỉ nguyên mới
– Bài học lịch sử: Để vận nước được lâu bền, phải lấy dân làm gốc; lấy tư tưởng nhân nghĩa làm đầu, phải tuân theo “thiên mệnh”; ghi nhớ công lao của cha ông đã hi sinh cho Tổ quốc….
3. Kết bài
– Khẳng định lại giá trị của toàn tác phẩm trong nền văn học dân tộc
– Nêu suy nghĩ, cảm xúc của bản thân.
2. Cảm nhận bài Bình Ngô đại cáo ngắn gọn
Bình Ngô đại cáo được mệnh danh là áng thiên cổ hùng văn nghìn đời còn vang mãi, là áng văn chính luận mẫu mực và hơn tất cả nó còn là bản tuyên ngôn độc lập đầy tự hào của dân tộc. Tác phẩm được Nguyễn Trãi theo lệnh Lê Lợi viết vào năm 1428, là tác phẩm văn học có giá trị to lớn, thể hiện lòng yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, sự kiêu hùng dũng mãnh của nhân dân ta trong cuộc chiến chống quân Minh, đồng thời cũng phản ánh sự tàn bạo của quân thù khi giày xéo lên mảnh đất quê hương.
Cả bài cáo chia làm 4 phần chính được đánh số số thứ tự, mỗi phần bao hàm một nội dung, nhưng bao quát nhất vẫn là tấm lòng yêu nước thật nồng nàn và sâu sắc, cùng ý chí tự cường của nhân dân ta.
Ở phần đầu tiên, Nguyễn Trãi đã nêu ra luận đề chính nghĩa, để khẳng định nền độc lập của dân tộc đã tồn tại từ hàng nghìn năm nay, đồng thời nêu lên tư tưởng nhân nghĩa. Những lý luận, luận điểm được Nguyễn Trãi đưa ra một cách thật xác đáng, có dẫn chứng cụ thể. Trước hết ở mệnh đề tư tưởng nhân nghĩa, Nguyễn Trãi cho rằng “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”, cần phải bảo vệ cuộc sống của nhân dân, cho nhân dân được sống trong thanh bình hạnh phúc, yên ổn làm ăn. “Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”, xuất phát từ điển cố trong kinh thư, là bậc quân vương thì phải tiêu trừ tham tàn bạo ngược, trừ hại cho dân. Từ đó, ta thấy được quan điểm mới mẻ và tiến bộ của Nguyễn Trãi, nhân nghĩa là yêu nước, thương dân, là yêu hòa bình. Lần đầu tiên nhân dân được xuất hiện trong một bộ văn kiện quan trọng, tầm vóc lịch sử của dân tộc, đây là một bước tiến lớn trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi.
“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.”
Tiếp đến, tác giả khẳng định sự tồn tại có độc lập chủ quyền của Đại Việt thông qua 5 yếu tố: Có nền văn hiến lâu đời, có cương vực lãnh thổ riêng, có phong tục tập quán riêng, có truyền thống lịch sử riêng, chủ quyền riêng “mỗi bên xưng đế một phương”. Nguyễn Trãi đã hoàn thiện quan niệm về một quốc gia, dân tộc, tiến một bước dài hẳn so bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên là Nam quốc sơn hà. Ông cũng sử dụng nhiều từ ngữ như: “Từ trước, vốn xưng, đã lâu, đã chia, cũng khác”, đây là những từ ngữ mang sắc thái khẳng định nhằm nhấn mạnh một chân lí không thể dời đổi là nước Đại Việt ta là đất nước có chủ quyền độc lập.
Sang đến đoạn thứ hai, Nguyễn Trãi đi vào vạch rõ những tội ác của giặc Minh, ông đứng trên lập trường của dân tộc, trên lập trường nhân nghĩa để tố cáo sự tàn bạo của kẻ thù. Trước hết, Nguyễn Trãi đứng trên lập trường dân tộc để tố cáo âm mưu cướp nước của giặc Minh, dùng những từ ngữ “nhân” “thừa cơ” để vạch trần luận điệu bịp bợm của nhà Minh “phù Trần diệt Hồ” để che mắt nhân dân ta, nhằm tràn sang xâm lược. Rồi Nguyễn Trãi lại đứng trên lập trường nhân bản, nhân nghĩa, đứng về quyền sống của người dân vô tội để tố cáo chủ trương cai trị phản nhân đạo của kẻ thù. Chúng đã hủy hoại cuộc sống của con người bằng hành động diệt chủng vô cùng tàn bạo “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn/Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”. Rồi còn hủy hoại cả môi trường sống “nặng thuế khóa sạch không đầm núi”, “tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ”. Chúng còn sử dụng người dân như là những công cụ để phục dịch, vơ vét sản vật “Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc”, “Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng”. Nhân dân vô tội đã hoàn toàn bị triệt tiêu đường sống, khổ không tả xiết, tội ác của quân Minh khiến trời không dung đất không tha. Câu “Ai bảo thần nhân chịu được?” như một câu hỏi, một lời tố cáo đầy căm phẫn với kẻ thù.
Nghệ thuật viết cáo trạng của Nguyễn Trãi ở đây bao gồm nghệ thuật tương phản đối lập giữa nhân dân với kẻ thù, dân ta thì nheo nhóc, góa bụa, phải lao động phục dịch vất vả, lên chốn rừng sâu nước độc, còn quân thù thì “Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán”. Tác giả cũng sử dụng những hình tượng gợi tả và gợi cảm “trúc Nam Sơn” và “nước Đông Hải” dùng cái vô cùng của tự nhiên để miêu tả những tội ác nhiều vô số kể của quân Minh. Giọng văn thống thiết đau đớn xót xa khi nói về thảm cảnh của con dân, có lúc lại đanh thép khi kết tội kẻ thù.
Tiếp tục soi chân lý vào thực tiễn tác giả lại nói về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống quân Minh xâm lược, kể lại quá trình chinh phạt đầy gian khổ của nghĩa quân từ buổi đầu đến khi chiến thắng. Giai đoạn đầu đầy cuộc khởi nghĩa bắt đầu với đầy khó khăn và thách thức. Phía quân thù đang mạnh, “hung đồ ngang dọc”, thả sức tác oai tác quái, phô trương thanh thế, còn phía ta thì:
“Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc”
“Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi”
“Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.”
Chúng ta gần như thiếu tất cả, thiếu người tài, thiếu quân lính, thiếu lương thực, thứ có nhiều nhất ấy là tấm lòng yêu nước, lòng căm thù quân giặc sâu sắc “Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông/Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả”. Từ đó, thấy được sự chênh lệch giữa ta và địch là rất lớn, khó khăn chồng chất lên nghĩa quân Lam Sơn, thế nhưng bằng tinh thần kiên cường, bất khuất nghĩa quân vẫn có thể vượt qua tất cả và đi tới thắng lợi. Đó là tấm lòng đoàn kết “nhân dân bốn bể một nhà”, “tướng sĩ một lòng phụ tử”, là bộ óc thông minh sáng tạo, lòng can trường dũng mãnh “Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh/Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều”.
Trong đoạn thứ hai, Nguyễn Trãi còn đề cập đến vai trò của người lãnh tụ, người đóng vai trò nòng cốt lèo lái cuộc khởi nghĩa đó là Lê Lợi. Người anh hùng đã hội tụ đủ những yếu tố của một nhà lãnh tụ vĩ đại đó là: Lòng căm thù giặc sâu sắc “ngẫm thù lớn há đội trời chung, căm giặc nước thề không cùng sống”, có lý tưởng cao đẹp, có lòng quyết tâm, coi trọng nhân tài, coi trọng vai trò của nhân dân biết tập hợp sức mạnh dân tộc. Ông còn có khả năng thu phục lòng người, tạo nên khối đoàn kết vững mạnh và một yếu tố không thể thiếu đó là tài mưu lược hơn người.
Từ giai đoạn đầu đầy khó khăn của cuộc khởi nghĩa nhưng với vai trò của người lãnh tụ kiệt xuất Lê Lợi, cuộc khởi nghĩa đã có nhiều chuyển biến tốt đẹp, bước vào giai đoạn phản công và giành thắng lợi. Ban đầu đó là nghĩa quân tiến đánh các vị trí khác nhau ở phía Bắc để giành lại các cứ điểm quan trọng bao gồm các trận: Tây Kinh, Đông Đô, Ninh Kiều, Tốt Động. Với sĩ khí không ngừng dâng cao “hăng lại càng hăng”, ta liên tục thắng trận, thừa thắng xông lên, quân giặc liên tiếp bại trận phải bỏ chạy, nơi nơi thấy xác “thây chất đầy nội”, kẻ “bêu đầu”, kẻ”bỏ mạng”,tướng giặc vô dụng, quân sĩ thì tan tác. Quân đội ta tuy thấy kẻ địch còn thoi thóp nhưng không hề đuổi cùng diệt tận mà vẫn tha cho con đường sống. Ấy thế mà chúng lại mưu tính chuyện phản công, cầu chi viện, thật ngoan cố hết sức. Chính điều đó đã dẫn đến những trận chặn đánh tiếp theo của nghĩa quân ta ở Chi Lăng, Mã An. Quân giặc có ý định đánh nhanh thắng nhanh, nhưng tinh thần giặc đã sa sút, lại gặp sĩ khí quân ta bừng bừng nên sớm phải thất bại, xin hàng. Nghệ thuật miêu tả giàu chất anh hùng ca, sử dụng những hình tượng đo bằng sự hùng vĩ, rộng lớn của thiên nhiên. Dùng nhiều động từ liên tiếp, tính từ ở mức độ tối đa để tạo thế tương phản của ta và địch, câu văn dài ngắn linh hoạt khiến cho nhịp điệu bài cáo nhanh chậm rõ ràng, tựa như tiếng ngựa phi, tiếng bước chân chạy hào hùng. Đọc mà tưởng như nhìn thấu cả cuộc chiến phong vân đổi dời.
Phần bốn là phần tuyên bố chiến quả và khẳng định sức mạnh chính nghĩa. Khác với giọng văn dồn dập, tiết tấu nhanh của đoạn 3, ở đây giọng văn lại mang sắc thái trầm lắng, như qua cơn mưa trời lại sáng, yên ả thanh bình. “Xã tắc từ đây vững bền/ Giang sơn từ đây đổi mới”, tuyên bố chiến thắng, khẳng định nền độc lập dân tộc đã được giành lại, vận nước đang lên. Tựa như quẻ Càn, quẻ Khôn trong Kinh Dịch, tựa như quy luật của nhật nguyệt, đó là niềm tin của tác giả vào một tương lai tươi sáng. Từ đây, nước ta chính thức bước vào kỷ nguyên mới, một kỷ nguyên độc lập vững bền sau hơn 20 năm sống trong cảnh nhọc nhằn. Từ đó, Nguyễn Trãi cũng rút ra những bài học lịch sử sâu sắc, từ quy luật của Càn, Khôn, quy luật của nhật nguyệt giúp ta liên tưởng đến vận mệnh của đất nước, cũng có lúc lên lúc xuống, có hưng thịnh thì cũng có lúc suy tàn. Để vận nước được lâu bền, ta phải lấy nhân dân làm gốc, lấy tư tưởng nhân nghĩa làm đầu, phải tuân theo “thiên mệnh”, ghi nhớ công lao của cha ông đã hy sinh cho Tổ quốc, đừng vì sống trong cảnh thanh bình mà quên mất những ngày gian khó.
Bình Ngô đại cáo xứng đáng là bản thiên anh hùng ca bất tận, là áng thiên cổ hùng văn, bản tuyên ngôn độc lập xuất sắc lưu danh mãi muôn đời. Ở đó, thể hiện được những tư tưởng nhân nghĩa và tiến bộ của Nguyễn Trãi trong quan niệm về một quốc gia. Tác phẩm vừa là tuyên ngôn khẳng định chủ quyền độc lập dân tộc, đồng thời cũng là tuyên ngôn về quyền sống của con người, mà trước đây chưa từng một văn bản nào đề cập đến. Nhân dân ta đã được đẩy lên tầm cao mới đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành đất nước, đó là một quan điểm rất tiến bộ và xuất sắc trong nhận thức của đại thi hào dân tộc Nguyễn Trãi.
3. Cảm nhận về tác phẩm Bình Ngô đại cáo
Nguyễn Trãi danh nhân văn hóa thế giới, ông để lại sự nghiệp sáng tác đồ sộ. Bình Ngô đại cáo là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Trãi. Tác phẩm là bản tổng kết cuộc kháng chiến chống quân Minh đầy gian lao mà cũng vô cùng hào hùng của dân tộc.
Sau khi quân ta đại thắng, tiêu diệt và làm tan rã mười lăm vạn viện binh của giặc Minh, tướng giặc Vương Thông buộc phải giảng hoà, chấp nhận rút quân về nước. Cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi, chấm dứt hai mươi năm thảm khốc dưới ách đô hộ của giặc Minh, mở ra kỉ nguyên hoà bình lâu dài cho dân tộc. Nguyễn Trãi thừa lệnh chủ soái Lê Lợi viết Đại cáo bình Ngô. Đây là một bản tổng kết về cuộc kháng chiến vĩ đại để báo cáo rộng rãi cho toàn dân được biết.
Với nghệ thuật chính luận chặt chẽ và cảm hứng trữ tình sâu sắc, tác giả đã tố cáo tội ác tày trời của kẻ thù xâm lược, đồng thời ca ngợi sức mạnh thần kì của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Toàn bộ nội dung Đại cáo bình Ngô được triển khai trên cơ sở tư tưởng nhân nghĩa và chân lí về chủ quyền độc lập của nước Đại Việt.
Có một chi tiết xưa nay ít ai để ý nhưng thật ra nó rất có ý nghĩa, đó là tại sao Nguyễn Trãi lại gọi quân xâm lược nhà Minh là giặc Ngô và viết Đại cáo bình Ngô? Từ Ngô xuất hiện từ khi nhà Ngô đời Tam Quốc xâm chiếm và cai trị nước ta hết sức tàn ác. Sau đó, từ Ngô nhập vào vốn ngôn ngữ dân gian của Đại Việt và trải qua hàng nghìn năm, nó được dùng để chỉ quân giặc phương Bắc nói chung với thái độ khinh bỉ. Như vậy là Nguyễn Trãi đã cố ý dùng cách gọi mà nhân dân quen gọi để bày tỏ thái độ căm phẫn và coi thường của mình.
Nguyễn Trãi mở đầu bài cáo bằng đạo lí nhân nghĩa được xây dựng trên nền tảng là tư tưởng thân dân mà ông rất coi trọng:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Nhân nghĩa là mối quan hệ giữa con người với con người được xây dựng bằng tình thương yêu và đạo lí. Điều đáng nói hơn nữa là Nguyễn Trãi đã đưa vào tư tưởng nhân nghĩa một nội dung mới rút ra từ thực tiễn của lịch sử dân tộc. Theo ông, yên dân trước hết là phải trừ bạo để cho dân được sống yên lành, hạnh phúc trong một đất nước độc lập, hoà bình.
Trong bài văn này cũng như trong các tác phẩm khác của Nguyễn Trãi, không chỉ là dân đen, con đỏ chung chung mà đã cụ thể ra là manh, lệ (kẻ đi cày, người đi ở), là dân mọn nơi xóm làng, là nhân dân lao động ở khắp bốn phương đất nước. Giặc giày xéo đất nước đồng nghĩa với giày xéo nhân dân. Lo nước tức lo dân, thương nước tức thương dân, cứu nước tức cứu dân. Nước và dân là một.
Nhân nghĩa không còn hạn hẹp trong phạm vi đạo đức mà đã là một lí tưởng xã hội, một đường lối chính trị lấy dân làm gốc (dân vi bản) làm chỗ dựa. Vì thế phải chăm lo cho dân chúng được no ấm, bình yên.
Tư tưởng nhân nghĩa gắn liền với sự nghiệp chống xâm lược. Nhân nghĩa là chống xâm lược, chống xâm lược là nhân nghĩa. Như vậy là Nguyễn Trãi đã bóc trần luận điệu nhân nghĩa xảo trá của địch và phân định rạch ròi ta là chính nghĩa, giặc là phi nghĩa.
Dân tộc ta vùng lên chiến đấu chống xâm lược là phù hợp với đạo lí nhân nghĩa, cho nên sự tồn tại có chủ quyền độc lập của quốc gia Đại Việt cũng là một chân lí khách quan.
Sau đó, Nguyễn Trãi viết tiếp bằng giọng văn hào hùng, thể hiện lòng tự hào, tự tôn về đất nước có một nền văn hiến lâu đời:
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
So hào hào kiệt đời nào cũng có
Đại Việt là một đất nước có cương vực, ranh giới rõ ràng (Tiệt nhiên định phận tại thiên thư – Thơ Thần), từ lâu đời đã song song tồn tại cùng các quốc gia phương Bắc. Phong tục tập quán cũng khác hẳn phương Bắc. Các triều đại vua Nam xưng đế, hùng cứ một phương, chứ không phải là chư hầu. Truyền thống văn hiến có tự ngàn năm cùng với hào kiệt đời nào cũng có đã khẳng định Đại Việt là quốc gia có chủ quyền độc lập, tự do.
So với bài Thơ Thần của Lí Thường Kiệt thì Đại cáo binh Ngô thực sự là một bước tiến dài của Nguyễn Trãi trong việc hoàn chỉnh khái niệm về quốc gia và dân tộc. Lí Thường Kiệt với bài Thơ Thần cũng nhấn mạnh chủ quyền dân tộc ở lãnh thổ riêng biệt, ở ý chí độc lập thể hiện trong việc xưng đế, trong sức mạnh đánh bại quân xâm lược để bảo vệ nền độc lập ấy. Nhưng Nguyễn Trãi đã nâng cao khái niệm đó lên rất nhiều. Các vua Nam cũng xưng đế chẳng khác gì các đời vua của Trung Quốc: mỗi bên xưng đế một phương, hoàn toàn ngang hàng, bình đẳng. Nguyễn Trãi cũng nói đến bờ cõi riêng biệt, nhưng không viện đến quy định của trời mà nói đến truyền thống văn hiến, tức nói đến nền văn hoá của con người sống trên bờ cõi đó, có nghĩa là nói đến một dân tộc với đầy đủ tư cách độc lập. Như vậy, chủ quyền của quốc gia Đại Việt là một chân lí tất nhiên, không có bạo lực nào xâm phạm nổi. Tác giả đã chứng minh cho đạo lí nhân nghĩa bằng chính những chứng cứ còn ghi trong lịch sử:
Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi.
Sự thất bại thảm hại của Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã Nhi được tác giả đưa ra để nhấn mạnh ý: Những thế lực phi nghĩa ắt phải tiêu vong, đồng thời khẳng định chiến thắng luôn đứng về phía những người đấu tranh cho chính nghĩa. Cách lập luận của Nguyễn Trãi trong đoạn này thật hùng hồn và sắc sảo.
Chỉ bằng hai mươi bốn câu, với những chi tiết cụ thể và nhận định khái quát, tác giả đã vẽ ra thảm cảnh của dân tộc Đại Việt dưới ách đô hộ của giặc Minh. Cả đất nước chỗ nào thịt da cũng như rướm máu, chỗ nào cũng vang lên tiếng thét căm giận, oán than. Nguyễn Trãi đã viết nên một bản cáo trạng đanh thép kết tội bọn bán nước và quân cướp nước.
Trước hết, tác giả vạch trần âm mưu xâm lược, sau đó lên án chủ trương cai trị thâm độc và cuối cùng là tố cáo mạnh mẽ những hành động tội ác của giặc Minh:
Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán giận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,
Bọn gian tà bán nước cầu vinh.
Nguyễn Trãi vạch trần âm mưu cướp nước Đại Việt của giặc Minh đã có từ lầu, đồng thời vạch trần luận điệu bịp bợm “phù Trần diệt Hồ”, để “mượn gió bẻ măng” của chúng. Việc nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần chỉ là một nguyên nhân, đúng hơn chỉ là một cái cớ để giặc Minh thừa cơ gây hoạ. Những từ như nhân (nhân dịp), thừa cơ đã góp phần phơi bày luận điệu giả nhân giả nghĩa của chúng. Điều đáng lưu ý là khi vạch rõ âm mưu xâm lược của nhà Minh, Nguyễn Trãi đã đứng trên lập trường dân tộc, nhưng khi tố cáo chủ trương cai trị thâm độc và tội ác của giặc thì Nguyễn Trãi đứng trên lập trường nhân nghĩa:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Ông đã tố cáo tội ác của chúng bằng hai hình ảnh rất ấn tượng: nướng dân đen, vùi con đỏ, vừa diễn tả một cách rất cụ thể tội ác man rợ kiểu trung cổ của lũ giặc, vừa mang tính khái quát như khắc vào bia căm thù để muôn đời người dân nước Việt nguyền rủa quân xâm lược bạo tàn.
Ở Đại cáo bình Ngô, Nguyễn Trãi không đi sâu vào việc tố cáo chủ trương đồng hoá thâm độc mà tố cáo những chủ trương cai trị phản nhân đạo của giặc Minh. Chúng không chỉ vơ vét hết các sản vật quý báu mà còn bóc lột sức người, sức của bằng thuế má, phu phen, dâng nạp cống vật và huỷ hoại cả môi trường sống, tàn sát dân chúng vô tội không biết ghê tay. Người dân nước Nam sống trong tình cảnh bi đát đến cùng cực. Cái chết đợi họ trên rừng, dưới biển, đúng như lời bài cáo đã nêu:
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Đối lập với thảm cảnh của người dân vô tội là hình ảnh kẻ thù xâm lược hung hãn, man rợ: Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán. Câu văn đã khắc hoạ bộ mặt quỷ sứ khát máu của quân xâm lược.
Để diễn tả tội ác chất chồng của giặc và khối căm hờn sôi sục của nhân dân ta, Nguyễn Trãi đã kết thúc bản cáo trạng bằng hai câu văn mang ý nghĩa khái quát rất cao:
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Tác giả đã lấy cái vô hạn (trúc Nam Sơn) để so sánh với cái vô hạn (tội ác của giặc), dùng cái vô cùng (nước Đông Hải) để nói cái vô cùng (sự dơ bẩn của kẻ thù). Câu văn đầy hình tượng ấy đã giúp chúng ta cảm nhận sâu sắc tội ác của giặc Minh xâm lược. Dân tộc ta chỉ còn con đường duy nhất là đứng lên hành động:
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần nhân chịu được?
Lời văn trong bản cáo trạng vừa hùng hồn, vừa thống thiết. Khi thì uất hận trào sôi, khi thì cảm thương da diết; lúc muốn thét thật to, lúc nghẹn ngào, căm tức. Tất cả cùng một lúc diễn tả những cung bậc khác nhau trong tâm tư tình cảm của Nguyễn Trãi. Đại cáo bình Ngô chứa đựng những nội dung thiết yếu của một bản “tuyên ngôn độc lập” bởi chính những nội dung đã phân tích ở trên.
Nguyễn Trãi đã phản ánh chân thực giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn bằng bút pháp tự sự kết hợp với trữ tình. Tác giả đã khắc hoạ thành công hình tượng Lê Lợi trong buổi đầu dấy nghiệp đầy gian khổ:
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang dã nương mình.
Trong hình tượng Lê Lợi có sự thống nhất hài hoà giữa con người bình thường và thủ lĩnh nghĩa quân. Lê Lợi xứng đáng là linh hồn của cuộc khởi nghĩa bởi ông có khả năng tổ chức, tập hợp, đoàn kết mọi người, đồng thời có phẩm chất của một nhà quân sự, chính trị tài ba. Lê Lợi căm thù giặc sâu sắc và có quyết tâm cao độ để thực hiện lí tưởng đánh đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi đất nước:
Ngẫm thù lớn há đội trời chung,
Căm giặc nước thề không cùng sống.
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời;
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh;
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kĩ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi.
Ngẫm thù lớn há đội trời chung, căm giặc nước thề không cùng sống là thái độ và chí hướng của lãnh tụ. Đau lòng nhức óc, nếm mật nằm gai, quên ăn vì giận… là sự rèn luyện, thử thách đối với bản thân, từ trái tim đến khối óc. Không phải một sớm một chiều mà là suốt mười mấy năm trời. Bởi vì trong tâm trí lúc nào cũng canh cánh mối lo toan cứu nước, cứu dân cho nên Lê Lợi luôn ở trọng tâm trạng: Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi. Qua hình tượng Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã nói lên được tính chất nhân dân của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Lúc đầu, so sánh tương quan lực lượng giữa hai bên thì ta yếu hơn giặc rất nhiều:
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đương mạnh.
Buổi đầu của cuộc khởi nghĩa vô cùng gian nan, thiếu thốn. Lê Lợi và nghĩa quân đã phải vượt qua muôn ngàn khó khăn, gian khổ: Tuấn kiệt như sao buổi sớm, Nhân tài như lá mùa thu. Thiếu quân, thiếu lương nhưng nhờ tấm lòng cứu nước, nhờ tướng sĩ một lòng phụ tử mà cuộc khởi nghĩa đã vượt qua những khó khăn thử thách và ngày càng lớn mạnh, đủ sức tổng phản công giành thắng lợi.
Vậy sức mạnh nào đã giúp nghĩa quân Lam Sơn vượt qua những khó khăn nói trên? Trước hết, nghĩa quân có sức mạnh của tư tưởng nhân nghĩa, của ý thức dân tộc, của mục đích chiến đấu là nhằm mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân, bảo vệ nền độc lập và truyền thống văn hiến lâu đời của quốc gia Đại Việt. Sau đó, yếu tố quan trọng quyết định thắng lợi của cuộc khởi nghĩa là tài trí mưu lược, phẩm chất anh hùng của Lê Lợi. Ông thể hiện rất rõ vai trò của một bậc minh chủ: căm thù giặc sâu sắc, tự tin, tự nguyện đặt vận mệnh của quốc gia, dân tộc lên vai mình.
Với nghệ thuật chính luận tài tình, với cảm hứng trữ tình sâu sắc, Đại cáo bình Ngô tố cáo tội ác kẻ thù xâm lược, ca ngợi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Trên cơ sở chân lí chính nghĩa tất thắng, Nguyễn Trãi đã viết nên áng “thiên cổ hùng văn”, giống như một tượng đài chiến thắng hoành tráng, cao vút giữa bầu trời nước Việt.
Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Tài liệu của Tmdl.edu.vn.
Bạn có thể tải về tập tin thích hợp cho bạn tại các liên kết dưới đây.
Trang chủ: tmdl.edu.vn
Danh mục bài: Văn Học