Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử lớp 11 ngắn gọn bao gồm dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy cùng 25 bài văn mẫu hay nhất được thầy cô chọn lọc từ các bài văn hay của các em học sinh giỏi trên toàn quốc sẽ giúp các em có thêm nhiều ý tưởng mới lạ để hoàn thiện bài phân tích của mình. Đồng thời sẽ giúp các em cảm nhận được hồn thơ độc đáo và thế giới tình cảm đầy phong phú, nhạy cảm của Hàn Mặc Tử được thể hiện qua bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ và bức tranh tâm cảnh của người thi sĩ.
Đề bài: Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
Bạn đang xem bài: Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử lớp 11 hay nhất (25 Mẫu)
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?
Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nhìn không ra…
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,
Ai biết tình ai có đậm đà?
Dàn ý phân tích Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 1
I. Mở bài:
Giới thiệu tác giả, tác phẩm
– Hàn Mặc Tử là nhà thơ tiêu biểu cho phong trào thơ mới.
– Bài thơ được rút ra từ tập Thơ Điên.
– Nội dung: Bài thơ là tình cảm hồi đáp mà Hàn Mặc Tử gửi cho Hoàng Thị Kim Cúc khi Hoàng Thị Kim Cúc gửi thư chúc ông chóng lành bệnh kèm một bức tranh phong cảnh.
– Bài thơ là sự đan xen hòa quyện giữa cảnh và tình nơi xứ Huế mộng mơ, nhẹ nhàng.
II. Thân bài:
Khổ 1: Cảnh thiên nhiên xứ Huế
Câu 1:
Sao anh không về chơi thôn Vỹ
Câu thơ là dấu chấm hỏi lửng, thể hiện nỗi lòng nhớ thương, băn khoăn
– Đó là lời mời thân thiện, gắn bó
– Là lời trách móc, giận hờn khéo léo, thiết tha
– Thể hiện thời gian đã lâu rồi tác giả chưa ghé thăm thôn Vỹ.
Câu 2,3:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt qua xanh như ngọc
– Cảnh vật thiên nhiên hiện lên thật đẹp, căng tràn sức sống, tươi xanh
– Cảnh vật mang trong mình vẻ đẹp thanh tao, dịu nhẹ
– Tạo cho người đọc một cảm giác sảng khoái, êm đềm, du dương, bay bổng
Câu 4:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
– Hai hình dạng đối lập: vuông vức mặt chữ điền với dáng vẻ manh mai, thanh tao của lá trúc
– Thể hiện duyên dáng, nhịp nhàng, e thẹn của những cô gái xinh xắn, tài sắc, phúc hậu của người con gái thôn quê.
Khổ 2: Bức tranh thiên nhiên nhuốm màu tâm trạng
– Vẻ đẹp của tạo hóa hiện lên với 2 màu sắc đan xen: cảnh đẹp nhưng lại buồn, mang dáng dấp sự chia lìa, lẻ loi: gió theo lối gió, mây đường mây.
– Cuộc chia lìa ấy ghi vào lòng sông những cung bậc thê lương: dòng nước buồn thiu; hoa bắp lay lắt, nổi trôi.
– Cảnh vật chỉ là bức màn biểu hiện cho lòng người “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Cảnh thật đẹp còn người lại chẳng thể về để thưởng thức thì cảnh liệu rằng còn đẹp nữa hay chăng. Vỹ Dạ nhớ anh, lòng em cũng nhớ anh, mong anh.
Câu 3,4:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Trăng vốn là hình ảnh quen thuộc trong thơ Hàn Mặc Tử. Trăng là nơi để con người ta gửi gắm tình cảm, chút tâm tư sâu lắng. Thế nhưng o đây lại là “bến sông trăng”. Đây vừa là hình ảnh tả thực- ánh trăng chiếu xuống mặt nước, lan tỏa trên mặt nước vừa là hình ảnh biểu trưng- sự vô định (thuyền ai), mênh mông dạt dòa. Nỗi niềm tâm tư của tác giả như lan tỏa, thấm sâu, rộng lớn vô ngàn. Trong người lúc này là sự rưng rưng, xót xa, man mác đến nhói lòng.
– Mở rộng: Đúng như Hoài Thanh viết về Hàn Mặc Tử, trong “Thi nhân Việt Nam” : “Vườn thơ của người rộng rinh không bờ bến, càng đi xa càng ớn lạnh”.
Khổ 3: Mộng ảo của tâm hồn thi nhân.
– Khổ thơ là lời bộc bạch trần tình tả thực về bệnh tình của tác giả: bệnh tình của người khiến hạn chế về thị giác: nhìn không ra, mờ nhân ảnh. Từ đó, khiến cho con người rơi vào cô đơn; ngậm ngùi.
– Thể hiện những mộng tưởng đơn giản: mở khách đường xa khách đường xa, tác giả mong mình có thể được đến thôn để Vỹ thưởng thức cảnh và gặp người thôn Vỹ, để đáp lại tình cảm trân quý từ người bạn của mình.
– Áo em trắng quá nhìn không ra:
+ Hình ảnh người phụ nữ thướt tha uyển chuyển trong tà áo dài xứ Huế.
+ Ánh mắt anh do sự ảnh hưởng sức khỏe đã không thể chiêm ngưỡng được hết vẻ đẹp của em nhưng vẫn cảm nhận được hình bóng và dáng vẻ dịu dàng của em.
Ở đây sương khói mở nhân ảnh: Quang cảnh thiên nhiên nơi tác giả sinh sống. Với tác giả mọi thứ giờ đây chỉ là ảo ảnh, mơ hồ, không hiện diện được rõ nét nữa.
Ai biết tình ai có đậm đà: Dù trong bệnh tật đau đớn, khó khăn, cô đơn nhưng trái tim tác giả vẫn đong đầy yêu thương: đó là tình yêu quê hương đất nước, xứ xở và tình cảm mãnh liệt gửi gắm đến em.
Tình cảm ấy lúc nào cũng dạt dào, đậm đà, say mê.
III. Kết bài
Nghệ thuật:
– Chuyển mạch thơ linh hoạt: không theo sự vận động của không gian thời gian nhưng nhất quán và đồng điệu với tâm tư lòng người.
– Hình ảnh thơ giàu sức gợi, độc đáo, sử dụng những gam màu nóng nhẹ đan xen nhẹ nhàng: mướt quá, xanh, nắng,… => Tạo nên cõi trần gian hư thực mơ mộng, bay bổng và tuyệt đẹp.
– Các câu hỏi tu từ cuối mỗi dòng thơ, mang nỗi niềm da diết khắc khoải.
– Nhịp điệu thơ không theo một quy luật nào mà bị chi phối bởi dòng chảy cảm xúc và nội tâm chính tác giả.
=> Thể hiện sâu sắc nỗi lòng tác giả muốn gửi gắm.
Nội dung:
– Thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước của tác giả.
– Tình yêu mãnh liệt, nồng nàn dành cho người bạn Hoàng Thị Kim Cúc.
– Khát khao cháy bỏng, mãnh liệt được sống để cảm nhận và tận hưởng cho kì hết những cái đẹp về cảnh và người nơi trần thế.
Dàn ý phân tích Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 2
I. Mở bài
– Giới thiệu về tác giả
– Giới thiệu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
II. Thân bài
1. Phân tích khổ 1: Bức tranh tuyệt đẹp về cảnh vật, con người xứ Huế.
– Bức tranh được hiện lên qua lời mời trong đó hàm chứa sự trách móc mà thân thiết:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
– Cảnh vật hiện lên qua vài nét phác họa nhẹ nhàng, duyên dáng, đầy ấn tượng của màu xanh như ngọc của ánh sáng tinh khôi buổi ban mai.
– Cuối cùng là nét chấm phá độc đáo tương phản giữa cái vuông vức của khuôn mặt chữ điền với chiếc lá trúc che ngang, gợi lên nét tinh nghịch mà dịu dàng, dễ thương vốn dĩ ở thôn quê.
2. Phân tích khổ 2: Cảnh buồn qua cái nhìn đầy nội tâm.
– Cảnh đẹp và thơ mộng, nhưng lay lắt buồn bã trong cảm giác chia lìa bằng hình thức thơ độc đáo: Gió theo lối gió / mây đường mây. Dòng sông như tấm gương ghi nhận hình ảnh chia lìa đó, nên buồn thiu, hoa bắp cúng lay lắt buồn thiu, chia sẻ với tâm trạng nhà thơ.
– Trăng chiếm một dung lượng khá lớn trong thơ Hàn Mặc Tử và ánh trăng thật kì lạ, khác thường. Ta từng gặp trong thơ của ông, hình ảnh:
Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi
(Bẽn lẽn)
– Câu phiếm định: “thuyền ai?”, rồi lại “bến sông trăng”. Quả thật, đúng như Hoài Thanh viết về Hàn Mặc Tử, trong “Thi nhân Việt Nam”: “Vườn thơ của người rộng rinh không bờ bến, càng đi xa càng ớn lạnh”.
3. Phân tích khổ cuối: Cảnh vật, con người đều chìm sâu vào mộng ảo.
– Cõi lòng nhà thơ dường như chìm vào mộng tưởng (mơ khách đường xa). Bệnh tật cũng đã khiến nhà thơ rơi vào trạng thái buồn đau ảo giác (nhìn không ra, mờ nhân ảnh). Bởi vậy, con người cảnh vật tất cả đều nhòa mờ trong cô đơn, ngậm ngùi.
– Trong cô đơn, ngậm ngùi, trong mộng ảo đau thương, nhưng lòng nhà thơ vẫn cứ âm thầm muốn gởi đến con người, cuộc đời một thông điệp, nó như lời trần tình tội nghiệp:
Ai biết tình ai có đậm đà?
– Ta chưa thể quyết rằng cậu thơ ấy thể hiện tình yêu nước của Hàn Mặc Tử đến mức nào. Thế nhưng, chắc chắn rằng Hàn Mặc Tử rất yêu cuộc đời, rất yêu quê hương xứ sở. Ta cũng không ngờ trong tập Thơ Điên lại có những vần thơ đậm đà, chan chứa tình quê đến thế.
III. Kết bài
– Khái quát lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm
Sơ đồ tư duy phân tích Đây thông Vĩ Dạ chi tiết
25 Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ lớp 11 hay nhất
Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 1
Hàn Mặc Tử – một trái tim, một tâm hồn lãng mạn dạt dào yêu thương đã bật lên những tiếng thơ, tiếng khóc của nghệ thuật trước cuộc đời. Những phút giây xót xa và sung sướng, những phút giây mà ông đã thả hồn mình vào tronq thơ, những giây phút ông đã chắt lọc, đã thăng hoa từ nỗi đau của tâm hồn mình để viết lên những bài thơ tuyệt bút. Và bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đã được ra đời ngay trong những phút giây tuyệt diệu ấy. Ở bài thơ, cái tình mặn nồng trong sáng đã hòa quyện với thiên nhiên tươi đẹp, mối tình riêng đã ở trong mối tình chung hồn thơ vẫn đượm vẻ buồn đau.
Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ tình hay nhất của Hàn Mặc Tử. Một tình yêu thiết tha man mác, đượm vẻ u buồn ẩn hiện giữa khung cảnh thiên nhiên hoà vào lòng người, cái thực và mộng, huyền ảo và cụ thể hoà vào nhau.
Mở bài đầu thơ là một lời trách móc nhẹ nhàng của nhân vật trữ tình.
Sao anh không về chơi thôn Vĩ.
Chỉ một câu hỏi thôi! Một câu hỏi của cô gái thôn Vĩ nhưng chan chứa bao yêu thương mong đợi. Câu thơ vừa có ý trách móc vừa có ý tiếc nuối của cô gái đối với người yêu vì đã bỏ qua được chiêm ngưỡng vẻ đẹp mặn mà, ấm áp tình quê của thôn Vĩ – vùng nông thôn ngoại ô xinh xắn thơ mộng, một phương diện của cảnh Huế.
Chúng ta hãy chú ý quan sát, tận hưởng vẻ đẹp của thôn Vĩ:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Nét đặc sắc của thôn Vĩ – quê hương người con gái gợi mở ở câu đầu tiên đã được tả rõ nét. Một bức tranh thiên nhiên tuyệt tác rộng mở trước mắt người đọc. Hình ảnh nắng tưới lên trên ngọn cau tươi đẹp, tràn đầy sức sống. Nắng mới là nắng sớm bắt đầu của một ngày, những hàng cau cao vút vươn mình đón lấy những lia nắng sớm kia, và tất cả tràn ngập ánh nắng và buổi bình minh. Cái nắng hàng cau nắng mới lên sao lại gợi một nỗi niềm làng quê hương đến thế. Câu thơ này bất chợt khiến ta nghĩ tới những câu thơ Tố Hữu trong bài thơ Xuân lòng.
Nắng xuân tươi trên thân dừa xanh dịu Tàu cau non lấp loáng muôn gươm xanh Ánh nhởn nhơ đùa quả non trắng phếu Và chảy tan qua kẽ lá cành chanh.
Nắng mới cũng còn có ý nghĩa là nắng của mùa xuân, mở đầu cho một năm mới nên bao giờ nó cũng bừng lên rực rõ nồng nàn. Đó là những tia nắng đầu tiên rọi xuống làng quê mà trước nó chiếu vào những vườn cau làm cho những hạt sương đêm đọng lại sáng lên, lấp lánh như những viên ngọc được dính vào chiếc choàng nhung xanh mịn:
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Cái nhìn như chạm khẽ vào sắc màu của sự vật để rồi bật lên một sự ngạc nhiên đên thẫn thờ. Đến câu thơ này, ta bắt gặp cái nhìn của thi nhân đã hạ xuống thấp hơn và bao quát ở chiều rộng. Một khoảng xanh của vườn tược hiện ra, nhắm mắt lại ta cũng hình dung ra ngay cái màu xanh mượt mà, mỡ màng của vườn cây. Ta không chỉ cảm nhận ở đó màu xanh của vẻ đẹp mà nó còn tràn trề sức sống mơn mởn. Những tán lá cành cây được sương đêm gột rửa trở thành cành lá ngọc. Không phải xanh mượt, cũng không phải xanh mỡ màng mà chỉ có xanh như ngọc mới diễn tả được vẻ đẹp ngồn ngộn, sự sống của vườn tược. Một màu xanh cao quí, lấp lánh, trong trẻo làm cho vườn cây càng sáng bóng lên. Hình như cả vườn cây đều tắm trong luồng không khí đang còn run rẩy sự trinh bạch nguyên sơ chưa hề nhuốm bụi. Lăng kính không khí ấy làm hiện rõ hơn đường nét màu sắc của cảnh sắc mà mắt thường chúng ta bỏ qua. Nếu không có một tình yêu sâu nặng nồng nàn đối với Vĩ Dạ thì Hàn Mặc Tử không thể có được những vần thơ trong trẻo như vậy. Ai từng sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, đặc biệt ở xứ Huế thì mới thấm thìa những vần thơ này:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Trong vườn thôn Vĩ Dạ kia, nhành lá trúc và khuôn mặt chữ điền sao lại có mối liên quan bất ngờ mà đẹp thế: những chiếc lá trúc thanh mảnh, thon thả che ngang gương mặt chữ điền. Mặt chữ điền – khuôn mặt ấy càng hiện ra thấp thoáng sau lá trúc mơ màng, hư hư thực thực.
Thôn Vĩ Dạ nằm cảnh ngay bờ sông Hương êm đềm. Vì thế mà từ cách tả cảnh làng quê ở khổ thơ đầu hé mở tình yêu, tác giả chuyển sang tả cảnh sông với niềm bâng khuâng, nỗi nhớ mong sầu muộn hư ảo nhưưong giấc mộng:
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Gió và mây để gợi buồn vì nó trôi nổi, lang thang thì nay lại càng buồn hơn gió đi theo đường gió, mây đi theo đường mây, gió và mây xa nhau; không thể là bạn đồng hành, không thể gặp gỡ và sự xa cách của nhà thơ đối với người yêu có thể là vĩnh viễn. Phải chăng đây là cảm giác của nhà thơ trong xa cách nhớ thương, và đây cũng là mặc cảm của những con người xưa trong cuộc sống. Nỗi buồn về sự chia ly, tiễn biệt đọng lại trong lòng người phảng phất buồn và mang một nỗi niềm xao xác. Chúng ta không còn thấy giọng tươi mát đầy sức sống ở đoạn trước nữa, chúng ta gặp lại Hàn Mặc Tử – một tâm hồn đau buồn, u uất:
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Dòng sông Hương hiện ra mới buồn làm sao với những bông hoa bắp màu xám tẻ nhạt, ảm đạm như màu khói. Với một tâm hồn mãnh liệt như Hàn Mặc Tử thì dòng sông trôi lững lờ của xứ Huế chỉ là dòng sông buồn thiu gợi cảm giác buồn lặng, quạnh quẽ. Hoa hắp cũng lay nhè nhẹ trong một nỗi buồn xa vắng. Sự thay đổi tâm trạng chính là thái độ của những người sông trong vòng đời tối lăm, bế tắc. Mặt nước sông Hương êm quá gợi đến những bến bờ xa vắng, những mảnh bèo trôi dạt lênh đênh của số kiếp người. Tâm trạng thoắt vui – thoắt buồn mà buồn thì nhiều hơn, ta đã gặp rất nhiều ở các nhà thơ lãng mạng khác sống cùng với thời Hàn Mặc Tử. Ý thơ thật buồn, được nối tiếp trong hai câu sau nhưng với cách diễn đạt, thật tuyệt diệu, thực đấy mà mộng đấy:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Cỏ chở trăng về kịp tối nay?
Tất cả như tan loãng trong vầng trăng thân thuộc của Hàn Mặc Tử. Cảnh vật thiên nhiên tràn ngập ánh sáng, một ánh trăng vàng sáng loáng chiếu xuống dòng sông, làm cho cả dòng sông và những bãi bồi lung linh, huyền ảo. Cảnh nên thơ quá, thơ mộng quá! Và cũng đa tình quá! Dòng nước buồn thiu đã hoá thành dòng sông trăng lung linh, con thuyền khách đã trở thành thuyền trăng. Tác giả đã gửi gắm một tình yêu khát khao, nỗi ngóng trông, mong nhớ vào con thuyền trăng, vào cả dòng sông trăng. Thơ lồng trong ngôn ngữ thơ thật là tài tình, thật là đẹp với xứ Huế mộng mơ. Tác giả đã lướt bút viết nên những câu thơ nhẹ nhàng, sâu kín nhưng hàm chứa cả tình yêu bao la, nồng cháy đến vô cùng. Vầng trăng trong hai câu thơ này là vầng trăng nguyên vẹn của thi nhân trước mảnh tình yêu chưa bị phôi pha. Hàn Mặc Tử rất yêu trăng nhưng trăng ở các bài thơ khác không giống thế này. Một ánh trăng gắt gao, kỳ quái, một ánh trăng khêu gợi, lả lơi:
Gió tít tầng cao trăng ngã ngửa
Vờ tan thành vũng đọng vàng kho.
Hay:
Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi.
Trăng trở thành một khí quyển bao quanh mọi cảm giác, mọi suy nghĩ của Hàn Mặc Tử, hơn nữa nó còn lẫn vào thân xác ông. Nó là ông là trời đất, là người ta. Trăng biến thành vô lượng trong thơ ông, khi hữu thể khi vô hình, khi mê hoặc khi kinh hoàng:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tôi nay?
Vầng trăng ở đây phải chăng là vầng trăng hạnh phúc và con thuyền không kịp trở về cho người trên bến đợi? Câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương lai. Hàn Mặc Tử hiểu căn bệnh của mình nên ông mặc cảm về thời gian cuộc đời ngắn ngủi, vầng trăng không về kịp và Hàn Mặc Tử cũng không đợi vầng trăng hạnh phúc đó nữa, một năm sau ông vĩnh biệt cuộc đời.
Nhưng hiện tại, con người đang sống và đang tiếp tục giấc mơ:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra;
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Trái tim khao khát yêu thương, những nỗi đau kỉ niệm tình yêu ấy, ông đã gửi tất cả vào những trang thơ. Và rồi tất cả như trôi trong những giấc mơ của ước ao, hi vọng. Màu áo trắng cũng là màu ánh nắng của Vĩ Dạ mà nhìn vào đó tác giả choáng ngợp, thấy ngây ngất trước sự trong trắng, thanh khiết, cao quý của người yêu.
Hình như giữa những giai nhân áo trắng ấy với thi nhân có một khoảng cách nào đó khiến thi nhân không khỏi không nghi ngờ:
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Câu thơ đã tả thực cảnh Huế – kinh thành sương khói. Trong màn sương khói đó con người như nhoà đi và có thể tình người cũng nhoà đi? Nhà thơ không tả cảnh mà tả tâm trạng mình, biết bao tình cảm trong câu thơ ấy. Những cô gái Huế kín đáo quá, ẩn hiện trong sương khói, trở nên xa vời quá, liệu khi họ yêu họ có đậm đà chăng? Tác giả đâu dám khẳng định về tình cảm của người con gái Huế, ông chỉ nói:
Ai biết tình ai có đậm đà?
Lời thơ như nhắc nhở, không phải bộc lộ một sự tuyệt vọng hay hy vọng, đó chỉ là sự thất vọng. Sự thất vọng của một trái tim khao khát yêu thương mà không bao giờ và mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn. Bài thơ càng hay càng ngậm ngùi, nó đã khép lại nhưng lòng người vẫn thổn thức. Cả bài thơ được liên kết bởi từ ai mở đầu: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”; tiếp đến “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó”; và kết thúc là “Ai biết tình ai có đậm đà?” Càng làm cho Đây thôn Vĩ Dạ sương khói hơn, huyền bí hơn.
Đây thôn Vĩ Dạ là một bức tranh đẹp về cảnh người và người của miền đất nước qua tâm hồn giàu tưởng tượng và đầy yêu thương của nhà thơ với nghe thuật gợi liên tưởng, hoà quyện thiên nhiên với lòng người.
Trải qua bao năm tháng, cái tình Hàn Mặc Tử vẫn còn nguyên nóng hổi, lay động day dứt lòng người đọc.
Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 2
Nhắc tới Hàn Mặc Tử không thể không nhắc tới bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ. “Đậy thôn Vĩ Dạ” đã gắn chặt với thi sĩ họ Hàn như hình với bóng, vì đây là bài thơ vừa thể hiện cái tài, lại vừa thể hiện cái tình; cái tâm của Hàn Mạc Tử chứ đây “chỉ thể hiện tình yêu đối vời một người con gái xứ Huế như bạn nào đó đã nhận xét.
Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ hoài niệm. Theo tư liệu về Hàn Mạc Tử, khi còn làm việc ở Sở Đạc điền Quy Nhơn, Hàn Mạc Tử đã đem lòng yêu Hoàng Thị Kim Cúc – con gái ông chủ sở Đạc điền Quy Nhơ, quê ở thôn Vĩ, xứ Huế. Tất cả tình cảm của mình Hàn Mạc Tử gửi gắm vào tập Gái quê. Khi Hoàng Cúc theo cha về nghỉ hưu ở Huế – Vĩ Dạ, Hàn Mạc Tử xem như nàng đã đi lấy chồng.
Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ
Em lấy chồng rồi, hết ước mơ
Tôi sẽ đi tìm mỏm đá trắng,
Ngồi lên đó thả cái hồn thơ.
Hàn Mạc Tử khi lâm bệnh hủi năm 1936. Năm 1939, Hàn nhận được tấm bưu ảnh của Kim Cúc gửi tặng, đó là một bức ảnh chụp phong cảnh xứ Huế, có sông nước, có thuyền, có bến có trăng, cùng những hàng cau cao vút kèm theo dòng chữ của Hoàng Cúc để an ủi nhà thơ. Bức bưu thiếp đã đánh thức cảm xúc của thi sĩ, nên có bài thơ tuyệt bút này.
Đây thôn Vĩ Dạ gồm 12 câu thất ngôn, chia làm 3 khổ.
Khổ thứ nhất mớ đầu bằng một câu hỏi tu từ. Câu thơ thoáng như một lời trách móc nhẹ nhàng có pha chút tiếc nuối của ai đó, nhưng đằng sau đó là lời chào mời tha thiết khách đến thăm để được thưởng thức cảnh đẹp của “thôn Vĩ”.
Về thôn Vĩ để được “nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. Nhà thơ nói đến cây cau trước tiên vì cau là loài cây thanh nhã, xinh xắn với thân thẳng tắp, tán lá xanh tươi, gợi sự ngay thẳng thủy chung. Hình ảnh hàng cau ở đây còn có một chi tiết khó quên, ấy là “Nắng hàng cau, nắng mới lên”. Điệp từ “nắng” gợi cho ta ánh nắng ban mai, biểu tượng cho sức sống, niềm vui đang lan tỏa tràn đầy mặt đất. Trong ánh nắng ban mai, những thân cau còn đọng sương đêm sáng lên lấp lánh như đang vươn lên hút lấy những ánh vàng rực rỡ
Cảnh đẹp, thu hút sự chú ý của tác giả. Câu thơ thứ ba cất lên như một tiếng reo thích thú biểu hiện sự ngạc nhiên, ngưỡng mộ. Khung cảnh Vĩ Dạ đẹp như một bức tranh: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Vườn Vĩ Dạ với những cây trái được sự chăm sóc bởi bàn tay khéo léo, lại được tắm gội mưa gió thường xuyên, nên mượt mà và dưới ánh nắng ban mai lấp lánh như những viên ngọc bích. Hình ảnh so sánh của tác giả trong câu thơ vừa chính xác, vừa gợi cảm. Có thể nói, tả vườn của Hàn Mặc Tử đã đạt đến độ tinh tế của một họa sĩ tài hoa.
Chỉ bằng vài nét vẽ chấm phá, Hàn Mạc Tử đã phác họa được khung cảnh khu vườn một làng quê xứ Huế vừa quen thuộc, bình dị, vừa thi vị độc đáo. Ngắm vườn xứ Huế trong cái “nắng mới lên” thật thanh thản. Nhưng cảnh vật Vĩ Dạ bỗng sinh động hẳn lên, khi bóng dáng con người xuất hiện: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Mặt chữ điền thường gợi về vẻ đẹp phúc hậu. trang trọng, quý phái, còn lá trúc gợi cái dáng vẻ mảnh mai, xinh xắn, thanh tú. Câu thơ ngoài ý nghĩa tả thực: thấp thoáng sau khóm trúc có khuôn mặt rất phúc hậu của ai đó hình như đang dõi theo khách đường xa, còn có ý nghĩa tượng trưng, cách điệu hóa.
Cảnh và người tô điểm cho nhau: cảnh xinh xắn, thơ mộng, người phúc hậu qúy phái. Tất cả tạo nên một vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng. Nhờ thế câu thơ đã làm bật được cái linh hồn vườn cây xứ Huế mà khổ thơ tập trung biểu hiện.
Tóm lại, bằng những chi tiết rất quen thuộc và bình dị, Hàn Mạc Tử đã khắc họa một bức tranh quê Vĩ Dạ tràn đầy sức sống với vẻ đẹp bất ngờ, có sự hài hòa giữa cảnh và người. Đoạn thơ làm khơi dậy trong tâm hồn người đọc biết bao nỗi niềm quê hương làng mạc Việt Nam.
Khổ thơ thứ hai cho thấy một thế giới khác của Huế: Dòng sông Hương và vẻ đẹp êm đềm trầm tư của Vĩ Dạ nói riêng và Huế nói chung.
Về với Vĩ Dạ, về với Huế, với núi Ngự, sông Hương, Hàn Mạc Tử cũng cảm nhận được cái linh hồn, cái nhịp điệu rất Huế ấy. Khung cảnh Huế dưới ngòi bút của Hàn Mạc Tử có sông nước, bờ bài, có gió, có mây và con thuyền ai đó đậu dưới trăng nơi bến vắng. Tất cả tạo nên một bức tranh êm đềm, thơ mộng.
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay.
Hai câu thơ tả cảnh nhưng thấm đẫm tình người. Hai câu thơ gợi cảm giác chia li buồn vắng đến não nề. Phải chăng một mối tình đơn phương, chưa có phút giây gặp gỡ ngọt ngào đã sớm chia li nên cảnh cũng hòa vào lòng người mà sầu tủi, phân li? Bởi đang trong tâm trạng buồn như vậy nên nhìn vào đâu cũng thấy buồn. Gió thổi mây bay thường là một chiều, nhưng đây lại đứt gãy, như là không có sự gặp gỡ. Điệp từ “gió” và “mây” đã thể hiện ra điều dó. Và ngay đến dòng nước vô tri kia cũng trở nên buồn hiu cùng với hoa bắp hiu hắt khẽ “lay”
Hai câu thơ không chỉ tả cảnh và tình trong cảnh, mà dường như còn muốn tả cái nhịp điệu của cảnh. Đó là cái nhịp điệu êm đềm, lững lờ, nét trầm tư rất điển hình không nơi nào có được của Huế. Hai câu thơ có cái nhịp khoan thai chậm rãi cũng đã diễn tả rất thành công cái cảm xúc trên.
Viết về Huế không thể không tả trăng. Trăng dưới ngòi bút của Hàn Mạc Tử huyền ảo, tràn đầy vũ trụ, tạo nên một không khí nửa thực, nửa hư như trong mộng:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Chỉ có trong mộng thì sông mới là sông trăng và thuyền mới chở trăng. Ở đây Hàn Mặc Tử là con người có con mắt rất mơ, rất ảo. Nhìn vào sự thật thì sự thật thành chiêm bao, nhìn vào chiêm bao lại thấy sẽ sang địa hạc huyền diệu. Lời thơ của Tử thanh tao quá! Ngọt lịm cả người” (Bích Khê).
Trăng là biểu tượng cho cái đẹp của cuộc đời và thiên nhiên. Trăng cũng tượng trưng cho hạnh phúc thanh bình. Vì vậy, hình ảnh thơ của Hàn Mạc Tử đã khơi dậy trong trái tim người đọc một niềm tin, niềm vui, một khát vọng hướng tới cái đẹp hoàn mĩ và thánh thiện. Nhưng lời thơ lại cất lên như một câu hỏi vô vọng. Hai câu thơ sau của khổ thơ thể hiện tâm trạng khát khao gặp gỡ đồng thời cũng thể hiện nỗi niềm lo âu. phấp phỏng về sự muộn màng. Chỉ một chữ “kịp” câu thơ cuối cùng đã nói lên điều đó.
Khổ thơ thứ ba cho thấy vẻ đẹp huyền ảo của xứ Huế và tình người tình đời thiết tha mà xa xăm vô vọng của tác giả.
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra”
Điệp ngữ “khách đường xa” vừa thể hiện tâm trạng khác khoải nhớ mong tha thiết vừa diễn tả cái khoảng cách xa vời của mối tình đơn phương vô vọng. Vì vậy, “mơ khách đường xa” tác giả chỉ thấy “áo” nhưng “nhìn không ra”. Cô gái này là ai? Một cô gái Huế nào đó hay chính là cô gái thôn Vĩ chập chờn trong cõi mộng của nhà thơ khiến cho tác giả có cảm giác bâng khuâng hư thực? Chỉ biết đây là một hình ảnh vừa rất đỗi gần gũi tha thiết vừa xa xôi. Gần gũi vì nó đã trở thành một hoài niệm thường trực, xa vời vì khoảng cách thời gian, không gian và làn khói sương của một mối tình chưa có lời ước hẹn “Áo em trắng quá nhìn không ra” là một câu thơ khá đặc sắc. Màu trắng là màu áo dài của nữ sinh xứ Huế và cũng là màu gợi về sự thanh khiết trắng trong rất phù hợp với cô gái trong mộng tưởng. Cái màu trắng cả không gian, làm nhập nhòa cả thị giác của tác giả. Và “áo trắng quá” lại càng khó nhận ra khi lẩn vào sương khói hư ảo của Huế lắm nắng, nhiều mưa và sương khói của mối tình chưa có ước hẹn.
Vì vậy, tình cảm của người con gái thôn Vĩ hôm nào có bền chặt cho chăng? “Ai biết tình ai có đậm đà?”.
Trong đau thương tột cùng mà nhà thơ vẫn có những phút giây thả hồn trong trẻo để hướng về một miền quê thân thiết và một mối tình đây mộng ảo để tạo nên một “viên ngọc thơ tuyệt vời, chói lọi nghìn năm” Chế Lan Viên.
Bài thơ cố nhiên có một xuất xứ, có một nguồn cảm hứng cụ thể, nhưng qua việc phân tích, ta thấy, tác phẩm đã vượt xa ranh giới của những gì cụ thể, đạt tới sự khái quát hóa nghệ thuật cao độ để đến với cuộc đời bao la.
Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử không chỉ là một bài thơ thể hiện tình yêu với một người con gái xứ Huế, thậm chí không chỉ dành riêng cho một thôn Vĩ cụ thể mà còn là lời tâm sự thiết tha, là lời trăng trối của thi sĩ một Hàn Mạc Tử về tình yêu day dứt và quá đỗi sâu nặng đối với cuộc đời này.
Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 3
Bài thơ về xứ Huế mộng mơ Đây thôn Vĩ Dạ đã để lại cho ta biết bao hoài niệm đẹp về phong cảnh hữu tình xứ Huế, con người Huế và đặc biệt hơn là sự lãng mạn của một đời thơ, một đời người – Hàn Mặc Tử.
“Mở cửa nhìn trăng, trăng tái mặt,
Khép phòng đốt nến, nến rơi châu…”
Mấy ai đã từng say trăng như Hàn Mặc Tử? “Trăng nằm sóng soài trên cành liễu – Đợi gió đông về để lả lơi…” (“Bẽn lẽn”) – Thi sĩ còn nói đến thuyền trăng, sông trăng, bến trăng… Cả một trời trăng ảo mộng, huyền diệu. Thơ Hàn Mặc Tử rợn ngợp ánh trăng, thể hiện tâm hồn “say trăng” với tình yêu tha thiết cuộc đời, vừa thực vừa mơ. Ông là một trong những nhà thơ lỗi lạc nhất của phong trào Thơ mới (1932 – 1941). Với 28 tuổi đời (1922 – 1940), ông để lại cho nền thơ ca dân tộc hàng trăm bài thơ và một số kịch thơ. Thơ của ông như trào ra từ máu và nước mắt, có không ít hình tượng kinh dị. Cũng chưa ai viết thơ hay về mùa xuân và thiếu nữ (“Mùa xuân chín”), về Huế đẹp và thơ (Đây thôn Vĩ Dạ) như Hàn Mặc Tử.
Đây thôn Vĩ Dạ rút trong tập “Thơ điên” xuất bản năm 1940, sau khi nhà thơ qua đời. Bài thơ nói rất hay về Huế, về cảnh sắc thiên nhiên hữu tình, về con người xứ Huế, nhất là các cô gái duyên dáng, đa tình, đáng yêu – tình yêu thơ mộng đắm say, lung linh trong ánh sáng huyền ảo. Bài thơ giãi bày một nỗi niềm bâng khuâng, một khao khát về hạnh phúc của thi sĩ đa tình, có nhiều duyên nợ với cảnh và con người Vĩ Dạ.
Câu đầu “dịu ngọt” như một lời chào mời, vừa mừng vui hội ngộ, vừa nhẹ nhàng trách móc người thương biết bao thương nhớ đợi chờ. Giọng thơ êm dịu, đằm thắm và tình tứ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Có mấy xa xôi. Cảnh cũ người xưa thấp thoáng trong vần thơ đẹp mang hoài niệm. Bao kỉ niệm sống dậy trong một hồn thơ. Nó gắn liền với cảnh sắc vườn tược và con người xứ Huế mộng mơ:
“Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền?”.
Cảnh được nói đến là một sáng bình minh đẹp. Nhìn từ xa, say mê ngắm nhìn những ngọn cau, tàu cau ngời lên dưới màu nắng mới, “nắng mới lên” rực rỡ. Hàng cau như đón chào người thân thương sau bao ngày xa cách. Hàng cau cao vút là hình ảnh thân thuộc thôn Vĩ Dạ từ bao đời nay. Quên sao được màu xanh cây lá nơi đây. Nhà thơ trầm trồ thốt lên khi đứng trước một màu xanh vườn tược thôn Vĩ Dạ: “Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc”. Sương đêm ướt đẫm cây cỏ hoa lá. Màu xanh mỡ màng, non tơ ngời lên, bóng lên dưới ánh mai hồng, trông “mướt quá” một màu xanh như ngọc bích. Đất đai màu mỡ, khí hậu ôn hòa, con người cần cù chăm bón mới có “màu xanh ngọc” ấy. Thiên nhiên rạo rực, trẻ trung và đầy sức sống. Cũng nói về mùa xanh ngọc bích, trước đó (1938) Xuân Diệu đã từng viết: “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá…” (“Thơ duyên”). Hai chữ “vườn ai” đã gợi ra nhiều ngạc nhiên và man mác. Câu thứ tư tả thiếu nữ với vườn xuân: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Mặt trái xoan, mặt hoa da phấn mới đẹp. Mặt chữ điền, gương mặt đầy đặn, phúc hậu. “Lá trúc che ngang” là một nét vẽ thần tình đã tô đậm nét đẹp của cô gái Huế duyên dáng, dịu dàng, kín đáo, tình tứ đáng yêu. Hàn Mặc Tử hơn một lần nói về trúc và thiếu nữ. Khóm trúc như tỏa bóng xanh mát che chở cho mối tình đẹp đang nảy nở:
“Thầm nghĩ với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý nhị và thơ ngây”.
(Mùa xuân chín)
Câu 3, 4 trong khổ thơ đầu tả cau, tả nắng mới, tả vườn xuân, tả trúc và thiếu nữ với một gam màu nhẹ thoáng, ẩn hiện, mơ hồ. Đặc sắc nhất là hai hình ảnh so sánh và ẩn dụ. (xanh như ngọc… mặt chữ điền). Cảnh và người nơi thôn Vĩ Dạ thật hồn hậu, thân thuộc đáng yêu.
Vĩ Dạ – một làng quê nằm bên bờ sông Hương Giang, thuộc ngoại ô cố đô Huế. Vĩ Dạ đẹp với những con đò thơ mộng, những mảnh vườn xanh tươi bốn mùa, sum sê hoa trái. Những ngôi nhà xinh xắn thấp thoáng ẩn hiện sau hàng cau, khóm trúc, mà ở đấy thường dìu dặt câu Nam ai, Nam bình qua tiếng đàn tranh, đàn tam thập lục huyền diệu, réo rắt. Thôn Vĩ Dạ đẹp nên thơ. Hàn Mặc Tử đã dành cho Vĩ Dạ vần thơ đẹp nhất với tất cả tấm lòng tha thiết mến thương.
Khổ thơ thứ hai nói về cảnh trời mây, sông nước. Một không gian nghệ thuật thoáng đãng, mơ hồ, xa xăm. Hai câu 5, 6 là bức tranh tả gió, mây, dòng sông và hoa (hoa bắp). Giọng thơ nhẹ nhàng, hài hòa và sống động. Gió mây đôi ngả như mối tình nhà thơ, tưởng gần đấy mà xa vời, cách trở. Dòng Hương Giang êm trôi lờ lững, trong tâm tưởng thi nhân trở nên “buồn thiu”, nhiều bâng khuâng man mác. “Hoa bắp lay” nhè nhẹ đung đưa trong gió thoảng. Nhịp điệu khoan thai, thơ mộng của miền sông Hương, núi Ngự được diễn tả rất tinh tế. Các điệp ngữ luyến láy gợi nên nhiều vương vấn mộng mơ:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”.
Hai câu tiếp theo nhà thơ hỏi “ai” hay hỏi mình khi nhìn thấy hay nhớ tới con đò mộng nằm trên bến sông trăng. Sông Hương quê em trở thành sông trăng. Hàn Mặc Tử với tình yêu Vĩ Dạ mà sáng tạo nên vần thơ đẹp nói về dòng sông Hương với những con đò dưới vầng trăng. Nguyễn Công Trứ đã từng viết: “Gió trăng chứa một thuyền đầy”. Hàn Mặc Tử cũng góp cho nền thơ Việt Nam hiện đại một vần thơ trăng độc đáo:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Tâm hồn nhà thơ xao xuyến khi nhìn sông trăng và con thuyền. Thuyền em hay “thuyền ai” vừa thân quen, vừa xa lạ. Chất thơ mộng ảo Đây thôn Vĩ Dạ là những thi liệu ấy. Câu thơ gợi tả một hồn thơ làm ta rung động trước vẻ đẹp hữu tình của xứ Huế miền Trung, nói lên một tình yêu kín đáo, dịu dàng, thơ mộng và thoáng buồn.
Khổ thơ thứ ba nói về cô gái Huế và tâm tình thi nhân. Đương thời nhà thơ Nguyễn Bính đã viết về thiếu nữ sông Hương: “Những nàng thiếu nữ sông Hương – Da thơm là phấn, má hường là son”… Vĩ Dạ mưa nhiều, những buổi sớm mai và chiều tà phủ mờ sương khói. “Sương khói” trong Đường thi thường gắn liền với tình cố hương. Ở đây sương khói làm nhòa đi, mờ đi áo trắng em, nên anh nhìn mãi không ra hình dáng em (nhân ảnh). Người thiếu nữ Huế thoáng hiện, trắng trong, kín đáo và duyên dáng. Gần mà xa, thực mà mơ. Câu thơ chập chờn, bâng khuâng. Ta đã biết Hàn Mặc Tử từng ôm ấp mối tình với một thiếu nữ Huế mang tên một loài hoa đẹp. Phải chăng nhà thơ muốn nói về mối tình này?
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
“Mơ khách đường xa, khách đường xa… ai biết… ai có”, các điệp ngữ luyến láy ấy tạo nên nhạc điệu sâu lắng, dịu buồn, mênh mang. Người đọc thêm cảm thương cho nhà thơ tài hoa, đa tình mà bạc mệnh, từng say đắm với bao mối tình tình nhưng suốt đời phải sống trong cô đơn bệnh tật.
Cũng cần nói đôi lời về chữ “ai” trong bài thơ này. Cả 4 lần chữ “ai” xuất hiện đều mơ hồ ám ảnh: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc?” – “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó?” – “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Con người mà nhà thơ nói đến là con người xa vắng, trong hoài niệm bâng khuâng. Nhà thơ luôn cảm thấy mình hụt hẫng, chơi vơi trước một mối tình đơn phương mộng ảo. Một chút hi vọng mong manh mà tha thiết như đang nhạt nhòa và mờ đi cùng sương khói?
Hàn Mặc Tử đã để lại cho ta một bài thơ tình thật hay. Cảnh và người, mộng và thực, say đắm và bâng khuâng, ngạc nhiên và thẫn thờ… bao hình ảnh và cảm xúc đẹp hội tụ trong ba khổ thơ thất ngôn, câu chữ toàn bích. Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ tình tuyệt tác. Cái màu xanh như ngọc của vườn ai, con thuyền ai trên sông trăng, và màu trắng của áo em như đang dẫn hồn ta đi về miền sương khói của Vĩ Dạ thôn một thời xa vắng:
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”.
Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 4
Hàn Mặc Tử một nhà thơ tài năng, một diện mạo thơ bí ẩn, phức tạp bậc nhất trong thơ ca Việt Nam. Thơ ông vừa có sự trong trẻo, tinh khiết vừa có cái ma quái, bí ẩn, chính những yếu tố đó đã làm nên sự hấp dẫn trong thơ Hàn Mặc Tử. Thơ điên (sau đổi thành Đau thương) là những nét vẽ cụ thể của phong cách thơ ấy. Có thể nói bài Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ trong trẻo, tươi sáng nhất trong tập thơ này của ông.
Đây thôn Vĩ Dạ được sáng tác năm 1938. Tác phẩm được chia làm ba phần tương ứng với ba khổ, khổ đầu miêu tả khung cảnh thôn Vĩ tươi sáng, đẹp đẽ trong nắng sớm; khổ hai là khung cảnh sông nước trong đêm trăng huyền ảo; khổ cuối là hình bóng của người lữ khách trong chốn sương khói mờ ảo, huyền bí.
Mở đầu bài thơ là câu hỏi thật tha thiết mà cũng đầy trìu mến:
Sao anh không về chơi thông Vĩ?
Câu thơ có bảy chữ thì có đến sáu chữ vần bằng, gợi nên cái êm ái, dịu dàng đậm chất của âm điệu xứ Huế. Vậy chủ thể của câu hỏi này là ai? Là Hoàng Kim Cúc, người con gái mà Hàn Mặc Tử thầm yêu, giọng điệu khi ấy có phần trách móc, hờn dỗi, đồng thời cũng là lời mời mọc hết sức duyên dáng. Nhưng đây cũng có thể chính là tác giả đã phân thân với hàm ý tự trách mình sao không về. Không về bởi sự cách trở, bởi ông nhận ra rằng hiện tại hay tương lai ông cũng không thể trở về với nơi ông gắn bó, coi như quê hương của mình được nữa. Để rồi ba câu thơ tiếp theo khung cảnh thôn Vĩ hiện lên vô cùng đẹp đẽ, lung linh trong buổi nắng sớm mai:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Điều ấn tượng đầu tiên chính là vẻ đẹp của nắng, nắng được lặp lại hai lần trong một câu thơ, cho ta ấn tượng về thứ ánh sáng trong trẻo, tinh khôi tràn ngập khắp không gian. Mà hơn nữa lại là nắng hàng cau, thứ nắng thật thân thuộc, gần gũi đối với người dân Việt Nam. Hàng cau vươn mình đón nguồn ánh sáng của thiên nhiên, đón ánh nắng tinh khiết đầu tiên của một ngày. Dưới ánh nắng hàng cau là cả một khung cảnh tuyệt mĩ hiện ra trước mắt, màu xanh ngọc của khu vườn phủ kín cả không gian. Từng câu, từng chữ Hàn Mặc Tử đã giúp người đọc hình dung vẻ đẹp của khu vườn ấy. Chữ “mướt” gợi nên sự non tơ, mỡ màng của cây cối khi được đắm mình trong hơi sương, trong ánh nắng buổi sáng. Hình ảnh so sánh “xanh như ngọc”đem đến cảm giác tươi mát, trong trẻo, thanh mát cho quang cảnh. Để hoàn thiện bức tranh thiên nhiên, con người xuất hiện ở câu thơ cuối cùng của khổ. Thấp thoáng sau những lá trúc mềm mại là gương mặt chữ điền. Phải chăng đó là khuôn mặt của người con gái xứ Huế, khuôn mặt ấy mang trong mình nét duyên dáng, đẹp đẽ về phẩm chất. Thiên nhiên và con ngươi hòa quyện hài hòa tạo nên khung cảnh đẹp đẽ, đồng thời làm bừng lên khát vọng trở về thôn Vĩ của Hàn Mặc Tử.
Nét bút của Hàn Mặc Tử tiếp tục đưa người đọc đến với một vẻ đẹp khác của xứ Huế, đó là vẻ đẹp trong một đêm trăng mơ màng, huyền diệu:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Khung cảnh mây trời chia phôi, mỗi sự vật đều tồn tại một cách biệt lập. Gió đi theo đường gió, mây đi theo đường mây, nhịp thơ 4/3 kết hợp với dấu phẩy về mặt hình thức đã chia rẽ, tách biệt một cách tuyệt đối các sự vật, hiện tượng. Nhìn trên bề mặt là sự phi lí, không hợp với logic tự nhiên, nhưng với logic tâm trạng nhà thơ lại hoàn toàn có lí. Hướng mắt về phía trước là khung cảnh sông nước “buồn thiu” lặng lỡ trôi, cuộc sống tẻ nhạt, hiu quạnh. Đó không chỉ là cái buồn của dòng sông,mà còn là cái buồn của lòng người, của tâm trạng. Dường như mọi sự vật đều rời bỏ thi nhân, ông tìm đến với trăng, tìm đến với chỗ bám víu cuối cùng mong có được sự chia sẻ:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
Trong thơ Hàn Mặc Tử trăng là người bạn, tri âm tri kỉ của ông. Bởi vậy, khi tất cả mọi thứ đều rời bỏ, ông tìm đến chỗ bám víu cuối cùng là ánh trăng, Trăng xuất diện thật diễm lệ, thật lớn, đó là cả một bến sông trăng, thuyền trăng. Ở đây trăng chính là hiện thân của cái đẹp trần thế, của cuộc sống ngoài kia mà Hà Mặc Tử khao khát có được. Câu hỏi tu từ : “Có chở trăng về kịp tối nay” ẩn chứa sự thảng thốt, lo âu về thời gian. Một đêm tưởng dài mà lại rất ngắn, liệu có còn đủ cho quỹ để tận hưởng cuộc sống này hay không. Nỗi niềm lo lắng ấy cho thấy tình yêu cuộc sống đến mãnh liệt, cháy bỏng của Hàn Mặc Tử.
Khổ thơ cuối cùng, con người dường như không còn ở cõi thực, mà đã phiêu diêu đến cõi hư ảo, huyền bí: “Mơ khách đường xa khách đường xa/ Áo em trắng quá nhìn không ra/ Ở đây sương khói mờ nhân ảnh/ Ai biết tình ai có đậm đà”. Hình bóng giai nhân hiện hữu nhưng chỉ là trong giấc mơ, không thể nắm bắt, không thể níu kéo. Sắc trắng được Hàn Mặc Tử cực tả “trắng quá”, khiến cho người con gái mất hết đường nét, chỉ còn là một khoảng trống hư ảo, một sự hẫng hụt lớn để lại nơi lòng thi nhân. Ông tìm ra bên ngoài để bớt nỗi cô đơn, nhưng nhận lại chỉ toàn hẫng hụt, đành quay bước về thế giới ở đây. Nhưng ở đây sướng khói mờ mịt, “nhân ảnh” hư hao, thiếu vắng tình người, khao khát tìm hơi ấm, tìm sự sẻ chia bằng sợi dây tình cảm nhưng tất cả đều bị cắt đứt một cách vô tình. Câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà” chứa hai đại từ phiếm chỉ, đem đến các cách hiểu khác nhau: ai có thể hiểu là cô gái mà Hàn Mặc Tử yêu liệu có biết tình cảm Hàn Mặc Tử dành cho không; ai lại cũng có thể hiểu là người trong này có biết được người ngoài kia có dành tình cảm đậm đà cho mình hay không. Nỗi cô đơn, trống vắng làm dấy lên nỗi khao khát yêu đương khắc khoải, thiết tha trong lòng Hàn Mặc Tử. Đối với ông, cô gái ấy không chỉ là người con gái cụ thể mà đó còn là cuộc sống, cuộc đời ông luôn khao khát được hòa nhập. Bài thơ đã cho thấy một Hàn Mặc Tử yêu người, yêu đời đến tha thiết, cháy bỏng.
Bài thơ sử dụng linh hoạt các hình ảnh so sánh, ngôn ngữ cực tả vẽ lên khung cảnh thôn Vĩ vừa đẹp đẽ, tinh khôi, vừa huyền diệu thần bí. Nhịp điệu thay đổi linh hoạt khắc họa tâm trạng của chủ thể trữ tình. Hình ảnh thơ độc đáo, gợi cảm, giàu ý nghĩa biểu trưng.
Với bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử đã vẽ nên bức tranh phong cảnh xứ Huế vô cùng lung linh, đẹp đẽ, với những khung cảnh khác nhau. Đằng sau bức tranh đó còn là nỗi niềm yêu cuộc sống tha thiết, khát khao giao cảm, hòa nhập mãnh liệt. Đồng thời ta cũng cảm nhận được nỗi cô đơn, sự bất hạnh của con người tài hoa này.
Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 5
Hàn Mặc Tử một nhà thơ tài năng, một diện mạo thơ bí ẩn, phức tạp bậc nhất trong thơ ca Việt Nam. Thơ ông vừa có sự trong trẻo, tinh khiết vừa có cái ma quái, bí ẩn, chính những yếu tố đó đã làm nên sự hấp dẫn trong thơ Hàn Mặc Tử. Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những sáng tác tiêu biểu của Hàn Mặc Tử.
Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được sáng tác năm 1938 lúc đầu có tên “Ở đây thôn Vĩ Dạ” sau được đổi lại. Tác phẩm được in trong tập “Thơ điên” (sau đổi thành “Đau thương”). Đây thôn Vĩ Dạ được gợi nguồn cảm hứng từ mối tình đơn phương của nhà thơ với một người con gái xứ Huế mộng mơ là Kim Cúc. Đó là con gái của viên chức cấp cao, thiếu nữ mang trong mình nét đẹp dịu dàng, duyên dáng giữ nét chân quê. Hàn Mặc Tử yêu người con gái thầm kín, chỉ dám đứng nhìn từ xa. Mối chân tình ấy được nhà thơ ấp ủ gửi vào tập “Gái quê”. Sau đó Hoàng Cúc theo cha về thôn Vĩ Dạ ở Huế nên ông buồn tủi, đau đớn lại mang trong mình căn bệnh phong khiến nỗi đau ấy càng da diết.
Bạn của Hàn Mặc Tử là Hoàng Tùng Ngâm (anh họ Hoàng Cúc) biết được nỗi tâm tình đó nên đã viết thư gửi ra Huế cho Cúc khuyên nàng viết thư thăm hỏi, động viên một tâm hồn bất hạnh. “Thay vì viết thư thăm, tôi gửi bức ảnh phong cảnh vừa bằng cái danh thiếp. Trong ảnh có mây, có nước, có cô gái chèo đò với chiếc đò ngang, có mấy khóm tre, có cả ánh trắng hay ánh mặt trời chiếu xuống nước. Tôi viết sau tấm ảnh mấy lời hỏi thăm Tử rồi nhờ Ngâm trao lại. Sau một thời gian, tôi nhận được bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ và một bài thơ nữa do Ngâm gửi về”. Chính tấm bưu ảnh trực tiếp sự khơi gợi cảm xúc cùng với mối tình thầm kín của Hàn Mặc Tử đã viết nên một thi phẩm giàu cảm xúc, giàu hình ảnh mộng mơ và thẫm đẫm nỗi buồn man mác trong tâm hồn thi nhân.
Bài thơ có ba khổ, mỗi khổ thơ là một bức tranh, nhà thơ Xuân Diệu gọi mỗi cấu trúc ấy là một bài thơ tứ tuyệt.
Mở đầu là câu: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ”. Đây có thể là Hàn Mạc Tử nhắc lại lời thăm hỏi của Hoàng Cúc ghi trong bức bưu ảnh hoặc bức bưu ảnh gợi nhớ những kỉ niệm về thôn Vĩ. Bốn câu thơ (khổ đầu) có tính chất tạo hình như một bức tranh có ba chiều: chiểu rộng, chiều cao, lẫn chiều sáu. Đó là nỗi nhớ giúp tác giả hình dung ra trước mắt mình một cảnh tượng sống động.
Bức tranh thôn Vĩ được phác họa bằng mấy nét xinh xắn. Ánh nắng ban mai chiếu xuống những hàng cau, “nắng mới lên” đem lại cảm giác trong lành, bình yên; những hàng cau đứng thẳng tắp, hình ảnh rất quen, nét đặc trưng của thôn Vĩ:
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
Những vườn cây trái sum sê, tươi tốt của thôn Vĩ {mướt quá), một màu xanh mà nhà thơ so sánh: “xanh như ngọc”. Trong hồi tường của nhà thơ giữa cảnh và người hòa quyện với nhau đưa đến cảm xúc trìu mến, dịu ngọt. Thấp thoáng đằng sau những khóm trúc có bóng dáng mặt con người dịu dàng, phúc hậu khi ẩn khi hiện:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”.
Bốn câu tiếp theo trong khổ thơ thứ hai, nhà thơ tìm đến dòng kỉ niệm về Huế gắn liền với con sông Hương thơ mộng, êm đềm. Con sông có gió, có mây, có dòng nước, có con thuyền và ánh trăng. Hầu như sông nước sông Hương rất hiền lành, nước chầm chậm trôi giữa đôi bờ sương khói như mang một nỗi “buồn thiu”.
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?…
Nhịp điệu thơ nhẹ nhàng chậm rãi uyển chuyển, cảnh ở khổ thơ trên tươi sáng, đến khổ thơ này trở nên buồn: gió và mây không đi liền nhau mà gió một lối, mây một đàng gợi lên nỗi buồn xa cách. Dòng nước trôi lững lờ, vắng vẻ “buồn thiu”, hai bên bờ sông Hương đoạn chảy qua thôn Vĩ có những vườn bắp, gió đưa hoa bắp khẽ lay động, một khung cảnh vắng lặng và gợi buồn. Đây là hình ánh thấm đượm tâm hồn xao xuyến của nhà thơ.
Hình ảnh con “sông trăng” là một tứ thơ rất mới mẻ. Trăng trên sông Hương thật mơ mộng, “sông trăng”, thuyền “chở trăng” làm cho cảnh trở nên huyền ảo lung linh. Có thể nói chưa có nhà thơ nào tả dòng Hương Giang với nét đẹp hư ảo như Hàn Mạc Tử. Trong nỗi nhớ nhung mơ màng của nhà thơ, thuyền và trăng đã thành những vật thể có linh hồn.
Khổ ba tiếp tục những kỉ niệm về Huế:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?…
Trong những kỉ niệm về Huế, hình ảnh người thiếu nữ của Huế và cũng là thôn Vĩ – hiện lên đậm nét hơn cả, trở thành điểm sáng của bài thơ. Cô gái Huế của Hàn Mạc Tử có nét hư hư, thực thực, cô gái và nhà thơ có một khoảng cách về không gian, về thời gian, hơn nữ giữa hai người cũng chưa có những hứa hẹn, gắn bó cho nên chỉ là “khách đường xa”. Hình ảnh người thiếu nữ trở nên xa vời. Câu thơ trở nên đa nghĩa phủ lên kí ức một lớp sương mờ nên “Áo em trắng quá nhìn không ra”, nhưng trong tâm tưởng nhà thơ dù chỉ là kỉ niệm của một thời, “em” vẫn là hình bóng thân yêu.
Hình ảnh người thân xa cách chìm đi trong “sương khói” của trời đất xứ Huế, kết thúc bài thơ là một câu hỏi:
“Ai biết tình ai có đậm đà?….”
Câu thơ thứ hai chứa đầy tâm trạng. “Ai”, “ai” là anh hay là em, đúng hơn là cả hai người, nhà thơ tự hỏi mình và cũng hỏi “em” về mối tình đơn phương chưa nói nên lời. Nay giữa hai người là màn “sương khói” của không gian và thời gian làm sao biết được mối tình này có đậm đà hay nhạt phai. Có thể hiểu đây là bài thơ hướng nội, ẩn dấu cái sâu xa nhất của tâm hồn thi nhân là tình đời; ta thấy thấp thoáng bóng hình một mối tình dang dở giữa nhà thơ và người con gái thôn Vĩ Dạ. Mối tình đơn phương này qua năm tháng chưa tàn phai. Bởi thế, khi chỉ có tấm bưu thiếp và mấy lời hỏi thăm từ xứ Huế gửi đến đã làm sống dậy trong lòng nhà thơ cả một trời thương nhớ. Có người cho rằng mỗi khổ thơ đều có hai giọng nói. Hai câu trên của một người, hai câu dưới của một người. Thật ra thì khó phân định. Ví dụ câu: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Đây là lời trách móc hay là lời mời hỏi của “thi nhân” hay của “cố nhân” ? Nhưng có điều có thể xác định được đó chính là lời hỏi thăm kia (ở tấm bưu thiếp) đã được Hàn Mặc Tử tiếp nhận một cách đầy tình cảm ngọt ngào. Vì vậy, có thể nói đây là bức tranh tâm trạng. Một mối tình đã gieo vào lòng nhà thơ biết bao nỗi nhớ nhung khắc khoải.
Về nghệ thuật, đây là bài thơ có những nét nghệ thuật độc đáo trong diễn tả, diễn cảm và biểu hiện một tâm trạng đầy xúc động.
Có thể nói bài thơ là những bức tranh đẹp. Bức tranh vườn cây thôn Vĩ, bức tranh sông nước sông Hương hiền hòa, êin dịu, bức tranh tâm trạng có bóng dáng người con gái Huế. Về thời gian thì khổ một là buổi sáng, khổ hai cảnh ban đêm, khổ ba thì không thể xác định. Về không gian thì khổ một là vườn cây thôn Vĩ, khổ hai bến sông Hương, có đôi bờ, có thuyền và trăng, nhưng đến khổ thứ ba thì hầu như không có không gian hoặc khó xác định. Nhưng ở đây có thể nhận ra là nhà thơ muốn nói sát hơn về mối tình không trọn vẹn với người thôn Vĩ. Đối tượng có thể xác định “khách đường xa” là “em”. Đây không phải là một bức tranh tả cảnh nên nhà thơ không diễn tả theo một trật tự nào. Vì nó là “bức tranh tâm trạng”, tả cảnh để nói tâm trạng cho nên trật tự của bài thơ là dòng xúc cảm của tác giả, cách sắp xếp đó làm tăng hiệu quả biểu hiện hồn thơ.
Trong bài thơ, tác giả dùng phương pháp láy lại một số từ để biểu cảm: Nắng hàng cau, nắng mới lên…/Gió theo lối gió, mây đường mây…/ Mơ khách đường xa, khách đường xa…/ Ai biết tình ai có đậm đà?. Đây là biện pháp điệp từ, điệp ngữ ta thường gặp trong thơ. Nhưng trong bài thơ này, Hàn Mạc Tử đã sử dụng biện pháp nghệ thuật này có hiệu quả thẩm mĩ cao, vì những từ ngữ đó gây ấn tượng mạnh. Nhất là điệp từ “ai” gợi nhớ bao thân thương trong những câu hò xứ Huế.
Cuộc đời Hàn Mạc Tử là một bi kịch khắc nghiệt nhưng nhà thơ đã sáng tạo cho đời những áng văn chương làm say đắm lòng người. Bài thơ có một cấu trúc độc đáo, lấy cảnh để ngụ tình, tình trang trải dịu buồn khôn khuây.
Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 6
Có một thi sĩ Việt mà đến hai thành phố lấy tên ông đặt cho những con đường, đó là Hàn Mặc Tử. Ông là một hiện tượng kì lạ bậc nhất của phong trào thơ mới, được Chế Lan Viên nhận xét: “Trước không có ai, sau không có ai Hàn Mặc Tử như ngôi sao trổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình”. Nhắc đến Hàn Mặc Tử người ta không quên hình ảnh tươi đẹp của thiên nhiên và con người xứ Huế mộng mơ qua bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ. Đó là bức tranh tuyệt đẹp hài hòa giữa thiên nhiên và con người, giữa nét thực và hư mộng cuộc đời, cũng là tiếng lòng yêu tha thiết cuộc sống của thi sĩ.
Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được sáng tác năm 1938 lúc đầu có tên “Ở đây thôn Vĩ Dạ” sau được đổi lại. Tác phẩm được in trong tập “Thơ điên” (sau đổi thành “Đau thương”). Đây thôn Vĩ Dạ được gợi nguồn cảm hứng từ mối tình đơn phương của nhà thơ với một người con gái xứ Huế mộng mơ là Kim Cúc. Đó là con gái của viên chức cấp cao, thiếu nữ mang trong mình nét đẹp dịu dàng, duyên dáng giữ nét chân quê. Hàn Mặc Tử yêu người con gái thầm kín, chỉ dám đứng nhìn từ xa. Mối chân tình ấy được nhà thơ ấp ủ gửi vào tập “Gái quê”. Sau đó Hoàng Cúc theo cha về thôn Vĩ Dạ ở Huế nên ông buồn tủi, đau đớn lại mang trong mình căn bệnh phong khiến nỗi đau ấy càng da diết. Bạn của Hàn Mặc Tử là Hoàng Tùng Ngâm (anh họ Hoàng Cúc) biết được nỗi tâm tình đó nên đã viết thư gửi ra Huế cho Cúc khuyên nàng viết thư thăm hỏi, động viên một tâm hồn bất hạnh. “Thay vì viết thư thăm, tôi gửi bức ảnh phong cảnh vừa bằng cái danh thiếp. Trong ảnh có mây, có nước, có cô gái chèo đò với chiếc đò ngang, có mấy khóm tre, có cả ánh trắng hay ánh mặt trời chiếu xuống nước. Tôi viết sau tấm ảnh mấy lời hỏi thăm Tử rồi nhờ Ngâm trao lại. Sau một thời gian, tôi nhận được bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ và một bài thơ nữa do Ngâm gửi về”. Chính tấm bưu ảnh trực tiếp sự khơi gợi cảm xúc cùng với mối tình thầm kín của Hàn Mặc Tử đã viết nên một thi phẩm giàu cảm xúc, giàu hình ảnh mộng mơ và thẫm đẫm nỗi buồn man mác trong tâm hồn thi nhân.
Thôn Vĩ Dạ là một thôn nhỏ nằm bên bờ sông Hương xứ Huế. Nơi đây là một khu nhà vườn tuyệt mĩ có cây cảnh, cây ăn quả rất nổi tiếng trở thành nguồn cảm hứng sáng tác cho các thi nhân, tiêu biểu là câu thơ của thi sĩ Bích Khê: “Vĩ Dạ thôn! Vĩ Dạ thôn/ Biếc tre cầu trúc không buồn mà say”. Hay câu thơ tả vẻ đẹp thần tiên Cồn Hến Vĩ Dạ: “Ti trúc mê li xuân dưới nguyệt/ Cỏ hoa vờ vật mộng trong hương…”
Mở đầu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là câu thơ mang hình thức câu hỏi tu từ với nhiều sắc thái, ý ngĩa khác nhau: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Liệu có phải đây là lời trách móc nhẹ nhàng cũng là lời mời tha thiết về thăm thôn Vĩ của cô gái? Hay là lời tự trách của Mặc Tử sao không về chơi thôn Vĩ, cụm từ “về chơi” thật chân tình, chân thành và rất gần gũi, thân thương. Câu thơ mở đầu của Hàn Mặc Tử rất đặc biệt ông biết cách đặt thanh bằng vào tiếng thứ ba “không” và nhất là sự táo bạo phá luật, thất lệ ở tiếng thứ tư “về” đặt một thanh bằng vì theo như thể thơ thất ngôn tứ tuyệt nó phải là một thanh trắc vì theo lệ “Nhị tứ lục phân minh”. Nếu câu thơ mở đầu là “Sao anh không ghé chơi thôn Vĩ?” hay câu “Thôn Vĩ sao anh không về chơi?” thì nó lại mang một ý thơ khác không còn là cái tôi đặc sắc riêng của Hàn Mặc Tử. Ông giống như Thôi Hiệu phá cách trong câu thơ “Tích nhân dĩ thừa Hoàng hạc khứ”. Nhờ thể bằng ở tiếng thứ nhất, thứ hai và thứ sáu tao đà cho một loạt thanh bằng tiếp theo trước khi kết thúc bởi thanh trắc vút cao ở chữ “Vĩ” thật tuyệt sắc tuyệt mĩ. Câu thơ gợi lại cho ta nhiều suy ngẫm, trăn trở về một hồn thơ “Tài hoa bạc mệnh”.
Mở ra đằng sau câu hỏi ấy là bức tranh tả cảnh sắc thôn Vĩ trong nắng sớm bình minh: “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên/ Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Ấn tượng độc đáo là nắng hàng cau, trong vườn cau là loài cây cao nhất, loài cây được đón ánh nắng bình minh đầu tiên. Cụm từ “nắng mới” dùng để chỉ ánh ánh nắng tinh khôi buổi sáng, từ mới tô đậm sự trong trẻo, tinh khiết. Vẫn là ánh nắng ngày nào nhưng trong con mắt của thi sĩ nó thật đẹp thật chan hòa, ấm áp biết bao. “Vườn ai” gợi cảm giác mơ mồ, bất định với cách sử dụng đại từ phiếm chỉ “ai” gây tò mò với vẻ đẹp bí ẩn không thể sở hữu. Tính từ “mướt” chỉ màu xanh non tơ, mỡ màng của cây lá tràn đầy sức sống với sắc tình xuân được so sánh với màu xanh của ngọc_một màu xanh dịu nhẹ có sức hút kì lạ. Dưới cái nhìn của thi nhân khu vườn sáng sớm mang vẻ đẹp lung linh, huyền ảo khi buổi đêm được tắm sương hôm, sáng đến lại được ngập tràn trong nắng mới. Đó là một vẻ đẹp của thanh tú, thuần khiết của một vùng quê yên ả khiến cho nhà thơ ngạc nhiên, trầm trồ trong hạnh phúc.
Trên nền cảnh thiên nhiên con người bỗng được hiện lên: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Mặt chữ điền ở đây là một gương mặt cụ thể của một người con gái mang vẻ đẹp duyên dáng e lệ đằng sau lá trúc hay đó là sự cách điệu hóa của nhà thơ để chỉ vẻ đẹp tâm hồn của con người xứ Huế chịu thương chịu khó, ngay thẳng, kín đáo và phúc hậu? Dù hiểu theo cách nào thì ta cũng có thể thấy được vẻ đẹp của con người hiện lên sau câu thơ. Đó là hình ảnh hư hư thực thực mang lại cảm giác về cái đẹp mộng mơ. Hơn một lần thi sĩ đã gợi nhắc hình ảnh người con gái và trúc trong thơ: “Thầm nghĩ với ai ngồi dưới trúc/ Nghe ra ý nhị và ngây thơ”. Như vậy với bút pháp ước lệ tượng trưng thi nhân đã tạo nên bức tranh tuyệt mĩ kết hợp hài hòa vẻ đẹp thiên nhiên buổi sớm và sự duyên dáng, kiều diễm của con người, cho thấy tâm hồn yêu đời, yêu thiên nhiên sâu sắc của con người bị hành hạ đau đớn đến quằn quại vì bệnh tật.
Tưởng chừng như mạch thơ bị đứt đoạn, nhà thơ đã chuyển cảnh đột ngột từ bình minh sang đêm trăng thơ mộng. Đó là một nét độc đáo trong tư duy thơ của Hàn Mặc Tử, bên ngoài có vẻ rời rạc nhưng ẩn sâu bên trong là sự logic của mạch cảm xúc. Nhà thơ đang mang trong mình tâm trạng háo hức, mong chờ được về chơi thôn Vĩ thì lại chuyển sang buồn tủi, cô đơn như tỉnh mộng trở về với thực tại khắc nghiệt bởi mối nhân duyên ấy bị ngăn cách, cản trở do căn bệnh nan ý lúc bấy giờ. Những hình ảnh thiên nhiên cũng nhuốm màu chia li, buồn tủi của nhà thơ:
“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”.
Đáng lẽ mây và gió là là một cặp song hành với nhau, gió thổi mây bay nhưng ở đây Hàn Mặc Tử lại nhìn thấy nó li biệt gió lối gió, mây đường mây tạo thành nghệ thuật tiểu đối cùng với cách ngắt nhịp 4/3 gợi sự ngăn cách đôi ngả. Cái nhìn và sự quan sát của nhà thơ vận động từ cao xuống thấp, từ xa đến gần. Thi nhân lia ống kính tâm hồn từ cảnh vật trên trời xuống dòng nước bên dưới đang chảy chầm chậm, lững lờ. Hình ảnh hoa bắp lay nhẹ, khẽ khàng để hô ứng với nước. Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa để làm cho dòng nước cũng biết buồn thiu. Ở đây có bút pháp tả cảnh ngụ tình, Hàn Mặc tử tả cái buồn hiu quạnh của cảnh vật để gợi đến tâm trạng buồn tủi, cô đơn của bản thân, chẳng tự nhiên mà dòng nước có thể buồn mà bởi cái nhìn buồn rầu, ảm đạm của nhà thơ mà trở nên như vậy. Đúng như Nguyễn Du đã từng nói: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Như vậy hai câu thơ đặc tả hình ảnh thiên nhiên chia đôi, rời rạc để gợi tả hoàn cảnh, tâm trạng thi nhân.
Mạch cảm xúc lại bị chuyển khi từ một dòng nước buồn thiu giờ đây lại trở thành một dòng sông tràn ngập ánh trăng:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Trăng, gió, mây là nguồn cảm hứng sáng tác của các thi nhân bao đời như bài thơ “Buồn trăng” của Xuân Diệu có viết: “Gió sáng bay về, thi sĩ nhớ/ Thương ai không biết đứng buồn trăng/ Huy hoàng trăng rộng nguy nga gió/Xanh biếc trời cao, bạc đất bằng”.Trong thơ Hàn ta thấy ông luôn bầu bạn với ánh trăng, trăng là tri âm tri kỉ là nơi trú ngụ linh hồn cuối cùng của nhà thơ để trốn tránh thực tại bệnh tật. Trang thơ ông có biết bao hình ảnh ánh trăng tuyệt mĩ, bất thường, bất hủ: “Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu/ Đợi gió đông về để lả lơi” hay “Trăng ngậm đầy sông chảy lai láng”, ở trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đó cũng là một sông trăng có “thuyền ai” đậu trên đó, có ánh trăng tan chảy làm cho dòng nước ngập tràn trăng đêm lung linh, mờ ảo. Cái lạ của câu thơ không chỉ vì đây là một câu thơ siêu thực, lạ vì siêu thực một cách rất hiện thực dưới sự đặc tả của Mặc Tử. Câu hỏi tu từ trong hai câu thơ mang tâm trạng băn khoăn của tác giả. Từ “kịp”cho thấy cuộc chạy đua của người bệnh với thời gian cuộc đời, “tối nay” là một đêm sao ngắn ngủi thế. Ta cảm thấy trong hồn thơ Hàn luôn mang tâm trạng mặc cảm khác với quan niệm về cái chết của Xuân Diệu. Ông hoàng thơ tình luôn nhìn thấy cái chết ở phía cuối con đường nên ông càng phải tranh thủ sống có ích, có nghĩa từng ngày tối đa với hạnh phúc, còn thi sĩ Hàn_con người bất hạnh mang trong mình căn bệnh phong đáng sợ luôn nhìn thấy cái chết cận kề, đối với ông chỉ cần được sống thôi là hạnh phúc. Nếu thuyền để chở người, chở đồ thì với nhà thơ là chở trăng_hiện tượng tự nhiên cao vời vợi ở trên trời. Đó là nét mờ ảo xen lẫn hiện thực cho thấy sự khắc khoải tuyệt vọng của nhà thơ gợi thương cảm, xót xa cho số phận thi nhân tài hoa tài tử mà lại gặp phải bi kịch cuộc đời. Tử càng điên cuồng yêu đời bao nhiêu thì càng bị hành hạ đau đớn đến quằn quại bấy nhiêu bởi bệnh tật. Đúng như L.Tolstoi đã từng nói: “Khó khăn hơn cả là yêu cuộc sống với những nỗi đau khổ của mình”.
Chất thơ của Hàn Mặc Tử luôn được đan xen hài hòa giữa chất hiện thực và cõi ảo mộng. Hiện thực khắc nghiệt quá nên nhà thơ tìm về với vẻ đẹp của cõi mộng để an ủi lòng mình nhưng mộng dù có dài lâu đến mấy thì cũng phải tỉnh để rồi nhà thơ rơi vào ảo ảnh thực tại:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Mơ là trạng thái vô thức khi con người ta chìm đắm trong cõi mộng, điệp từ “khách đường xa” được lặp lại hai lần mang hai trạng thái cảm xúc. Lần đầu là khát vọng mơ gặp khách đường xa, lần sau là thực tại càng muốn mơ thấy người khách thì lại thấy đường càng xa. Tác giả mơ về bóng giai nhân trong ảo ảnh. Không thể thoát ra khỏi cõi mộng tác giả đem về hiện tại với hình ảnh hư thực “Áo em trắng quá nhìn không ra” đó là áo em với một màu trắng tinh khôi, tinh khiết, nhà thơ cực tả sắc trắng một cách kì lạ, bất ngờ nên khiến cho “em” chìm vào cõi ảo. Câu thơ thứ ba xuất hiện làm cho lớp nghĩa câu hai càng rõ nét. Thời tiết ở Huế nắng nhiều, mưa nhiều và sương cũng nhiều. Sương khói làm mờ đi hình bóng của “em”, lại cộng thêm sắc trắng của áo khiến cho bóng giai nhân vừa gần vừa xa, vừa thực vừa hư. Đây là ảo giác xa rời với hiện thực. Dường như điều đó càng làm cho tâm trạng thi nhân thêm khắc khoải được thể hiện qua sự lặp lại của đại từ phiếm chỉ ai: “Ai biết… ai có…” ở câu cuối nhấn mạnh tâm trạng bâng khuâng, xót xa của một tâm hồn khao khát được sống được yêu và yêu say đắm với người con gái xứ Huế mang tên một loài hoa. Câu thơ hàm chứa hai ý nghĩa đối lập nhau: Trước hết làm sao để biết được tình cảm của người xứ Huế nơi xa có đậm đà không hay như là sương khói mù mịt rồi tan đi. Thứ hai làm sao để cô gái ấy biết được tình cảm nhớ thương da diết của nhà thơ dành cho nàng. Câu hỏi thể hiện nỗi cô đơn, trống vắng, đau đớn của một tâm hồn thơ tài năng mà hoàn cảnh, số phận nhuốm màu bi thương.
Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ với bút pháp nghệ thuật ước lệ tượng trưng, tả cảnh ngụ tình cùng với ngôn từ trong sáng được chắt lọc, hình ảnh thơ đặc sắc và lối sử dụng điệp từ đã thể hiện được tiếng lòng của nhà thơ trữ tình mới lạ. Ông xứng đáng là một thiên tài trác tuyệt nổi bật trong những nhà thơ mới với hồn thơ đau thương của con người bệnh tật nhưng vẫn ham sống mãnh liệt tạo nên một hồn thơ lạ trong nền văn học Việt Nam đúng như ý thơ của Nguyễn Viết Lãm dành cho thi sĩ Hàn: “Tử thân yêu, hồn thơ anh chỉ một/ Hành tinh chật rồi không chứa nổi hai đâu”
Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 7
Hàn Mặc Tử là một ngôi sao lạ trên bầu trời với muôn ngàn vì sao của thơ Mới. Những năm tháng tồn tại trên dương gian ngắn ngủi nhưng đầy đau thương của Hàn lại là những năm tháng của sáng tạo và thăng hoa. Thơ văn ông vừa chứa đựng tình yêu cuộc sống mãnh liệt vừa là nỗi tuyệt vọng đến đau thương. Trong những thi phẩm mà nhà thơ để lại, Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ khá độc đáo. Nó như một nẻo riêng trong sáng tinh khiết, không có những bóng ma hay máu chảy, không rên xiết quằn quại mà tràn đầy tình yêu cuộc sống với những hình ảnh tươi đẹp huyền ảo. Phải chăng vì vậy mà thi phẩm còn đọng lại mãi trong lòng người yêu thơ?
Đây thôn Vĩ Dạ được gợi cảm hứng từ một câu chuyện có thật của tác giả với người con gái mang tên Hoàng Thị Kim Cúc. Hai người quen nhau trong những năm tháng Hàn Mặc Tử còn làm ở Sở Đạc điền tỉnh Bình Định. Lúc đó Hàn Mặc Tử đã thầm yêu con gái ông chủ Sở chính là nàng Kim Cúc. Khi thi sĩ quay lại Quy Nhơn thì Kim Cúc lại theo cha về hẳn Huế. Mối tình thầm kín của thi sĩ từ đó đã rơi vào vô vọng. Khi hay tin Hàn Mặc Tử bị bệnh, Kim Cúc có gửi cho chàng thi sĩ si tình ấy một bức bưu thiếp in hình phong cảnh Huế, với lời thăm hỏi sức khỏe. Nhận được tấm bưu ảnh ấy, Hàn Mặc Tử vô cùng xúc động và bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đã ra đời. Có lẽ tấm bưu ảnh đó là tác nhân gọi dậy tiếng lòng thầm kín của thi sĩ, là tiếng gõ cửa để nỗi khát khao sống, niềm thiết tha được gắn bó với cuộc đời của Hàn Mặc Tử được tràn ra. Bài thơ được in trong tập “Thơ Điên” sau đổi thành “Đau thương”, một tập thơ với hai cái tên như hai mặt đối lập mà lại thật hài hòa. Bởi Điên hay Đau thương cũng chính là xuất phát từ tình yêu cuộc sống cháy bỏng, từ nỗi đau khi gặp phải “hoạn nạn nơi trần thế”. Nó là hai cung bậc cảm xúc của một trái tim đã sống trọn vẹn kiếp người. Bài thơ gồm ba khổ, mỗi khổ như một cảnh sắc riêng mà thoáng nhìn bề mặt người ta ít thấy sự liên hệ gần gũi. Nhưng nhìn sâu hơn vào mạch ngầm của thi phẩm bạn đọc sẽ thấy một sợi dây liên kết chặt chẽ. Đó có chính là ở trạng thái cảm xúc của thi nhân, nó như một dòng chảy với những đứt nối, như một hành trình từ quá khứ đến tương lai cùng với một khắc khoải không nguôi về tình yêu cuộc sống.
Mở đầu bài thơ là khổ thơ tả cảnh một khu vườn xứ Huế mang vẻ đẹp tinh khôi trong trẻo. Câu thơ đâu tiên là một câu hỏi tu từ như chứa đựng biết bao hàm ý, biết bao xúc cảm xa xôi:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Bạn đọc hẳn sẽ nhận ra sự đa thanh của câu thơ. Người hỏi ở đây phải chăng là cô gái xứ Huế muốn nhắn gửi tới chàng trai đã xa Huế lâu ngày chút trách giận, lại chút mời gọi quay trở về thăm lại Vĩ Dạ xưa? Nhưng cũng có thể lắm chứ đó là tiếng lòng của chính người xa Huế đang tự hỏi mình: sao còn chưa thể về thôn Vĩ, bao giờ mới có thể về thôn Vĩ lần nữa đây? Hiểu cách nào hẳn nhiên cũng có cái lý riêng. Nhưng chúng ta đều phải thừa nhận rằng dẫu hiểu ra sao thì nó cũng chỉ ra một hiện thực đó là “anh” đang ở xa Huế, đang cách biệt với Huế với Vĩ Dạ, chỉ có thể hồi tưởng và nhớ về một Vĩ Dạ mộng mơ trong hồi ức. Câu thơ có 6/7 chữ là thanh bằng như gợi đến những kỉ niệm ngọt ngào, tha thiết, những hồi ức êm đềm, sâu lắng. Rồi dòng hồi ức ấy cứ chảy ra, cảnh sắc khu vườn dần hiện lên qua từng nét bút:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Một thôn Vĩ chỉ còn như vậy thôi, chỉ còn mơ hồ vài nét vẽ nhưng đó hẳn là những ấn tượng được lưu giữ mãi mãi không phải trong miền kí ức của thi nhân. Đó là nắng thứ nắng trong trẻo đến tinh khôi của ngày mới. Nó không phải là thứ nắng chang chang hay ửng hồng ta gặp trong “Mùa xuân chín”:
– Trong làn nắng ửng khói mơ tan
– Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang
Nó cũng không phải cái “Nắng xuống trời lên sâu chót vót” trong thơ Huy Cận, không phải cái nắng hạ bừng chiếu như mặt trời chân lý trong thơ Tố Hữu. Trong Đây thôn Vĩ dạ, Hàn Mặc Tử không tả nắng mà thi nhân muốn gợi nên trong lòng bạn đọc cái tinh khôi, trong trẻo. Nắng trong thi phẩm là những tia nắng đầu tiên của một ngày. Trong câu thơ 7 chữ nhà thơ nhắc đến “nắng” hai lần như muốn nhấn mạnh màu nắng trong trẻo tinh khôi ấy, như muốn mở ra cả một khu vườn với sắc nắng ngập tràn. Đó là “nắng mới lên” trên những thân cau thẳng mướt. Chúng ta đều biết cau là loài ưa nắng, thân thẳng không xòe tán, là thứ cây dường như luôn được đón những tia nắng đầu tiên của một ngày. Vì vậy nắng trên hàng cau có lẽ ánh nắng tinh khôi vẹn nguyên nhất. Dường như sau một đêm thấm đẫm sương giăng, buổi ban mai đến những hàng cau lại đón nắng mới, cành lá lung linh hồi sinh sức sống. Cho nên ánh nắng đó là nắng ướt, tươi mới và long lanh. Nó vừa đủ ấm áp, vừa đủ trong trẻo lại không quá chói lóa, không quá gay gắt. Để rồi dưới ánh nắng ấy cả khu vườn như bừng lên một sức sống thanh tân:
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Đại từ phiếm chỉ “ai” như khiến khu vườn trở nên xa xôi mờ ảo. Nó gợi bao nhớ thương vừa thân thiết lại vừa xa vắng. Đặc biệt cách dùng từ và so sánh trong câu thơ này cũng rất tinh tế tài hoa. Để tả cái xanh của cây lá thi nhân dùng chữ “mướt” chứ không phải “mượt”. “Mướt” đâu chỉ là màu xanh tươi của cây lá mà còn gợi thêm cái non tơ, mềm mại, óng ả, cái sức sống thanh xuân căng tràn tươi tốt của khu vườn. Hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” vốn không xa lạ trong thơ văn nhưng trong câu thơ này khi được cộng hưởng với những câu chữ khác lại tạo ra một hình ảnh mang nét đẹp riêng. Người đọc như thấy trước mắt cái sắc xanh của khu vườn, nó không chỉ mượt mà, tươi tốt mà còn có gì đó rất sáng, rất trong như sắc ngọc lung linh. Từ “quá” gợi như tiếng reo lên trầm trồ mà ngỡ ngàng, như một giây phút thi nhân không thể nén kìm được cảm xúc trước cái đẹp ngời sáng, thanh tú của cỏ cây. Cả khu vườn vì thế mà như vừa thực vừa ảo, căng tràn sức sống lại cao quý thanh tân. Một khu vườn như vậy làm sao có thể không nhớ, không yêu?
Trong cái mướt mát của cây lá ấy thấp thoáng ẩn hiện một gương mặt chữ điền. Xưa nay vẫn có nhiều ý kiến tranh luận về cách hiểu gương mặt chữ điền này. Đó là gương mặt đàn ông hay đàn bà? là gương mặt của cô gái Huế hay của chàng trai xa Huế, là gương mặt của người Vĩ Dạ hay của người đang nhớ về Vĩ Dạ. Có một đặc trưng của bút pháp lãng mạn mà chúng ta nên lưu ý để có thể hiểu đúng về câu thơ này. Các nhà thơ lãng mạn khi tả người thường chỉ gợi những cảm nhận chung mà ít đi vào miêu tả chỉ tiết đường nét cụ thể. Hàn Mặc Tử cũng không phải là một ngoại lệ. Gương mặt chữ điền gợi cho người đọc về một vẻ đẹp phúc hậu, chất phác là cái đẹp của tâm tính hơn là của dung nhan. Vì vậy ở đây dẫu hiểu thế nào chúng ta đều có thể cảm nhận thấy sự hòa hợp giữa cảnh và người, thấy được vẻ thấp thoáng như có như không của gương mặt người ẩn lấp sau tàng lá, như mách bảo ta về một khoảng cách xa xôi, về một không gian chia cắt của người nơi này và ngoài kia.
Như vậy có thể thấy khổ thơ thứ nhất là những nét vẽ đơn sơ nhưng tinh tế và tài hoa về vẻ đẹp của Vĩ Dạ của xứ Huế hay của chính cuộc sống tươi đẹp ngoài kia. Nó là bức tranh về một khu vườn trong ánh nắng ban mai vừa trong trẻo, tinh khiết vừa tràn đầy sức sống. Tất cả mọi chỉ tiết đều hòa hợp trong sự thanh tân vừa giản dị gần gũi vừa lôi cuốn người đọc. Khi viết những câu thơ này, nhà thơ đã ở một nơi rất xa Vĩ Dạ, đang chịu cái đau đớn dày vò của bệnh tật, của mặc cảm và sự cô đơn. Nhưng những hồi ức về Vĩ Dạ vẫn hiện lên trong trẻo, tươi nguyên, nhà thơ vẫn hướng về cuộc đời với một tình yêu mãnh liệt. Có lẽ phải yêu lắm, phải gắn bó lắm, phải nhớ thương lắm, người ta mới có thể quên đi những đau đớn mà mình đang phải chịu để chỉ nhớ về những tươi đẹp nên thơ. Phải chăng vì tình yêu mãnh liệt ấy mà độc giả không thể không rung động trước bức tranh thi nhân vẽ ra?
Từ cảnh sắc khu vườn trong trẻo ở khổ thơ thứ nhất, khổ thơ thứ hai mở rộng không gian đến dòng sông Hương với gió mây, sông nước, thuyền trăng:
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Thơ Hàn thường có lối chuyển tứ nhanh, đột ngột đến bất ngờ như vậy. Ở bài thơ này ta cũng bắt gặp đặc điểm ấy. Trong thoáng chốc khu vườn trong trẻo xinh xắn đã được chuyển sang cảnh mây trời, sông nước quạnh vắng đượm một nỗi buồn chia lìa. Cảm xúc ấy được gợi lên ngay từ câu thơ mở đầu khổ thơ. Chúng ta dễ dàng nhận ra sự đứt gãy, chia ly khi câu thơ bị ngắt làm hai vế với nhịp thơ ¾ như ném hai sự vật về hai phía trái ngược nhau. Trong tự nhiên, gió và mây là hai sự vật gắn liền với nhau, gió thổi mây trôi. Vậy mà ở hai câu thơ này hai hình ảnh lại bị tách rời trong hai nhịp thơ gợi cảm giác chìa lìa, tan tác. Gió theo đường của gió, mây theo đường của mây. Chúng dường như chẳng còn gắn bó liên quan gì với nhau nữa. Có lẽ bút pháp lãng mạn đã tạo ra những hình ảnh đầy nghịch lý đi ngược lại quy luật của tự nhiên giúp nhà thơ diễn tả nỗi niềm tâm sự của mình. Căn bệnh hiểm nghèo mà Hàn Mặc Tử mắc phải khi tuổi còn quá trẻ, phải sống với những đau thương, mặc cảm và cách biệt với cuộc đời đã khiến thơ ông luôn phảng phất một nỗi đau, niềm bi ai, sự chia lìa.
Từ sự chia ly của mây gió trên bầu trời quạnh vắng đã in bóng xuống dòng Hương giang:
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Nhà thơ đã sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa để thể hiện nỗi buồn từ lòng người tràn ra cả không gian cảnh vật. Đâu chỉ mây gió chia ly, buồn tan tác mà đến cả dòng Hương giang cũng đìu hiu, quạnh vắng mang nỗi buồn mênh mang. Vẫn là dòng Hương giang ấy, vẫn là con sông của biết bao thi phẩm ấy nhưng trong thơ Hàn lại chứa đựng một nỗi niềm khác, một tâm tư khác. Không chỉ trên dòng nước phẳng lặng in bóng mây trời buồn thiu, mà hai bên dòng sông những bông hoa bắp như có như không lay động khe khẽ. Hoa bắp vốn là một thứ hoa dung dị của đời thường, không sắc, không hương, bông rất nhẹ và mỏng manh. Nhà thơ thật tinh tế khi dùng từ “lay” để gợi chuyển động của hoa bắp. “Lay” là những chuyển động rất nhẹ, rất khẽ chỉ là một chút thoáng qua. Nó là một động từ mà dường như ko để diễn tả hành động mà thể hiện nhiều hơn những tâm tình, xúc cảm. Chúng ta từng bắt gặp trong thơ hình ảnh những bông hoa lay động bên bờ sông vắng. Từ trong ca dao:
Ai về Giồng Dứa qua truông
Gió đưa bông sậy bỏ buồn lòng ai
Đến thơ ca hiện đại sau này:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ
(Quang Dũng – Tây Tiến)
Dường như những câu thơ này đều gợi đến một cảm giác chung, trong cái lay động của hồn hoa là nỗi bi thương của lòng người, là sự tĩnh lặng của không gian.
Hai câu sau của khổ thơ thứ hai đưa thời gian đến một đêm trăng huyền ảo:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Các thi liệu trong hai câu thơ là các thi liệu đã rất quen thuộc. Đó là hình ảnh thuyền, bến, sông, trăng… Những hình ảnh chảy trong thi ca từ ca dao tới thơ trung đại rồi hiện đại. Các hình ảnh này thường gợi đến một không gian lãng mạn, một cảnh sắc nên thơ và thường gắn với những hẹn hò của lứa đôi. Trong thơ Hàn Mặc Tử trăng cũng là một hình ảnh đặc biệt đã trở thành một mã hóa ám ảnh những người yêu thơ ông. Hình ảnh trăng trong thơ Hàn có một sự vận động rất rõ nét qua các thời kì. Có những khi “Trăng nằm sõng soài trên cành liễu”, có những lúc “mở cửa nhìn trăng trăng tái mặt”, lại có lúc “hôm nay có một nửa trăng thôi/ một nửa trăng ai cắn vỡ rồi”…
Trăng trong thơ Hàn Mặc Tử gắn với những đau thương tột cùng, khát vọng tột cùng của ông. Vì thế trăng ko chỉ là hình ảnh lãng mạn mà nhiều khi còn là trăng ứa máu, trăng điên loạn. Nếu nhìn trong sự vận động ấy, vầng trăng trong Đây thôn Vĩ Dạ thật đặc biệt. Đó không phải là ánh trăng gợi tính dục cũng ko phải là ánh trăng đau thương điên loạn như trong nhiều bài thơ khác của nhà thơ bạc mệnh.
Đó là ánh trăng lấp lánh, là ánh trăng huyền ảo, là ánh trăng cô đơn nhưng không ghê sợ mà gợi một vẻ đẹp đặc biệt. Cả một dòng sông lấp lánh ánh trăng và những con thuyền như chở đầy trăng đang trôi nhẹ giữa dòng nước. Một không gian tương phản giữa đêm tối mịt mờ và ánh sáng lấp lánh, tương phản giữa không gian tĩnh mịch với con thuyền chở trăng. Có cô đơn, có đau đớn nhưng lộng lẫy và huyền ảo. Đại từ phiếm chỉ “ai” một lần nữa góp phần làm nên sự hư ảo cho câu thơ.
Song có lẽ chữ đắt nhất trong hai câu thơ này và cả trong toàn bài thơ chính là chữ “kịp” đi cùng với câu hỏi tu từ ở câu cuối, gợi đến cái khắc khoải và đau thương trong tâm can của thi sĩ họ Hàn. Chữ “kịp” ấy đã gói trọn những âu lo, tuyệt vọng, đau đớn của nhà thơ, đã thể hiện trọn vẹn khát vọng sống đến tột cùng nhưng số phận lại bất hạnh và bi thương. Hàn Mặc Tử đang phải chạy đua với thời gian, với bệnh tật với cái chết.
Trong cuộc chạy đua ấy dường như những nỗ lực của người thi sĩ đã đi đến tuyệt vọng. Nhưng tình yêu với cuộc đời, khát vọng sống, khát vọng giao cảm với thế giới ngoài kia vẫn mạnh mẽ cháy bỏng. Chính những thôi thúc đó khiến Hàn Mặc Tử luôn đau đớn, khắc khoải về cuộc trở về. Như vậy ở khổ thơ thứ hai chúng ta đã thấy được sự vận động của tứ thơ sự thay đổi không chỉ về không gian, thời gian mà hơn cả là dòng cảm xúc. Từ hồi ức về thôn Vĩ dường như thi sĩ đã quay trở lại thực tại để nhìn thấy những bi thương bất hạnh cuộc đời mình. Phải chăng vì thế cả khổ thơ thấm đẫm sự chia lìa?
Khổ thơ thứ ba là mở đầu bằng hình ảnh khách đường xa
Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Hình ảnh khách đường xa được lặp lại hai lần như nhấn mạnh một bóng dáng ngày càng mờ ảo xa xôi. Ở vế thứ hai của câu thơ, chữ mơ mất đi hình ảnh khách đường xa dường như bé nhỏ dần, mờ ảo dần, như ngày một xa hơn, khó nắm bắt hơn. Phải chăng vì thế mà dù xuất hiện con người nhưng không mang đến cảm giác vui tươi, sum họp ngược lại càng làm tăng hơn cảm giác chia lìa, xa cách. Hình ảnh khách đường xa đó hòa cùng với sương khói mờ nhân ảnh với sắc trắng tới hư vô nhìn không ra. Tất cả tạo nên một không gian của hư ảo, một không gian của tâm tình sâu lắng nhất của thi sĩ chứ không còn là không gian thực. Hàn Mặc Tử đặc biệt yêu sắc trắng. Chúng ta từng gặp trong thơ ông sắc màu này ở nhiều bài thơ khác
Tôi sẽ đi tìm mỏn đá trắng
Ngồi lên để thả cái hồn thơ
Có lẽ cũng bởi màu trắng là màu của thanh khiết, của trinh nguyên nên Hàn Mặc Tử dành những xúc cảm đặcbiệt trong màu này. Câu thơ thứ hai lạ về cách diễn đạt, lạ trong cách bộc lộ cảm xúc. Nó vừa như một tiếng reo lên ngỡ ngàng ngạc nhiên trước vẻ đẹp trắng trong mà như không có thực của “em”. Sắc trắng đó như xòa mọi ranh giới chỉ còn lại một không gian mờ nhòa trong “mộng trắng trong”. Không gian ở khổ ba chỉ còn một sự phân định duy nhất “ở đây”. Ở đây có lẽ là để phân biệt với ở kia, ngoài kia. Vậy là không gian không còn là Vĩ Dạ, là Hương giang hay là xứ Huế nữa. Không gian chỉ còn ở đây – nơi của bệnh tật, khổ đau, tuyệt vọng, mặc cảm và chìa lìa và ngoài kia – cuộc đời với những yêu thương, khao khát, với kí ức, kỉ niệm và hi vọng. Ta bỗng nhớ một câu thơ khác, một ý thơ khác mà chung nhiều đau thương:
Tôi đang ở đây hay ở đâu
Ai đem tôi bỏ dưới trời sầu?
Sự chia định không gian đó cũng là một biểu hiện của đau thương và tuyệt vọng. Vì vậy nỗi khác khoải về tình người mới càng trở nên đau đáu khôn cùng
Ai biết tình ai có đậm đà?
Đại từ phiếm chỉ “ai” xuất hiện 2 lần, câu hỏi tu từ kết thúc bài thơ, về mặt hình thức là sự liên kết với hai khổ thơ trên, về mặt cảm xúc là biểu hiện tột cùng của đau thương dâng trào. Còn gì đau đớn hơn khi khát khao giao cảm với cuộc đời mà phải chịu càng chia lìa, cô độc. CÒn gì đau đớn hơn khi ta thương nhớ về ngoài kia, mà với ngoài kia ta sẽ dần bị lãng quên? Liệu còn tình ai sẽ đậm đà? Còn ai sẽ thương nhớ?
Hàn Mặc Tử là một nhà thơ lạ trong phong trào thơ mới. Đây thôn Vĩ Dạ là thi phẩm lạ trong gia tài thơ của thi sĩ. Bài thơ không ma quái, ko ám ảnh mà trong trẻo đến lạ kì. Có lẽ đó là phần kí ức đẹp tươi của thi sĩ về cuộc đời, là ước vọng trong khổ đau và khao khát. Vì thế bài thơ có đau thương nhưng lại gợi đến những xúc cảm tích cực và trong trẻo khiến ta hiểu thêm, trân trọng hơn tâm hồn người thi sĩ và tình yêu với cuộc đời.
Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 8
“Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Trăng nằm yên trên cành liễu đợi chờ
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Chẳng bán tình duyên ước hẹn thề”.
Ai đã từng sinh ra và lớn lên trên cõi đời này mà không biết đến “lời rao trăng” của Hàn Mặc Tử – một tên tuổi đã in thật sâu trong lòng độc giả. Tử được biết đến là “một hồn thơ mãnh liệt nhưng luôn quằn quại, đau đớn, dường như có một cuộc vật lộn và giằng xé dữ dội giữa linh hồn và xác thịt”. Tử “đã tạo ra cho thơ mình một thế giới nghệ thuật điên loạn, ma quái và xa lạ với cuộc đời thực. Có lẽ vì thế mà trong “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh và Hoài Chân đã xếp Hàn Mặc Tử vào nhóm thơ “kì dị” cùng với Chế Lan Viên. Tuy vậy, bên những dòng thơ điên loạn ấy, vẫn có những vần thơ trong trẻo đến lạ thường. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ như thế! Vĩ Dạ được ví như lời tỏ tình với cuộc đời của một tình yêu tuyệt vọng, yêu đơn phương nhưng ẩn sâu bên trong đó lại là cả một khối u hoài của tác giả.
Theo thi sĩ Quách Tấn – bạn thơ của Hàn Mặc Tử thì bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được gợi cảm hứng từ tấm bưu ảnh của người con gái có tên Hoàng Cúc – một người con gái dịu dàng thướt tha của xứ Huế. Một kiệt tác của đời thơ Hàn, một bài thơ trong trẻo hiếm hoi được Hàn làm trong chuỗi ngày đau thương, tăm tối nhất của đời mình. Đó là ngày tháng Hàn đang phải tự cách li cộng đồng, sống đơn côi trong một xóm vắng Bình Định để chữa căn bệnh “quái ác” như người đời xưa vẫn gọi.
Xứ Huế không biết từ khi nào đã là nơi khơi nguồn cảm hứng sáng tác cho nghệ sĩ. Từ âm nhạc, hội họa, đến kí… thể loại nào cũng để lại “dấu” riêng. Không ít người đã phải thốt lên rằng: “Đã bao lần đến với Huế mộng mơ, tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt” hay “Trở lại Huế thương bài thơ khắc trong chiếc nón, em cầm trên tay ra đứng bờ sông… “, Huế có trong câu hát vần thơ, có trong lòng mọi người và nay lại có trong thơ Hàn Mặc Tử. Câu thơ mở đầu là một câu hỏi mang nhiều sắc thái:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Như vừa hỏi, vừa nhắc nhở, vừa trách móc nhưng đó còn là một lời giới thiệu và mời gọi mọi người. Câu thơ có bảy chữ nhưng chứa tới sáu thanh bằng đi liền nhau làm cho âm điệu trách móc cứ dịu nhẹ đi, trách đấy mà sao tha thiết, bâng khuâng thế! Nhưng ai trách, ai hỏi? Phải chăng là Hoàng Cúc – người con gái thôn Vĩ mà Tử đã thầm yêu trộm nhớ bấy lâu. Không! Không phải Hoàng Cúc. Câu hỏi ấy chính là của chủ thể trữ tình Hàn Mặc Tử, từ nỗi lòng da diết với Huế để rồi vút lên câu hỏi tự vấn khắc khoải ấy. Tử phân thân để hỏi chính mình về một việc cần làm, đáng ra phải làm từ lâu – đó là về lại thôn Vĩ, thăm lại cảnh cũ người xưa nhưng lại chưa làm được mà giờ đây Tử không biết mình còn có cơ hội đó nữa hay không. Nhớ lắm, thương lắm, khao khát lắm nhưng cũng đầy mặc cảm và hoài nghi về khả năng thực hiện ao ước của mình. Vậy có còn cách nào cho thỏa ước ao? Cơ hội về lại Vĩ Dạ cơ hồ không còn nữa. Tử đã chủ động cách ly, tuyệt giao với cuộc đời nhưng tuyệt giao mà không tuyệt tình, thi sĩ đã trở về Vĩ Dạ bằng con đường hoài niệm và nhờ tưởng tượng chắp cánh cho tình yêu. Những hình ảnh đẹp đẽ nhất về Vĩ Dạ, về Huế lập tức sống dậy trong ký ức nhà thơ:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Vĩ Dạ hiện lên trong kí ức Hàn Mặc Tử thật giản dị mà sao đẹp quá! Bằng tình yêu thiên nhiên của mình, Tử đã mở ra trước mắt ta một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp. Thôn Vĩ nói riêng và Huế nói chung được đặc tả bằng ánh sáng của buổi bình minh và một vườn cây quen thuộc. Đây là ánh nắng mà ta có thể bắt gặp trong bài “Mùa xuân chín ” của tác giả:
“Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng”.
Nắng trong thơ Hàn Mặc Tử thường lạ, đầy ấn tượng với những “nắng tươi”, “nắng ửng”, còn ở thôn Vĩ là “nắng mới lên”. Đó là thứ nắng mai tinh khôi, tươi tắn, trong trẻo khiến cho thiên nhiên thêm ấm áp, tràn đầy sự sống. Ai đã từng sống với cau, dễ thấy cau là một thứ cây cao, thậm chí ở mảnh vườn nào đó, có thể là cao nhất. Vì thế cau là cây đầu tiên nhận được những tia nắng sớm mai đầu tiên. Nắng mai rót vào vườn cứ đầy dần lên theo từng đốt, từng đốt của thân cau. Đến khi tràn trề thì nó biến cả khu vườn xanh thành viên ngọc lớn. Khu vườn với vẻ xanh mướt, tốt tươi, mượt mà, đầy sức sống như được bàn tay ai đó chăm sóc cẩn thận, tỉ mỉ đến từng chiếc lá.
Chẳng những thế, khu vườn ấy còn vừa được gội sương đêm giờ ánh lên màu xanh ngọc long lanh dưới ánh mặt trời khiến thi sĩ không khỏi trầm trồ, ngưỡng mộ. Giữa khung cảnh đó, con người xuất hiện làm cho thiên nhiên đã đẹp lại trở nên có linh hồn. Đó là hình ảnh con người xứ Huế với gương mặt “chữ điền” thấp thoáng sau lá trúc. Nhà thơ không tả thực mà gợi bằng ấn tượng cốt để lộ thần thái của con người nơi đây với vẻ đẹp phúc hậu mà ý nhị, kín đáo. Vẫn là khu vườn đó hàng ngày, quen thuộc trong cấu trúc nhà vườn đặc trưng của xứ Huế ai chẳng biết, vẫn là con người đó mà sao qua ngòi bút của Hàn Mặc Tử trở nên mới lạ, có hồn và hấp dẫn đến vậy! Có lẽ, ở đây không phải chỉ là vấn đề góc nhìn, kỹ thuật tả cảnh, tả người điêu luyện mà hơn hết là ở cái tình, ở lòng yêu tha thiết của thi nhân đối với cảnh và người xứ Huế.
Vẫn là tình yêu đời đó, nhưng đến khổ thơ thứ hai, đã bộc lộ thành dạng thức khác với những thi ảnh không còn đẹp đẽ, ấm áp mà tan tán, chia lìa:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”
Hai câu thơ nói tới một thực tại phiêu tán. Tất cả dường như đang bỏ đi, gió bay đi một lối, mây trôi đi một đường … Hình ảnh thơ chứa đựng sự phi lý nếu đem quy luật tự nhiên ra mà xem xét bởi lẽ thường thì gió thổi mây bay, gió và mây cùng đường, ở đây bỗng tan tác, chia lìa. “Gió” và “mây” bị đẩy về hai phía tận cùng của câu thơ, gợi lên sự cách xa vời vợi mà theo xu thế chuyển động thì càng lúc càng xa, cảm giác trống vắng dâng đầy cả câu thơ. Mượn hình ảnh mây và gió, tác giả mụốn nói lên tâm trạng của chính mình, về sự xa cách của mình với cuộc sống trần gian tươi đẹp và cũng có thể sự xa cách đó là vĩnh viễn bởi Hàn Mặc Tử bây giờ đã là một phế nhân, đang nằm chờ cái chết.
Còn dòng sông (xưa nay vẫn được hiểu là sông Hương) thì mang một gương mặt ủ ê, “buồn thiu”, chừng như không một gợn sóng. Tử đã khéo léo khoác lên dòng sông biện pháp nhân hóa, khiến “dòng nước buồn thiu”. “Dòng nước buồn” vì tự mang trong lòng một tâm trạng buồn hay nỗi buồn chia phôi của gió – mây đã bỏ buồn vào dòng sông? Chẳng riêng dòng sông mà hình ảnh “hoa bắp lay” cũng gợi trong ta một nỗi buồn hiu hắt – một nỗi buồn bao phủ từ bầu trời đến mặt đất. Và phía sau mây, gió, đất, nước chính là tâm trạng của một con người mang nặng một nỗi buồn xa cách, một mối tình vô vọng, tất cả bây giờ chỉ còn lại trong mộng tưởng.
Trên cái xu thế đang trôi đi, bay đi, chảy đi, phiêu tán ấy, Hàn Mặc Tử mong có một thứ có thể ngược dòng “về” vớí mình, ấy là trăng:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Xưa nay, con thuyền và dòng sông là những hình ảnh quen thuộc trong thi ca, nhất là dòng thi ca về Huế. Nhưng cái lạ, cái hay trong thơ Hàn ấy là hình ảnh con thuyền “chở trăng” trôi trên dòng “sông trăng”. Liên tưởng phong phú, tinh tế của thi nhân đã tạo ra những hình ảnh trôi giữa đôi bờ thực – ảo. Không biết dòng nước đang hoá mình thành dòng trăng hay ánh trăng đang tan mình thành nước, chỉ biết rằng dòng sông đã trở thành một dòng ánh sáng tự lúc nào, bến sông trở thành “bến trăng” và con thuyền cũng chở đầy trăng. Hình ảnh thực biến thành hình ảnh mộng tưởng, đẹp lung linh, hư thực huyền hồ.
Nhưng Hàn Mặc Tử vẫn khao khát có được trăng, mong con thuyền chở trăng kia có thể về “kịp” với mình trong “tối nay”. Toàn bộ hi vọng của Hàn đặt cả vào con thuyền chở trăng đó, hi vọng mà sao vẫn có gì phấp phỏng, âu lo. Sức nặng của câu thơ nằm trong từ “kịp”, giản dị, khiêm nhường, không bóng bẩy, không cầu kỳ mà sâu sắc. Nó gợi cảm giác âu lo, phấp phỏng. Nó chứa đựng nỗi ám ảnh lớn về thời gian. Nó hé mở mặc cảm về một hiện tại ngắn ngủi. Hình như Hàn Mặc Tử đã chờ trăng từ lâu lắm, và đã cảm nhận được sắp đến lúc không thể chờ được nữa, con người có thể bị bứt lìa khỏi đời sống bất cứ lúc nào, ngay cả khi chưa kịp tận hưởng vẻ đẹp của trăng, sự thơ mộng của cuộc đời.
Cho nên cùng với mặc cảm cuộc đời ngắn ngủi, từ “kịp” còn hé mở cho người đọc thấy một tâm thế sống của Hàn Mặc Tử: sống là chạy đua với thời gian, tranh thủ từng giây từng phút trong cái quỹ thời gian đang vơi đi từng khắc, từng ngày của mình vì một cuộc chia lìa vĩnh viễn đang đến rất gần… Sống là hối hả chạy đua với thời gian, điều này Hàn Mặc Tử gặp gỡ Xuân Diệu, bởi cả hai nhà thơ đều yêu cuộc sống đến thiết tha, cháy bỏng, đều trân trọng, quý giá từng khoảnh khắc sống ở trần gian. Nhưng tâm thế sống của mỗi người một khác. Cái tôi Xuân Diệu cảm nhận về “cái chết” luôn chờ mỗi người ở “cuối con đường”, nên tranh thủ sống mà tận hưởng “tối đa” hạnh phúc trần thế. Còn cái tôi Hàn Mặc Tử, cảm nhận về “cái chết” đã “cận kề” nên “được sống” không thôi đã là hạnh phúc.
Tiếp nối mạch thơ trên, khổ thơ thứ ba thể hiện một nỗi niềm canh cánh của thi nhân trong cái mênh mông, bao la của đất trời. Đó là sự hi vọng, chờ đợi, mong mỏi và một niềm khắc khoải khôn nguôi.
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Nếu tình yêu đời ở hai khổ thơ trên chủ yếu hướng tới cảnh, thì khổ thơ cuối bài thơ khép lại bài thơ bằng tình yêu hướng tới con người, nếu ở trên là vườn đẹp, trăng đẹp thì ở đây là người đẹp. Dễ dàng thừa nhận hình ảnh “khách đường xa” ở đây chính là đối tượng mà cái tôi chủ thể hướng tới. Có thể là Hoàng Cúc (người gửi bưu ảnh, người Hàn thầm thương trộm nhớ), là cô gái xứ Huế (nữ sinh Đồng Khánh với sắc áo trắng tinh khôi), mà cũng có thể là người đời nói chung. Dù hiểu con người là ai đi nữa thì ta vẫn thấy giữa thi nhân và họ khoảng cách xa xôi vời vợi. Xa vì là “khách”, xa hơn chút nữa vì ở trên “đường xa”, lại xa hơn nữa vì sắc áo “trắng quá”, trắng đến không thực, đến hư ảo, đến nao lòng, và xa xôi vời vợi đến mức không thể nắm bắt, không thể với tới khi lẫn vào “sương khói”. Những hình ảnh ấy lại không phải là thực, lại chỉ là “mơ”.
Tất cả lúc này chỉ còn lại mờ mờ, ảo ảo. Tử cố níu kéo, cố bám víu nhưng nhưng không được vì cảnh và đời chỉ toàn là “sương” với “khói”. Cảm giác như chới với, hụt hẫng nên có lúc thi sĩ rơi vào hoài nghi:
“Ai biết tình ai có đậm đà?”
Hai đại từ phiếm chỉ “ai” hướng tới hai đối tượng: chủ thể trữ tình và đối tượng mà chủ thể trữ tình muốn giãi bày, dù hiểu thế nào, dù “ai” có là “ai” đi nữa thì cuối cùng vẫn chỉ là cái tình ấy, của cái tôi ấy – Hàn Mặc Tử, trên chuyến hành trình bất đắc dĩ đã gần đến cõi “thượng thanh khí”, vẫn cứ đau đáu, tha thiết, khắc khoải ngoảnh lại cuộc đời để mà yêu, mà gắn bó. Yêu đời đã là quý, yêu trong tuyệt vọng, càng tuyệt vọng lại càng yêu, một thứ tình yêu được thử thách và vượt lên trên cái chết, tình yêu đó chẳng đáng quý bội phần sao?
“Đây thôn Vì Dạ” là một bức tranh đẹp về cảnh và người của một miền quê đất nước qua tâm hồn thơ mộng, giàu trí tưởng tượng và đầy yêu thương của một nhà thơ đa tình đa cảm. Bằng thủ pháp nghệ thuật liên tưởng cùng với những câu hỏi tu từ xuyên suốt bài thơ, tác giả Hàn Mặc Tử đã phác họa ra trước mắt ta một khung cảnh nên thơ, đầy sức sống và ẩn trong đó là nỗi lòng của chính nhà thơ: nỗi đau đớn trước sự cô đơn, buồn chán trần thế, đau cho số phận ngắn ngủi của mình. Dù vậy ta vẫn thấy sau nỗi niềm ấy là một Hàn Mặc Tử với tình yêu thiên nhiên mãnh liệt, nồng cháy và một khát vọng về cuộc sống ấm tình bởi Tử mang trong mình một trái tim suốt cuộc đời luôn thổn thức tình yêu.
Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử ngưng mình, lắng đọng trong tập “Thơ Điên” và khép lại trên giá sách bạn đọc. Nhưng dư ba về cảm xúc có lẽ cứ nhói lên mà sống dậy trong lòng độc giả. Cái khắc khoải, khôn nguôi đến khó tả bởi ta nhận ra một niềm yêu trong nỗi đau. Đó là tình yêu say đắm của một người thi sĩ với cuộc đời trong tấn bi kịch đau đớn khi sắp phải chia lìa, cách biệt với cuộc đời.
Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 9
Nhắc đến Hàn Mặc Tử không thể không nhắc đến bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ- một trong những tuyệt phẩm bất hủ của ông. Bài thơ được bắt nguồn cảm hứng từ bức bưu ảnh của Hoàng Thị Kim Cúc- người con gái ông từng thầm yêu. Đây thôn Vĩ Dạ được sáng tác trong thời gian ông đang điều trị bệnh ở Quy Hòa nên mỗi tứ thơ trong câu từ của tác phẩm đều mang một nỗi niềm khát khao được giao cảm của nhà thơ.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Câu hỏi tu từ được sử dụng mở đầu bài thơ thể hiện sự trông ngóng, nỗi mong chờ của người con gái đang thôn Vĩ. Câu hỏi vừa như lời trách móc kèm chút hờn dỗi, lại vừa như lời mời gọi, mong đợi. Lời thơ nhẹ nhàng như tiếng lòng của người xứ Huế, vừa da diết lại quá đỗi dịu dàng.
Sau câu hỏi từ từ là bức tranh tươi đẹp của thôn Vĩ hiện lên đầy sống động, tươi mắt, tinh khôi:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Phải chăng vì lời mời gọi thiết tha ấy, mà dù đôi chân không thể bước về Huế, Hàn Mặc Tử vẫn quyết trở về trong tâm thức để ngắm nhìn và tận hưởng vẻ đẹp của chốn cũ, người thương. Hình ảnh đầu tiên ta là “nắng hàng cau”- một màu nắng thật đặc biệt trong thơ ca. Đó là cái nắng đầy mới mẻ, trong trẻo của buổi sớm bình minh xứ Huế- “nắng mới lên”, những hàng cau vừa thức giấc sương còn đọng trên lá long lanh dưới nắng ban mai. Từ xa ngắm nhìn nắng hàng cau, khi tới gần, được cảm nhận rõ hơn về vẻ đẹp của cảnh vật. Màu xanh ngọc bích vừa tươi tắn vừa sang trọng được gợi lên từ vẻ đẹp khu vườn. Tính từ “mướt” càng gợi lên vẻ non tơ, mềm mại, mỡ màng nhựa sống của cây lá. Phải chăng, mảnh vườn được tưới tắm bởi hương vị của tạo hoá, được chăm sóc bởi bàn tay khéo léo của con người mà đẹp càng thêm đẹp, tươi càng thêm tươi. Bóng dáng người con gái kín đáo, e ấp bước ra từ khu vườn cổ tích, ẩn hiện dưới lá trúc xanh lại càng tôn lên vẻ đẹp của không gian và con người đất Huế. Ẩn sâu trong từng lời thơ trong sáng, thanh thoát và tươi tắn ấy là một tâm hồn với khát khao mãnh liệt được giao cảm, được trở về chốn cũ, gặp lại người xưa sau những tháng ngày xa cách. Nhưng có lẽ điều đó thật khó có thể có được.
Nếu khổ thơ đầu gợi cho ta ấn tượng về buổi sáng trong ngần thì khổ thơ thứ hai cho dẫn chúng ta về với không gian thuyền nước, sông trăng vào buổi xế chiều- đêm tối:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Gió và mây gợi sự trôi nổi, lang thang, biện pháp đối “gió theo lối gió, mây đường mây” càng nhấn mạnh sự chia lìa đôi ngả. Phải chăng, đó là hình ảnh ẩn dụ cho sự xa cách của nhà thơ với người mình thầm thương mến, dù yêu nhưng không thể cùng là bạn đồng hành trong quãng đời ngắn ngủi còn lại của kiếp người. Nghệ thuật nhân hóa “Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay” càng khẳng định nỗi sầu giăng trong lòng người thi sĩ, nỗi buồn thấm vào cảnh vật, hay chính tâm hồn nhà thơ đang sầu muộn, mà cảm nhận thiên nhiên cũng sầu thương, buồn bã đến nặng lòng, bởi vốn dĩ:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Nếu khổ thơ đầu, nỗi buồn nhẹ nhàng, cảnh vật còn mang sự tươi tắn thì đến với khổ thơ hai, cảnh vật nhuốm màu buồn hơn, nỗi buồn và cô đơn cũng vì thế mà thấm đẫm hơn:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Chữ “kịp” được đặt trong câu hỏi tu từ “Có chở trăng về kịp tối nay?” cho thấy được nỗi hoài vọng của tác giả về một hạnh phúc, về một người có thể cùng thi nhân giao cảm. Trong câu thơ, ta thấy được sự bất lực trước thời gian của tác giả. Dường như, nhà thơ đã đem nỗi mặc cảm về căn bệnh quái ác của bản thân vào trong cả tứ thơ của mình.
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra.”
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà.”
Từ “mơ” được đặt ở đầu câu càng nhấn mạnh giấc mộng của tác giả về một điều đẹp đẽ, có vị khách đường xa tới thăm, cùng đồng điệu, tâm sự với kẻ cô đơn trong cảnh bệnh tật. Điệp từ “khách đường xa” được lặp lại càng khẳng định khao khát được gặp gỡ của Hàn Mặc Tử nhưng có lẽ giấc mộng ấy chẳng thể nào thành bởi vị khách đã xa lại càng xa.
Bằng ngòi bút đầy tài năng và nội tâm phong phú của mình, Hàn Mặc Tử đã mang đến cho độc giả những vần thơ đẹp đẽ. Trong chữ có tình, trong tình có chữ, những cảm quan đầy tinh tế gợi cho người đọc bao dư vị về tình đời qua bài thơ.
Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 10
Trong cuốn Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã có một nhận định rất sâu sắc về phong trào thơ Mới như sau: “Đời chúng ta nằm trong vòng một chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”.
Nếu như Xuân Diệu luôn đắm say với những cảm xúc thiết tha, rạo rực băn khoăn thì nhà thơ Hàn Mặc Tử lại gắn liền với sự kỳ dị, điên cuồng và trong thế giới kỳ dị điên cuồng đó người ta vẫn tìm thấy một tình yêu đến đau đớn, khắc khoải hướng về cuộc đời trần thế, dẫu nó đã để lại cho ông nhiều bất hạnh, bi ai. Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ xuất sắc nhất của Hàn Mặc Tử, được coi là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất và hay nhất của phong trào thơ Mới cũng như trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
Hàn Mặc Tử tên thật Nguyễn Trọng Trí, sinh năm 1912 trong một gia đình công giáo nghèo tại Quảng Bình, nổi tiếng là thần đồng thơ từ những năm 15, 16 tuổi. Phong cách thơ của ông có sự đan xen kết hợp giữa những hình ảnh thân thuộc, trong trẻo, thanh khiết, thiêng liêng nhất với những thứ rùng rợn, ma quái, cuồng loạn đã tạo nên một diện mạo thơ vô cùng kỳ dị và phức tạp.
Đây thôn Vĩ Dạ sáng tác năm 1938 in trong tập thơ Điên, sau đổi tên thành Đau thương, bài thơ ra đời trong hoàn cảnh mối tình đơn phương của Hàn Mặc Tử với cô gái gốc Huế là Hoàng Thị Kim Cúc dường như đã trở nên vô vọng khi hai người vừa cách biệt cả địa vị lẫn địa lý.
Trong sự hẫng hụt đến tột cùng ấy Hàn Mặc Tử đã viết rất nhiều thơ về sự kiện này, trong đó khác biệt có bài Đây thôn Vĩ Dạ được viết trong lúc bệnh tình của Hàn Mạc Tử trở nặng nhưng lại nhận được tấm bưu thiếp của người xưa, điều ấy đã khơi gợi lên trong lòng ông sự vui sướng, niềm ham sống vô cùng, tất cả đều được thể hiện một cách trọn vẹn trong bài thơ này.
Không chỉ vậy Đây thôn Vĩ Dạ còn là thông điệp mà Hàn Mặc Tử muốn gửi gắm cho cả cuộc đời này, là nỗi niềm khát khao, tha thiết với cuộc sống trần thế một cách mãnh liệt của nhà thơ.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Ở khổ thơ đầu của bài thơ phong cảnh thiên nhiên của thôn Vĩ Dạ, một góc của xứ Huế mộng mơ đã được mở ra với dáng vẻ trong sáng thanh khiết dưới cái nắng mai dịu dàng. Câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” mang một âm sắc đặc biệt bởi đã số chữ đều mang thanh bằng đã đem đến một cảm giác rất Huế, rất ngọt ngào êm ái tựa như bức rèm mỏng đã mở ra và khơi gợi nên mạch cảm xúc mộng và thơ cho toàn bộ tác phẩm.
Câu hỏi tu từ ấy cũng khiến ta có một mối băn khoăn không dứt về chủ thể “anh”, đó là câu hỏi nhớ mong của một cô gái xứ Huế, mang ý trách móc, hờn dỗi một cách duyên dáng chàng trai sao không chịu tỏ lòng mình, rồi cũng có ý nhắc nhở, mời mọc người bạn cũ về thăm Huế.
Hoặc đó cũng có thể là tiếng lòng của Hàn Mặc Tử, vừa chất vấn, cũng vừa nhắc nhở bản thân sao “không về chơi thôn Vĩ” và trong cái “không về” ấy là cả một dự cảm đớn đau về cuộc đời bất hạnh, trước đó anh đã không về được thì có lẽ sau này cũng không thể về được nữa, Hàn Mặc Tử đã chẳng còn nhiều thời gian, đành lỡ hẹn với Huế và người xưa.
Có thể nhận ra được rằng về Huế có lẽ là nỗi trăn trở, nuối tiếc vô cùng của thi sĩ, đó không chỉ là nơi ông từng gắn bó một thời gian dài mà ở tại nơi ấy còn có người con gái mà ông yêu thương tha thiết, chẳng biết nàng có đợi không, nhưng ông vẫn chỉ hướng về người. Sau câu hỏi tu từ mang đậm nỗi khát khao cháy bỏng được về lại Huế một lần, thì Hàn Mặc Tử đã dùng những câu thơ rất đẹp để tái hiện lại cảnh thôn Vĩ Dạ đầy chất thơ và mộng ảo.
Đó là cảnh thôn quê trước buổi bình minh với những nét vẽ tươi tắn và đặc sắc, đó là vẻ đẹp của nắng với hai từ “nắng” lặp lại trong một câu thơ “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. Có thể nói rằng ngòi bút của Hàn Mặc Tử là một ngòi bút tài hoa trác tuyệt, người sẵn sàng phá vỡ các quy tắc lặp từ tối kỵ của thi ca để tạo nên một bức tranh với cái nền vàng nhàn nhạt, ánh nắng nhu hòa tràn ngập khắp không gian, khiến vần thơ cũng như được thổi bừng sức sống ấm áp và tươi trẻ.
Và cái nắng ở đây cũng rất riêng ấy là “nắng hàng cau”, phải nói rằng cau là biểu tượng của xứ Huế, loài cây có lợi thế về chiều cao, lúc nào cũng vươn lên thẳng tắp và đón nhận một cách trọn vẹn nắng trời, toàn cây lấp lánh những ánh sáng xanh vàng, khiến hồn người trở nên yêu đời hơn cả.
Rồi “nắng mới lên” lại cũng là những cảm tưởng mới về hình ảnh nắng của thôn Vĩ đó không phải là cái nắng gay gắt đổ lửa giữa trưa hè mà đó là cái nắng trong trẻo, thanh khiết, dịu dàng hoàn toàn tương khớp với “nắng hàng cau”, cũng mang một sức sống mới, tựa như tâm hồn của thi nhân lúc nhận bưu thiếp của người cũ, có lẽ phải nói rằng đó là biểu tượng của sự khởi đầu.
Dưới vẻ đẹp của nắng vàng bao phủ là vẻ đẹp của khu vườn xứ Huế với một màu xanh rất “mướt” đầy sức gợi với màu “xanh như ngọc”. Chỉ một từ “mướt” thôi nhưng đã gợi ra cái sự trù phú, non tươi, mỡ màng tràn đầy sinh khí của khu vườn thôn Vĩ, rồi cũng gợi ra cảnh một khu vườn mới tắm sương đêm đang còn đọng nước, từng giọt sương trong trẻo đang lung linh dưới ánh mặt trời, phản chiếu lại những tia nắng mới khiến cho từng tán lá xanh phát sáng, khơi gợi liên tưởng về một màu xanh ngọc ngà, trong trẻo, tươi mát.
Câu thơ lại thêm một từ “ai” phiếm chỉ khiến cho toàn cảnh bức tranh trở nên có hồn và tình tứ hơn cả, từ đó làm nổi bật lên vẻ đẹp của người thôn Vĩ trong câu “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Hàn Mặc Tử đã dùng bút pháp “thi trung hữu họa” của văn học trung đại với những nét vẽ vừa thanh của lá trúc lòa xòa làm nổi bật lên cái nét đậm của một khuôn mặt chữ điền duyên dáng, phúc hậu của người con gái. Đó là gương mặt mang những nét đẹp phẩm chất mà người ta vẫn mong cầu ở người con gái, nhân hậu, thủy chung, mang tướng hình có phúc phần về sau.
Hết tả cảnh ngày tươi tắn, trong trẻo, Hàn Mặc Tử lại đưa người đọc về với cảnh đêm của xứ Huế, có nước có mây, có thuyền và đặc biệt là có cả ánh trăng, thi liệu quen thuộc trong thơ của tác giả. Có thể thấy rằng giữa hai khổ thơ có sự chuyển đổi cảm xúc rất rõ rệt từ tình yêu đời, lòng vui sống tựa như nắng mai thì Hàn Mặc Tử lại trở về với cảm giác hoang mang, lo lắng với những cảm giác bất an, buồn rầu tựa như cảnh sông nước mênh mông lạnh lẽo.
“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Hai câu thơ đầu tả thực cảnh mây trời, sông nước xứ Huế với lối ngắt nhịp 4/3 tựa như bẻ đôi câu thơ làm hai nửa, tạo cảm giác hụt hẫng khó tả, điệp từ “mây”, “gió” lại mang đến sự đóng khung trong việc tả cảnh. Như vậy dường như mây và gió chẳng hề liên quan gì đến nhau, đường ai nấy đi trong khi từ xưa tới nay mây đi theo gió đã là chuyện kinh thiên định nghĩa, điều này bộc lộ rõ nội tâm và dự cảm không lành của Hàn Mặc Tử trước sự chia ly, cách biệt ghê gớm, đó là sinh tử, chứ chẳng còn là khoảng cách hay tâm hồn nữa.
Từ điệu chảy lững lờ, ngập ngừng “buồn thiu” của dòng sông Hương nổi tiếng đi vào thơ đã trở thành hình ảnh nhân hóa phản chiếu nỗi lòng sầu muộn của thi nhân trước số phận. Mà có lẽ rằng “hoa bắp lay” chính là cuộc đời của tác giả, nhạt nhòa, buồn tẻ và lặng lẽ chán chường.
Hai câu thơ tả cảnh sông nước dường như đã xóa tan đi cái mộng cảnh biêng biếc, tươi trẻ tràn ngập sức sống và hơi ấm tình người trong khổ thơ đầu, là sự bừng tỉnh của tác giả trước cảnh ngộ thê lương của bản thân, trước con đường tăm tối vô hương, vô sắc hiện hiện tại.
Rồi dường như không chịu đựng được cái đau đớn của thực cảnh Hàn Mặc Tử lại tiếp tục chìm vào cõi mộng với ánh trăng vàng, vốn là tri kỷ tri âm suốt đời của tác giả ở chốn cô đơn này. Trăng xuất hiện rất diễm lệ là cả một dòng sông dát ánh trăng vàng, cả một con thuyền chuyên chở trăng, trăng đã đem đến cho tác giả một hiện thân về trần thế tươi đẹp, về cuộc đời mà tác khao khát được chiếm lĩnh hòa nhập.
Câu hỏi “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/Có chở trăng về kịp tối nay?” ẩn hiện sự lo lắng của tác giả trước sự hữu hạn của đời mình, lo rằng liệu bản thân còn kịp tận hưởng ánh trăng sáng, hay chính là cuộc đời vốn còn nhiều nuối tiếc.
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra…
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Khao khát về cuộc sống trần thế của tác giả càng trở nên nổi bật trong khổ thơ cuối khi đi vào cụ thể ấy là khao khát về hơi ấm tình người, Hàn Mặc Tử muốn thoát khỏi cái cảm giác cô độc, lạnh lẽo muốn tận hưởng cuộc sống bằng tình yêu. Cõi đời đã được chỉ rõ bằng hình bóng của giai nhân, là người trong mộng tưởng của tác giả thế nhưng “Mơ khách đường xa, khách đường xa” ý thơ lặp lại đã diễn tả một cảm giác xa lạ, hình bóng người con gái ấy đang dần khuất ra khỏi tầm với của tác giả, cứ xa mãi mà dần vụt mất đến độ đôi mắt u sầu của người quá thi sĩ cũng phải xót xa “Áo em trắng quá nhìn không ra”.
Có lẽ đời này đã định hai người không chung một điểm cuối, chỉ có thể bất lực nhìn cái cõi trần thế, cái bóng hình giai nhân lần lượt trở nên vô tung vô ảnh, còn thi nhân thì chết lặng trong nỗi sầu muộn cô đơn. Và khi thi nhân không thể hòa nhập vào với thế giới mà mình khao khát ông lại phải quay về với thế giới của mình, một thế giới mờ mịt “mờ nhân ảnh” thiếu vắng đi tình người, bị cách li, phải đối mặt với cái chết cận kề, sắp xa rời đi cái trần thế mà ông vẫn khao khát nắm giữ, đó là nỗi đau đớn không tưởng.
Đặc biệt tâm hồn ấy của nhà thơ còn mãi luẩn quẩn trong một câu hỏi băn khoăn, băn khoăn về tình cảm của người xưa, liệu rằng cô gái ấy có từng một lần có tình cảm với ông, hay cô gái ấy có biết đến mối duyên thầm lặng mà ông chẳng dám ngỏ đã bao năm. Rõ ràng rằng ta có thể cảm nhận được niềm hy vọng mong manh về mối duyên tình đã lỡ dở, bởi vì một tấm bưu thiếp mà lại dấy lên trong lòng thi nhân nhiều cảm xúc, thế nhưng kết lại vẫn là nỗi cô đơn, trống vắng và đau khổ của một con người còn nhiều điều tiếc nuối với thế gian.
Có thể trích đôi lời Hoài Thanh về thơ Điên của Hàn Mặc Tử để nói về Đây thôn Vĩ Dạ, đó là “Một nguồn sáng tỏa ra từ một linh hồn vô cùng khổ não. Ta bắt gặp dấu tích còn hoi hóp của một tình duyên vừa chết yểu. Thất vọng trong tình yêu, chuyện ấy trong thơ ta không thiếu gì nhưng thường là một thứ buồn, dầu có thấm thía vẫn dịu dịu. Chỉ trong thơ Hàn Mặc Tử mới thấy một nỗi đau thương mãnh liệt như thế.
Lời thơ như dính máu”. Đọc thơ ta yêu cái khát khao được sống được yêu, yêu cái ánh mắt nhìn đời đầy tươi đẹp thế nhưng cũng xót xa cho số phận của người thi sĩ, một cuộc đời đớn đau khiến Hàn Mặc Tử không thể mộng ước lâu được, nên cuối cùng vẫn phải quay về cái chốn cô đơn lạnh lẽo, không người yêu, không hơi ấm tình người, đợi chờ cái chết trong đau khổ và tuyệt vọng.
Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 11
“Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Không bán đoàn viên, ước hẹn hò.”
Nhắc đến những dòng thơ này, người đọc chắc hẳn không còn lạ lẫm gì với hình ảnh “bán trăng” của Hàn Mạc Tử. Một sự nghịch lí, lạ đời vì trăng cũng là chung cũng là của riêng mọi người, hà cớ sao lại “bán”. Thế nhưng, từ hình ảnh này người ta mới thấy tấm lòng thủy chung, son sắt của nhà thơ. Và một lần nữa sự thủy chung ấy lại được tái hiện qua Đây thôn Vĩ Dạ. Tác phẩm không những là bức tranh thủy mặc về một vùng của cố đô Huế mà nó còn là nỗi lòng gửi tới phương xa của nhà thơ Hàn Mạc Tử.
Mở đầu bài thơ, không phải là lời chào mà là lời trách móc: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Giọng điệu mang tính hỏi han, trách móc nhân vật trữ tình sao không về với thôn Vĩ, về với những kỉ niệm. Câu thơ còn nói lên sự tiếc nuối khi nhân vật trữ tình không thể chiêm ngưỡng được hết vẻ đẹp thôn Vĩ.
Sự tiếc nuối của người con gái đã nhắc đến âu cũng có căn cứ vì với một loạt “vẻ đẹp” sau đây thì dù ai bỏ lỡ chuyến về đều phải luyến tiếc.
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Ba câu thơ này đã bước đầu khắc họa bức tranh quê hương thôn Vĩ với vẻ đẹp trong sáng, thanh khiết. Ở câu thơ thứ hai tác giả khéo léo dùng biệp pháp điệp từ “nắng”. Nếu như “nắng” ở vế đầu chỉ vị trí nó xuất hiện (nắng trên hàng cau) thì “nắng” ở vế sau lại nói về tính chất (nắng mới). Khung cảnh ở thôn Vĩ xuất hiện trước mắt người đọc là vẻ đẹp vườn tược, vẻ đẹp vùng nông thôn ngoại ô thành phố. Hàng cau chính là hình ảnh điển hình nhất cho vườn tược chốn Thừa Thiên, nhưng tác giả khéo léo hơn khi lồng vào hình ảnh này là một “gia vị” đậm chất Huế. Cái nắng ở đây xuất hiện với tính chất – mới. “Nắng mới” có thể hiểu là nắng buổi sáng, ánh nắng bắt đầu cho ngày mới. Nhưng ánh nắng này không chỉ bắt đầu cho một ngày mà còn khởi đầu cho một mùa xuân tươi trẻ. “Nắng mới” đi kèm với động từ “lên” tạo cảm giác tươi trẻ, tràn đầy sức sống và thi sĩ chính là người may mắn khi được chiêm ngưỡng khoảnh khắc này. Từ đó cho thấy sức sống căng tràn đang lan tỏa khắp miền quê thôn Vĩ.
Từ ánh nhìn “nắng hàng cau”, tác giả đã chuyển qua quan sát “đối tượng” khác là vườn thôn Vĩ. Có thể thấy từ câu thơ này, góc nhìn của tác giả đã có sự dịch chuyển. “Vườn” hiện lên gần hơn, tầm nhìn của nhà thơ rất gần. Nghệ thuật tu từ “vườn ai” gợi lên sự tò mò, hiếu kì vì không xác định chủ nhân khu vườn này là ai. Nhưng cái người ta quan tâm không phải là danh tính người chủ khu vườn, mà quan trọng mà sự trong xanh của nó. Tác giả so sánh vườn với ngọc để cho thấy sự trong xanh, tinh khiết của khu vườn vào buổi sáng ban mai. Nhìn vào hình ảnh này người đọc tự nhiên có cảm giác nhẹ nhàng, thoải mái, cơ mắt cũng thực sự được thư giãn. Tuy nhiên, tài năng của Hàn Mạc Tử không đơn thuần chỉ có thế. Tác giả khéo “tặng” chữ “mướt” khi miêu tả màu sắc khu vườn. Từ này tạo cho người đọc cảm giác về sự trơn tru, tròn trịa và thêm phần mịn màng. Đã thế nó còn đi kèm với thán từ “quá” làm cho vườn tược của thôn Vĩ thêm phần thanh tao. Làm người đọc tò mò muốn được nhìn thấy một lần. Nếu như câu hai, câu ba giúp chúng ta có cái nhìn bao quát về thiên nhiên xứ Huế thì tới câu thứ tư nhà thơ đã giới thiệu về con người nơi đây. Hình ảnh “mặt chữ điền” chỉ về khuôn mặt phúc hậu, hiền từ và đây cũng là cách tác giả giới thiệu về tính cách con gái Huế. Ẩn mình sau nét đẹp ấy là chi tiết “lá trúc che ngang” gợi lên sự e ấp, ngại ngùng của cô gái xứ mộng mơ. Như vậy chỉ với khổ thơ đầu người đọc đã có cái nhìn đầu tiên về khung cảnh thôn Vĩ. Mảnh đất ở đây không chỉ hiện lên với vẻ đẹp tinh túy mà con người cũng rực rỡ muôn phần.
Đến với khổ thơ hai, độc giả tiếp tục chứng kiến những đường nét mà “thi sĩ” vẽ nên. Bức tranh ấy đã mở rộng cả về không gian lẫn thời gian.
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?
Mở đầu khổ hai, Hàn Mạc Tử mở rộng không gian thôn Vĩ bằng hình ảnh từ trên cao. Ở đây tác giả rất tinh tế khi sử dụng biệp pháp điệp cấu trúc câu và điệp từ đồng thời với nhau. “Gió” và “mây” được nhấn mạnh hai lần nhưng không phải cảm giác gắn bó, khăng khít mà là sự chia lìa. Vì gió đi lối riêng, mây lại có đường khác. Nếu như câu đầu tác giả nói về sự chia lìa nhưng bằng cách gián tiếp thì câu tiếp theo nhà thơ đã nhấn mạnh cảnh vật với tâm trạng sầu thảm bằng động từ “buồn thiu”. “Buồn thiu” là tâm trạng sầu thảm pha chút cô đơn. Và nhân vật mang tâm trạng này là “dòng nước”. Bằng thủ thuật nhân hóa, tác giả đã ví dòng nước thôn Vĩ như một sinh vật có suy nghĩ, có tâm trạng. Cảnh vật chuyển mình mạnh mẽ từ tươi tắn lúc ban mai và lại mang nét hoài cổ vào thời điểm này. “Hoa bắp lay” có thể là một sự rung rinh khi có đợt gió đi qua làm rõ hơn sự buồn bã, đơn côi. Không gian đang ở trên cao liền được kéo xuống dưới thấp làm cho hình ảnh thêm phần sinh động . Ý đồ của tác giả thực sự xuất sắc khi để cho cái buồn của thiên nhiên hiện ra trước, làm người đọc tò mò, suy nghĩ rồi tác giả mới đưa ra cái trầm tư của con người.
“Thuyền ai đậu bến sông Trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Nếu như câu hỏi tu từ ở khổ thơ đầu tiên mang nét trách móc thì ở khổ này lại đượm buồn và có chút xót xa. Xuất hiện hình ảnh ẩn dụ “thuyền”, “bến” cùng với hình ảnh “sông Trăng”. Sông Hương bây giờ đã nhuốm đầy ánh trăng, làm cho cả một vùng sông tràn ngập ánh vàng. Câu hỏi cuối khổ thơ như thể chính tác giả đang hỏi bản thân. Câu thơ đã bộc lộ nỗi niềm lo lắng khi trong hoàn cảnh này tác giả đang mang trong mình căn bệnh quái ác. Và liệu nhà thơ có đủ thời gian để chờ vầng trăng ấy về kịp. Câu hỏi khiến cho cả khổ thơ chùng xuống hẳn! Thi sĩ buồn cho cái số phận ngắn ngủi, cho ước mơ vẫn còn dở dang.
Đành là vậy! Như khi đến khổ thơ thứ ba tác giả tiếp tục sống cho mộng ước của mình
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà”
Lần này tác giả sống trong mộng tưởng của mình. Hình ảnh khách đường xa nhấn mạnh hai lần đã nói lên phần nào nỗi trông ngóng, nhớ thương của tác giả dành cho người thương. Theo một số tư liệu thì lúc làm nhân viên ở Quy Nhơn, Hàn Mạc Tử có thầm thương trộm nhớ cô gái Huế tên là Hoàng Thị Kim Cúc, con ông chủ sở. Một thời gian sau, nhà thơ vào Sài Gòn làm báo, khi trở lại Quy Nhơn thì gia đình cô Cúc đã về lại Vĩ Dạ (Huế). Trong thời gian nhà thơ bạo bệnh, được sự gợi ý của người bạn, cô Cúc đã gửi cho nhà thơ bức ảnh chụp cảnh cô mặc áo dài trắng cùng với đó là hình ảnh sông, nước, bến, thuyền. Nhận được bức ảnh ấy, nhà thơ đã rất vui. Cũng chính vì thế mà hình ảnh “áo em trắng quá” có thể bắt nguồn từ tà áo trắng mà cô Hoàng Thị Kim Cúc đã chụp. Tuy nhiên, cái màu trắng ấy lại “nhìn không ra”. Có một số giả thiết cho rằng lúc tác giả mắc bệnh thì con mắt đã kém đi nên nhìn mọi vật có thể không rõ. Vậy nên màu trắng này có phải là sự lạ lẫm hay cái nhìn đã phần giảm xuống?
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà”
Câu thơ thứ ba của khổ cuối đã miêu tả đúng cái không gian của xứ Huế. Với vùng quê được bao quanh bởi sương và khói, màu trắng ấy đã làm mờ đi mọi thứ kể cả “nhân ảnh”. Con người dường như cũng bị khuất lấp sau màn sương ấy. Cảm giác vừa thực vừa ảo, như thể tác giả đang lạc vào thế giới thần bí mà ở đó mọi vật đều khó hiện rõ nét sau “tấm rèm trắng”. Và có lẽ ý tứ, tình cảm của tác giả lại được gói ghém ở câu thơ cuối cùng. Tiếp tục là một câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Nhà thơ hỏi người mà cũng giống như hỏi mình liệu tình cảm ấy còn “đậm đà”, son sắt như ngày xưa. Liệu cố nhân có còn giữ tình cảm xưa cũ. Đọc câu thơ này, độc giả sẽ không biết nhân vật hỏi và được hỏi sẽ là ai. Thế nhưng cái người ta để tâm là tình cảm ấy có trường tồn, và lòng người có còn giữ chút niềm riêng. Tất cả đều là một ẩn số!
Bằng cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật một cách xuất sắc và linh hoạt như biện pháp điệp từ, điệp cấu trúc, câu hỏi tu từ… người đọc đã có dịp chứng kiến cây bút tài hoa vẽ nên những đường nét mềm mại của bức tranh chốn Thừa Thiên một cách sinh động và có hồn nhất.
Với bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ Hàn Mạc Tử đã đưa độc giả đến với không gian xứ Huế mộng mơ mà cụ thể là cảnh thôn Vĩ Dạ. Với một khung cảnh trữ tình, nên thơ cùng với tình yêu tha thiết, nhớ mong tác giả đã giãi bày tình cảm của mình với người con gái Huế mà tác giả thầm đơn phương. Tình cảm ấy son sắt, thủy chung nhưng lại bồn chồn, lo lắng về “người cũ” có còn giữ nỗi niềm xưa. Tình cảm ấy còn đọng mãi và trở thành một câu hỏi không nguôi trong lòng tác giả và cho cả người đọc.
Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 12
Nếu nhà thơ Xuân Diệu được nhận xét là “Nhà thơ Mới nhất trong các nhà thơ Mới”, Huy Cận được gọi là “Nhà thơ Cổ điển nhất trong các nhà thơ Mới”, thì Hàn Mặc Tử lại được mệnh danh là “Nhà thơ Lạ nhất trong các nhà thơ Mới”. Có thể nói, Hàn Mặc Tử là một hiện tượng thơ vô cùng đặc biệt trong văn đàn Việt Nam, và điều đó đã được thể hiện thông qua Đây thôn Vĩ Dạ – thi phẩm chất chứa những nỗi lòng của nhà thơ.
Hàn Mặc Tử có một số phận đau thương và bất hạnh đến nghiệt ngã. Cha mất sớm, ông ở với mẹ tại Quy Nhơn. Năm 24 tuổi (1936), ông mắc bệnh phong, về hẳn Quy Nhơn để chữa trị. Ông mất khi tuổi đời còn rất trẻ: chỉ 28 tuổi (1940). Những nghiệt ngã của số phận đã ảnh hưởng rất lớn đến hồn thơ của ông. Hàn Mặc Tử là nhà thơ có hồn thơ mãnh liệt, gắn bó tha thiết với cuộc đời. Ông được đánh giá là một trong ba đỉnh cao của Thơ Mới.
Khi ông đang trên đà phát triển sự nghiệp thì lại phát hiện ra mình bị mắc bệnh phong. Khi nghe tin, Hoàng Thị Kim Cúc – một người ông từng đơn phương – đã gửi cho Hàn Mặc Tử một tấm bưu thiếp có hình thôn Vĩ Dạ. Có thể nói, tấm bưu thiếp và những lời thăm hỏi của bà đã gợi nên cảm hứng để nhà thơ viết Đây thôn Vĩ Dạ, thể hiện tình yêu cuộc sống của mình, tâm trạng của mình trong hoàn cảnh éo le, bất hạnh. Tuy nhiên, khi tìm hiểu bài thơ này, ta không nên xoáy sâu vào mối tình đơn phương của nhà thơ mà chỉ xem đó là duyên cớ để nhà thơ bày tỏ tình yêu tha thiết với thiên nhiên, cuộc sống và con người.
Khổ 1 của bài thơ hiện ra với bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ lúc ban mai. Mở đầu bài thơ là câu hỏi:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Câu hỏi tu từ kết hợp với cách gieo vần bằng một loạt thanh bằng, vừa như lời trách móc, hờn dỗi, vừa như lời mời gọi tha thiết của người con gái thôn Vĩ dành cho chàng trai. Nhưng đó cũng có thể là lời tự vấn bản thân vì sao lại không về thăm thôn Vĩ. Dù là cách hiểu nào đi nữa, thì đó cũng là ao ước thầm kín, là niềm khao khát được trở về thôn Vĩ, được thăm lại cảnh cũ, người xưa. Cảnh thôn Vĩ được hiện ra theo dòng tâm tưởng của nhà thơ:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
Điệp từ “nắng” và hình ảnh “nắng mới lên” gợi lên sắc nắng ấm áp, trong trẻo, tinh khôi. Nhà thơ đã sử dụng từ “mướt” và tình thái từ “quá” để như một lời ngưỡng vọng, mê say cho khu vườn mượt mà, óng ánh. Đại từ phiếm chỉ “ai” khiến cho câu thơ như lời cảm thán, khu vườn này là của ai, hẳn nhà thơ cũng không còn nhớ nữa, chỉ nhớ rằng khu vườn ấy đẹp quá, nắng treo cao rọi xuống cây cu, len lỏi lên từng ngõ ngách trong khu vườn, làm nên một bức tranh phong cảnh tuyệt đẹp. Vườn thôn Vĩ lúc này như một viên ngọc rời rợi sắc xanh, tỏa ánh sáng ban mai. Một bóng hình đẹp bỗng xuất hiện:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Mặt chữ điền là mặt của ai? Đó là mặt của người dân thôn Vĩ, gương mặt của cô gái trong tâm tưởng, hay là khuôn mặt của chính tác giả? Tự tác giả đã phân thân để trở về với khu vườn chăng? Dù là cách hiểu nào đi nữa, đó cũng là biểu tượng của nét đẹp phúc hậu, hiền lành. Gương mặt ấy còn được “lá trúc che ngang”, lá trúc mảnh mai, gợi nét đẹp kín đáo, dịu dàng của con người xứ Huế. Câu thơ giàu chất tạo hình, đó là sự hài hòa giữa khung cảnh thiên nhiên xứ Huế và bóng hình của con người trong vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng. Cảnh vườn thôn Vĩ tươi sáng trong nắng mai, với cảnh sắc bình dị mà tinh khôi, đơn sơ mà thanh tú, nghiêng về cõi thực. Thông qua bức tranh thiên nhiên, tác giả như bộc lộ niềm khát khao gặp gỡ, hòa cảm với cái đẹp nơi trần thế.
Từ bức tranh ban mai tinh khôi trong khổ 1, tác giả đã chuyển hướng điểm nhìn sang bức tranh sông nước thôn Vĩ trong đêm trăng. Điểm nhìn đã thay đổi từ ban mai sang đêm tối, từ cảnh vườn thôn đến sông trăng, từ khung cảnh hiện thực sang không khí hư hư thực thực đầy huyền ảo. Sự chia lìa li tán được gợi lên qua cả hình ảnh và nhịp điệu:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Hình ảnh “gió theo lối gió, mây đường mây” là một sự tách rời phi lí và ngang trái. Tác giả đã nhìn nhận không phải bằng cái nhìn thị giác mà bằng mặc cảm chia lìa. Tác giả còn nhân hóa dòng nước để nhấn mạnh nỗi buồn, bên cạnh sự phiêu tán, ra đi, lưu luyến vô vọng. Chủ thể trữ tình dường như cảm thức được thân phận bị bỏ rơi bên bờ quên lãng. Ngoài ra, nhịp điệu cũng trở nên khác thường khi sử dụng nhịp 4/3. Mỗi đối tượng bị cách li trong một khuôn nhịp riêng biệt, làm nổi bật sự lìa xa. Hình ảnh và nhịp điệu quyện vào nhau khiến cho cuộc chia lìa gió mây càng sắc nét, gây nên cảm xúc đau buồn. Tác giả phải thốt lên:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Từ “kịp” như đang phân cách đôi bờ, như một sự hoảng sợ về những phút giây cuối cùng còn tồn tại trong cuộc đời. Từ “tối nay” như là hiện thực nghiệt ngã. Mặc cảm chia lìa đã thấm đẫm vào vạn vật. Nhưng dường như khao khát níu giữ của nhà thơ vẫn còn tồn tại, bởi chỉ một mình trăng là đi ngược lại xu thế chảy đi của những “mây”, “gió”…, từ “kịp” thì mang cảm giác phấp phỏng, lo âu, khát khao được gắn bó, được níu giữ. Đó là niềm thiết tha gắn bó đầy đau thương, mãnh liệt mà vô vọng.
Bức tranh tâm trạng của tác giả hiện ra thông qua khổ 3:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra”
Tác giả dường như đang rơi vào trạng thái vô thức, chìm vào cõi mộng. Điệp từ “khách đường xa” nhằm nhấn mạnh nỗi xót xa của nhà thơ, một hình bóng đẹp nhưng xa vời đến nỗi không thể nào gặp được. Ở đây, tác giả đã cực tả sắc trắng, trắng đến một cách kì lạ và bất ngờ. Đây không còn là màu sắc thực nữa, mà là màu của tâm tưởng.
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
“Ở đây” dường như là hiện thực, là trại phong, nơi tác giả bị cách li với thế giới bên ngoài. Lớp từ “sương khói”, “mờ” đã nhấn mạnh sự nhạt nhòa, hư ảo, hư thực vì đó là giấc mộng của tác giả, mong được liên kết với cuộc đời nhưng không thể. Đó là bi kịch hiện thực, dường như nhà thơ đang bị lưu đày, cách xa thế giới ngoài kia. Đại từ phiếm chỉ “ai” lặp lại hai lần như tiếng gọi tha thiết đầy khát vọng nhưng “khách đường xa” cứ chập chờn rồi khuất bóng. Câu hỏi tu từ mang một tâm trạng đau khổ vì cô đơn, hoài nghi. Đó là tâm hồn đang khao khát được yêu, khao khát sự đồng điệu, đồng cảm.
Đây thôn Vĩ Dạ không chỉ xuất sắc về mặt nội dung, mà còn thể hiện được sự tài hoa của Hàn Mặc Tử thông qua nghệ thuật của tác phẩm. Hình ảnh thơ vô cùng độc đáo, gợi cảm. Ngôn ngữ thơ trong sáng, tinh tế, giàu liên tưởng. Âm điệu, nhịp thơ thì tinh tế, thiết tha. Tác giả đã sử dụng nghệ thuật liên tưởng, biện pháp so sánh, nhân hóa, hoán dụ. Âm điệu hỏi bao trùm bài thơ, mang lại sự ám ảnh và tha thiết của một hồn thơ đầy khát khao với cuộc đời.
Để kết thúc bài viết này, xin mượn lời của nhà thơ Chế Lan Viên để nói lên sự tài hoa của Hàn Mặc Tử: “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình. Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau, những cái tầm thường, mực thước kia sẽ biến tan đi, và còn lại của cái thời kỳ này, chút gì đáng kể đó là Hàn Mạc Tử.”
Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 13
Bài thơ đây thôn Vĩ Dạ được ra đời từ một nguyên cớ rất đặc biệt. Khi Hàn Mặc Tử lâm bệnh nặng chờ đợi những giây phút đến với tử thần ở trại phong Quy Hòa, Quy Nhơn, thì nhà thơ đã bất ngờ nhận được một tấm bưu ảnh do người bạn gái là Hoàng Thị Kim Cúc gửi tặng từ thôn Vĩ Dạ. Tấm bưu ảnh ấy có phong cảnh sông nước đêm trăng, có thuyền và bến. Phía sau kèm theo mấy lời thăm hỏi để an ủi nhà thơ lúc này đang mang căn bệnh hiểm nghèo.
Đối với người bình thường tấm bưu ảnh chỉ là một quan hệ xã giao thăm hỏi nhau nhưng với Hàn Mặc Tử thì có ý nghĩa rất riêng. Nó đã cho nhà thơ được yêu người trong mộng với một tình yêu sâu kín nỗi lòng. Vì thế mà, kiệt tác Đây thôn Vĩ Dạ đã ra đời.
Khổ thứ nhất mở đầu là câu hỏi của một người con gái.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Thực ra đây là một lời trách yêu, một sự dỗi hờn thể hiện nỗi trông ngóng da diết của cô gái ở thôn Vĩ. Nhưng trong thực thế thì không có người con gái nào đang trực tiếp đối với Hàn Mặc Tử cả. Lời nói dịu dàng và chứa đầy yêu thương ấy chính là những dòng chữ trong tấm bưu ảnh kia, nó xôn xao, sống dậy, nó trở thành giai điệu và phát ra tiếng nói.
Ở câu thơ thứ hai chúng ta hết sức bất ngờ vì lời mới vừa cất lên thì ngay lập tức Hàn Mặc Tử đã có mặt ngay ở không gian thôn Vĩ Dạ. Rõ ràng đây là một cuộc hành trình trong tâm thức.
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”
Câu thơ này xuất hiện hai từ “nắng”. Một cái nắng được phát hiện được miêu tả “nhìn nắng hàng cau” và một cái năng tinh khôi mới mẻ, nó khiến nhà thơ phải xuýt xoa reo lên như trẻ con “nắng mới lên”. Đây không phải là thứ nắng của mặt trời mà ngày nào chúng ta cũng thấy. Đây là một thứ nắng rất mới vì nó xuất hiện trong buổi bình minh. Nó thắp nên trên những hàng cau.
Từ trước đến nay người ta đều cho rằng điểm nhìn của Hàn Mặc Tử là từ xa đến gần. Người du khách thấy được nắng hàng cau và càng đến gần khu vườn càng thấy màu xanh ngọc của là cây. Thực ra ông trở về bằng tâm thức thì không nhất thiết phải có một cuộc dạo chơi như vậy. Đôi mắt của Hàn Mặc Tử đang ở trên cao, trên khu vườn thôn Vĩ. Nhà thơ đang xé toạt vòm trời đen để nhìn thấy bình minh nắng mới diệu kì thắp lên từ thôn Vĩ Dạ. Không gian nơi có người mình yêu là một khu vườn địa đàng, là nơi có nhiều phép màu cổ tích. Về với thôn Vĩ là trút được những nỗi phiền muộn đớn đau. Vì thế nên tâm thức của Hàn Mặc Tử đã đáp xuống khu vườn thôn Vĩ.
“Vườn ai mướt qua xanh như ngọc” Câu thơ có đến hai lần xuýt xoa, kinh ngạc. Đã “vườn ai mướt quá” lại còn phát hiện ra cái “mướt quá” ấy là “xanh như ngọc”. Tất cả đều non tơ, tất cả đều xanh tươi, mọi chiếc lá ở đây đều xanh như ngọc. Nó không chỉ cho ta cảm nhận bằng thị giác mà còn cho ta cảm nhận tiếng va chạm của những chiếc lá ngọc.
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Câu thơ cuối khổ một là câu thơ có nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng “mặt chữ điền” chính là khuôn mặt của người con gái đã mời Hàn Mặc Tử về chơi thôn Vĩ. Bời vì “vườn ai” chính là vườn của em, nhìn thấy khuôn mặt của em trong khu vườn ấy thì rất hợp lí. Nhưng nhà thơ Chế Lan Viên – bạn của Hàn Mặc Tử đã rất bất mãn với cách hiểu này, ông cho rằng mặt chữ điền có thể không xấu nhưng nhất định đó là gương mặt không theo chuẩn mực cái đẹp của người Việt Nam khi đánh giá phụ nữ. Cũng có ý kiến lại nói là “mặt chữ điền” là viên gạch có bốn ô vuông thường được xây trên bức bình phong của những ngôi nhà ở thôn Vĩ.
Thực ra nếu đọc thơ Hàn Mặc Tử chúng ta sẽ bắt gặp nhiều hình tượng, thế giới kì lạ. Việc nhà thơ gặp mình trong quá khứ cũng như trong tương lai là rất phổ biến. Vì thế dù thật khó tin nhưng ở đây Hàn Mặc Tử đã gặp lại chính mình với gương mặt chữ điền thời còn là chàng trai tài hoa nổi danh trên đất Huế. Nhà thơ muốn yêu một tình yêu trong trắng, thanh thản, đắm say thì phải trở lại là con người của quá khứ, phải là một nhà thơ đa tình phong lưu thời còn ở Huế. Nói đúng ra là nhà thơ muốn quên mình trong hiện tại với căn bệnh hiểm nghèo để đươc yêu. Hình tượng “lá trúc che ngang” càng cung cấp cho gương mặt chữ điền ấy những nét ngang tàng, phóng khoáng mạnh mẽ của người đàn ông. Lá trúc trong quan niệm xưa chính là biểu hiện cho người quân tử.
Nếu khổ thơ thứ nhất cho chúng ta ấn tượng về buổi sáng thì khổ thơ thứ hai cho chúng ta ấn tượng vè buổi chiều ở một không gian trống rỗng ngoài thôn Vĩ Dạ và sau đó là buổi tối với cảnh sông nước con thuyền tràn ngập ánh trăng. Cả bốn câu thơ phần nào gợi cho chúng tôi về phong cảnh xứ Huế nhưng thực ra mọi hình tượng đều tồn tại trong những quan hệ nghịch lí, trái tự nhiên.
“Gió theo lối gió, mây đường mây”
Câu thơ thứ hai không chỉ là nghịch lí mà còn là một sự trớ trêu. Lẽ tự nhiên hoa bắp lay động thì mặt nước phải gợn sóng. Thế nhưng ở đây chỉ có hoa bắp lay động cùng giò để dòng nước một mình buồn thiu. Chẳng thà xa mặt cách lòng như gió với mây còn hơn đứng bên cạnh nhau mà cho nhau nhiều đắng cay, tủi cực.
Nếu khổ thơ đầu ta cảm nhận một tình yêu sắp nảy nở tuyệt vời nhưng đến khổ thơ sau thì ta lại gặp một cuộc tình tan nát chia phôi. Thông qua cách nói nóng gió, Hàn Mặc Tử đã chua chat phủ định người mời mình về thăm thôn Vĩ. Đó là một kể phụ tình bỏ rơi những lời hẹn ước, làm tan nát trái tim của kẻ yêu thương tin tường dại khờ.
Người yêu trong mộng của Hàn Mặc Tử khi thì mời đón dành sẵn một thế giới yêu thương chờ đợi, khi thì trở thành một kẻ phụ tình phũ phàng rất lạnh lùng. Và thật bất ngờ con người ấy bỗng dung hiện ra thật nhân từ và độ lượng.
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Hình tượng trăng trong thơ Hàn Mặc Tử xuất hiện rất nhiều. Trăng muôn đời là biểu tượng của hạnh phúc, đặc biệt là hạnh phúc lứa đôi. Quá khao khát hạnh phúc nên hai câu thơ của Hàn Mặc Tử tràn ngập ánh trăng: bến trăng, sông trăng, thuyền trăng, chở trăng.
Nhân vật “ai” ở đây chỉ có thể là người mời Hàn Mặc Tử về thăm thôn Vĩ. Người ấy đang cắm thuyền ở bến sông để chờ đợi lấy được nhiều ánh trăng hạnh phúc và sẽ chở trăng về cho nhà thơ tối nay. Đó là sự yêu thương cao cả, là sự thấu hiểu đến tường tận những khao khát của Hàn Mặc Tử. Thế nhưng chữ “kịp” ở đây lửng lờ một câu hỏi: liệu có chở kịp trăng về trong tối hôm nay? Có thể kip và cũng có thể không còn kịp nữa… Tối nay là một khái niệm thời gian ngắn ngủi. Hàn Mặc Tử biết rằng sự sống của mình chỉ còn lại những giây phúc ngắn ngủi ở trần thế, sẽ có người đem hạnh phúc đến cho nhà thơ nhưng nếu đến trễ thì hạnh phúc ấy thật vô nghĩa.
“Mơ khách đường xa, khách đường xa”
Mở đầu khổ thơ thứ ba là một câu thơ thật đặc biệt. Khách vốn đã xa lạ mà nhà thơ còn lặp đến hai lần sự xa lạ ấy “khách đường xa, khách đường xa”. Thế mà, lại có một giấc mơ về người khách không quen ấy. Thực ra đây là người mời Hàn Mặc Tử về thăm thôn Vĩ nhưng nhà thơ hiểu rằng người ấy ngoài tầm tay với của mình. Con người đó càng lúc càng trở nên xa lạ và càng không níu kéo được nên Hàn lại càng gửi gắm vào giấc mơ. Có thể thấy tâm sự này qua những vần thơ khác của Hàn:
“Người đã đi rồi khôn níu lại
Tình yêu chưa đã, mến chưa bưa
Người đi một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồn tôi đến dại khờ”.
Bởi muốn tìm một tình yêu trong mộng để được sống có ý nghĩa trong những giây phút cuối đời nên tâm trạng của Hàn Mặc Tử luôn có những đối cực. Ban đầu là hi vọng tràn trề rồi lại trách móc coi người mình yêu là kẻ phụ tình; liền sau đó nhà thơ thấy người con gái mời mình về thăm thôn Vĩ thật chung tình, sẵn sàng cắm thuyền đợi chờ mong ánh trăng hạnh phúc đến cho mình. Tiếp theo, Hàn Mặc Tử tuyệt vọng nhìn người yêu mình như “khách đường xa”. Nhưng cũng liền sau đó, nhà thơ thấy người ấy quay trở lại với mình, cô gái ấy hoàn toàn trong trắng và thánh thiện. Đại từ “em” thật giản dị, gần gũi biết bao:
“Áo em trắng quá nhìn không ra”
Câu thơ vừa sáng bừng lên niềm hi vọng thì nó đã cho Hàn Mặc Tử cảm nhận ngay sự tuyệt vọng. Đáng lẽ “áo em trắng quá” thì anh phải nhìn rất rõ em. Thế nhưng áo em càng trắng bao nhiêu thì anh lại càng không nhìn ra bấy nhiêu. Thực ra anh không dám nhìn bởi vì em quá trong trắng, thanh cao… Mặc cảm khi yêu thương là một quy luật. Nhưng tôn thờ để rồi mặc cảm như Hàn Mặc Tử là do có nguyên nhân từ cuộc đời riêng. Nhà thơ hiểu hoàn cảnh thực tại của mình, vì thế mà dù nhân vật “em” trở lại với mình, nhà thơ cũng không dám yêu. Hàn Mặc Tử phải tự khước từ với tình yêu của mình.
Câu thơ thứ ba nhuốm màu sắc bi quan của một triết lí nhân sinh:
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”
Nguyễn Gia Thiều đã từng viết:
“Con quay búng sẵn lên trời
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm”
Đời người là một con quay đã búng sẵn, chính bản thân ta cũng không thể điều khiển được số phận của ta. Trong mối quan hệ với người khác thì ta chỉ nắm bắt được “nhân ảnh” chứ không thể là chính người đó. Hàn Mặc Tử cũng vậy, nhà thơ hiểu rằng mình không chủ động được với chính mình, mình không thể nhìn thấy rõ hình ảnh của người yêu. Thi sĩ hiểu rằng sương khói của cuộc đời đang xóa nhòa “nhân ảnh” của nhân vật “em”… Đó là một nhận thức thật chua chat, ngậm ngùi, nó để lại sự trống vắng như một trong hoang mạc trong tâm hồn Hàn Mặc Tử. Đây chính là nguyên nhân khiến cho thi sĩ thốt ra một câu hỏi bơ vơ tuyệt vọng không có chỗ nào để bám víu:
“Ai biết tình ai có đậm đà?”
Hai đại từ “ai” ở câu thơ này tạo nên nhiều cách hiểu: không biết em có hiểu được chính tình yêu của em đậm đà hay không? Không biết bản thân anh có biết được tình yêu của chính mình đậm đà không? Liệu em có biết tình anh đậm đà không? Liệu anh có biết tình em có đậm đà không? Một câu hỏi trong thơ nhưng ẩn chứa biết bao nhiêu câu hỏi đằng sau nó, càng hỏi càng thấy “mờ nhân ảnh”, càng tuyệt vọng. Càng tha thiết một tình yêu đậm đà Hàn Mặc Tử càng thấy sự đổ vỡ tuyệt vọng với tình yêu. Vì thế mà cảm hứng chủ đạo của Đây thôn Vĩ Dạ chính là cảm hứng đau xót về một tình yêu tuyệt vọng.
Mọi sự tuyệt vọng đều cho người ta bi quan, riêng tình yêu tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử lại dạy cho ta giá trị nhân văn cao cả. Nhà thơ níu kéo cuộc sống này bằng tình yêu, dù đó là một tình yêu tuyệt vọng. Chúng ta không gặp hoàn cảnh bi đát như Hàn Mặc Tử, nên chúng ta cần phải biết sống như thế nào, yêu như thế nào trong cuộc đời tuyệt đẹp ở trần thế đáng sống này.
Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 14
Nét đẹp phong cảnh và tâm trạng của tác giả trong khổ thơ đầu
Khổ thơ đầu trong bài thơ hiện lên hai chi tiết hòa quyện vào nhau đó là nét đẹp của bức tranh phong cảnh và tâm trạng của tác giả. Bức tranh Vĩ Dạ tắm mình trong ánh bình minh toát lên một vẻ đẹp tinh khôi và dịu dàng rất Huế, trong khung cảnh thiên nhiên đó, nhà thơ hoài niệm, thương nhớ, nuối tiếc và có chút bâng khuâng. Tất cả hòa vào nhau khiến cho bức tranh thiên nhiên nhuốm màu hư ảo.
Câu thơ đầu tiên có thể được hiểu theo hai nghĩa khác nhau. Có thể đó là suy nghĩ của tác giả về tình yêu mà cô gái dành cho mình, suy nghĩ đó tạo ra một lời mời thiết tha đối với tác giả (anh hãy về thăm), đồng thời là một sự trách móc, giận hờn (anh còn nhớ hay không). Cũng có thể xem đó là lời tự vấn của tác giả: Sao không về thôn Vĩ?
Dù hiểu theo cách nào thi cũng có thế thấy câu thơ chính là niềm thương nhớ, niềm yêu mến không thể kìm nén của tác giả. Sự không kìm nén đó đã bật lên thành câu hỏi. Ẩn trong câu hỏi thiết tha ấy là một bóng hình tuy ảo ảnh, mong manh mà vô cùng da diết. Ẩn sâu trong nuối tiếc, hoài niệm là ước muốn được về thăm Vĩ Dạ một lần. Nếu hiểu được cuộc đời của Hàn Mạc Tử thì chúng ta sẽ biết được ước muốn bình thường đó đối với Hàn Mạc Tử lớn lao biết nhường nào. Câu thơ như gợi lên một niềm thương cảm, sầu bi và oán thán cho số phận.
Thôn Vĩ Dạ hiện lên với vẻ đẹp vừa rất thực vừa rất mộng với hàng loạt hình ảnh về nắng, hàng cau, vườn, lá trúc, một chữ điền. Ấn tượng sâu sắc nhất là cảnh vườn Vĩ Dạ tắm trong ánh nắng bình minh. Bằng nghệ thuật tăng cấp. Hàn Mạc Tử muốn nhấn mạnh đến hình ảnh nắng: “Nắng hàng cau, nắng mới lên”. Nắng mới lên là nắng ban mai, cái nắng tinh khôi, non tơ, dịu dàng, sáng bóng và trong trẻo, lại được tắm mình trong cây lá ướt đẫm sương đêm nên có sự phản chiếu long lanh. Hai từ nắng đặt cạnh nhau tạo cho nắng sự chuyển động trên cây lá. Đó là một cách cảm nhận và miêu tả thật tinh tế của Hàn Mạc Tử. Hình ảnh nắng hàng cau gợi cho chúng ta nhiều nghi vấn. Tại sao trong muôn vàn cây lá trong vườn, tác giả chi chọn hàng cau để tả ánh nắng? Phải chăng cau là loài cao nhất trong vườn nên có thể đón ánh nắng đầu tiên của ban mai dịu nhẹ; hay chính là một mối duyên không thành giờ chỉ còn có cau mà thiếu mất trầu? Có thể thấy ngoài vẻ đẹp của ánh bình minh, câu thơ còn chất chứa một nỗi sầu tình duyên của Hàn Mạc Tử.
Chính vì nắng mới lên, cây lá còn ướt đẫm sương đêm nên mới có cảnh Vườn ai mướt quá xanh như ngọc. Câu thơ vừa là một câu hỏi (vườn ai?), vừa là một lời bình phẩm, khen ngợi (mướt quá, xanh như ngọc). Chữ mướt toát lên một vẻ đẹp mượt mà, óng ánh. Khu vườn Vĩ Dạ hiện lên với muôn vàn màu sắc lung linh dưới ánh nắng ban mai. Hình ảnh thơ tuy đơn sơ mà lộng lẫy, bình dị mà thanh tú, dân dã mà cao sang.
Câu thơ thứ ba xuất hiện chữ ai thật đặc biệt. Chữ ai vừa không xác định vừa xác định, vừa hư lại vừa thực, vừa gần gũi lại vừa xa vời. Hàn Mặc Tử đã rất thành công khi hư ảo hóa một khung cảnh rất hiện thực và hiện thực hóa những gì vốn rất hư ảo mà vốn chỉ thấy trong tưởng tượng.
Nổi bật nhất trong câu thơ thứ tư là hình ảnh khuôn mặt chữ điền. Để hiểu được hình ảnh này thật không dễ dàng, bởi có nhiều cách lí giải khác nhau. Tuy nhiên, hình ảnh trên mang nhiều yếu tố cách điệu. Hàn Mạc Tử sử dụng yếu tố cách điệu để diễn tả sự hài hòa trong vẻ đẹp của con người và thiên nhiên có sự hài hòa của một vẻ đẹp rất Huế với cảnh vật Huế và con người Huế.
Khổ thơ ẩn chứa nhiều tâm trạng và nỗi lòng của Hàn Mạc Tử. Mờ đầu và kết thúc bằng hai câu hỏi (Sao anh? Vườn ai?) nhưng không có câu trả lời. Đó là một dấu hỏi lớn trong lòng mà tác giả cũng chưa tìm được lời giải đáp.
Sự mơ hồ, huyền ảo trong cảnh sắc thiên nhiên và lòng người
Bài thơ bắt đầu bằng một ánh nắng ban mai dịu nhẹ nhưng thoắt đã hiện lên đêm trăng huyền ảo trong khổ thơ thứ hai. Màu sắc hư ảo dường như bao trùm trong khổ thơ thứ hai.
Hai câu mở đầu của khổ thơ thứ hai vẽ nên loạt hình ảnh nối tiếp nhau (gió theo lối gió, mây đường mây, dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay) như tô đậm thêm nỗi buồn của nhà thơ, một nỗi buồn mênh mang, sâu thẳm của xứ Huế. Lối điệp từ gió và mây không nhằm nhấn mạnh cường độ hoặc sắc thái của gió và mây, mà chính là thể hiện sự tách biệt của gió và mây trong khung cảnh thiên nhiên.
Giá trị của câu thứ hai đặt vào hai chữ buồn thiu đặt giữa câu thơ. Đây không chỉ là cái buồn của lặng lẽ của dòng nước lan tỏa đến cả hoa bắp mà còn là cái buồn của một người mang nhiều tâm sự. Chữ lay đặt trong hoàn cảnh này toát lên một vẻ hiu quạnh và tác động đến mọi cảnh vật chung quanh, khiến tất cả như mang một nỗi buồn man mác.
Hai câu thơ chứa đựng một nỗi buồn bâng khuâng, man mác, một nỗi buồn thật khó tả và khó gọi tên. Chỉnh nỗi buồn đó đã đưa thi nhân vào một thế giới của sự mộng ảo trong hai câu thơ tiếp theo:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Hình ảnh sông trăng và con thuyền chở trăng trên sông thật mơ hồ nhưng cũng thật quyến rũ. Hình ảnh hư và thực đã được Hàn Mạc Tử khắc họa một cách tinh tế, tài hoa. Dòng nước tắm ánh trăng sáng rực bỗng rùng mình hóa thành dòng trăng hay là ánh trăng tan ra và tuôn chảy thành dòng nước? Ánh trăng thật lung linh, kì ảo. Hình ảnh con thuyền chở ánh trăng lướt nhẹ trên dòng sông trăng đề cập bến thời gian cho kịp giờ ân ái là một hình ảnh kì ảo. Những hình ảnh như thế vẫn thường xuyên xuất hiện trong thơ Hàn Mạc Tử. Đó là những hình ảnh thuộc về một thế giới khác, một thế giới rất riêng của Hàn Mạc Tử.
Hai câu thơ làm thành hai câu hỏi: ‘‘Thuyền ai đó? Có chở trăng về kịp tối nay? Từ kịp gợi sự khắc khoải, mơ hồ và chờ đợi. Từ tối nay không gợi một thời gian cụ thể nào, nhưng nếu không kịp thì có lẽ không còn một tối nào khác nữa. Câu thơ gợi lên sự tuyệt vọng, đau thương và mất mát. Dường như con người hi vọng kia đang chạy đua với thời gian để giành lấy tình yêu và cuộc sống. Câu thơ làm chúng ta nhớ lại cái gấp gáp, vội vàng của Xuân Diệu trong bài thơ Vội vàng. Nhưng Hàn Mạc Tử trong hoàn cảnh này lại khác. Hàn Mạc Tử không có cái sức sống mãnh liệt, tràn đầy nhiệt huyết như Xuân Diệu: Ông đang phải chạy đua với thời gian vì ông biết sự sống của mình không kéo dài.
Biết đâu vào tối mai, vầng trăng kia vụt tắt, con thuyền kia mãi mãi không chở trăng về kịp. Một hình ảnh thơ rất ảo nhưng cũng rất thực. Cái thực chính là hoàn cảnh đau thương của tác giả.
Toàn bộ khung cảnh trong khổ thơ thứ hai là một thế giới ảo. Hồn thi nhân chìm vào cõi mông lung. Ở đó có hẹn hò, có chờ đợi, có phấp phỏng một niềm hi vọng và có cả dự cảm chia lìa, có thất vọng ngay trong hi vọng và có cả niềm đau thương của chính cuộc đời tác giả.
Tâm trạng của tác giả trong khổ thơ thứ ba
Giọng thơ khắc khoải trong khổ thơ thứ hai trở nên gấp gáp, khẩn thiết trong khổ thơ thứ ba. Tác giả dần đối diện với chính minh và với thực tại của một bóng giai nhân chỉ có trong ảo ảnh:
Mơ khách đường xa, khách đường xa.
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Cụm từ khách đường xa được lặp lại hai lần, kết hợp với chữ mơ ở đầu câu thơ thể hiện nỗi khắc khoải gần như tuyệt vọng. Bóng giai nhân vừa hiện lên đã chợt biến thành hư ảo bởi đó chỉ là hình bóng trong mơ. Hình ảnh giai nhân trong thơ Hàn Mạc Tử luôn biểu hiện cho sự tinh khiết, trinh trắng. Vì thế, màu áo trắng cứ như một ám ảnh kì lạ. Cụm từ nhìn không ra chỉ là một cách nói để cực tả sắc trắng, trắng một cách kì lạ, bất ngờ. Đây không còn là màu sắc thực mà đã thuộc về màu của tâm tưởng Nhà thơ đã chìm vào tâm tưởng để nhìn thấy màu áo kí ức. Câu thơ một ảo ảnh bất ngờ nhưng có lí. Màu trắng tự nhiên choán hết cảm xúc khiến bài thơ tả cảnh thiên nhiên trở thành một bài thơ tình yêu, một thứ tình yêu đơn phương khó xác định. Đó là một khát vọng tình yêu đẹp nhòa trong kí ức.
Hai câu kết đưa người đọc đi vào cõi tâm tưởng. Ở đây là ở đâu? Là Vĩ Dạ của một thời thơ mộng đẹp mà thi nhân đang nhìn thấy sau tấm bưu ảnh? Hay trong này, nơi thi nhân ôm khát vọng yêu đương trong nỗi cô đơn? Có lẽ chữ đây trong Đây thôn Vĩ Dạ là không gian của thế giới ngoài kia, còn chữ đây trong khổ thơ kết là thế giới trong này. Giữa hai thế giới cách nhau vừa đúng một tầm tuyệt vọng.
Cả bài thơ dồn hết tâm tư ở câu cuối: Ai biết tình ai có đậm đà? Hai chữ ai lặp lại bộc lộ tâm trạng bâng khuâng xót xa, trong đó có gì như cầu mong, có gì như tự an ủi, dẫu biết không còn hi vọng nhưng chỉ một chút ai biết cho tình ai cũng là đủ lắm rồi. Có lẽ câu cuối là lời đáp cho câu mở đầu: Ai biết tình ai có đậm đà mà về chơi thôn Vĩ? Thật ra, có ai hỏi Hàn Mạc Tử đâu và chắc gì có người yêu thương? Tác giả đang sống trong tưởng tượng. Niềm thiết tha với cuộc đời đã biến thành những câu hỏi khắc khoải như xoáy vào tâm can người đọc. Bởi xét đến cùng, đau thương chính là biểu hiện tột cùng của khát vọng tình yêu không biến thành hiện thực. Người không yêu đời tha thiết sẽ không day dứt đến thế khi linh cảm thấy mình sắp lìa đời.
Tứ thơ và bút pháp của nhà thơ
Tứ thơ trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ có hai điểm đặc biệt:
Mở đầu bài thơ là một câu thơ tự vấn: Sao anh không về chơi thôn Vĩ? 11 câu tiếp theo, tác giả tự trả lời câu hỏi ấy bằng những hình ảnh thơ, ý thơ. Đây chính là tứ thơ bộc bạch tâm trạng của tác giả.
Toàn bài thơ là một khối thống nhất có sự liên kết về logic nội tại của tâm trạng thi nhân, nhưng giữa ba khổ thơ lại có sự chuyển ý về tứ thơ và hình ảnh thơ: từ cảnh vườn quê trong khổ thơ thứ nhất sang cánh sông trăng và thuyền trăng trong khổ thơ thứ hai, đến cảnh áo em trắng quá nhìn không ra trong khổ thơ thứ ba.
Bút pháp của Hàn Mạc Tử trong bài thơ là bút pháp trữ tình thiên về gợi tả và giàu liên tường với những hình ảnh biểu hiện nội tâm nhằm bộc lộ tâm trạng của chính mình.
Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 15
Hàn Mặc Tử một trong những “cây bút” tài năng bậc nhất của phong trào thơ mới những năm 1932-1945 với nhiều tác phẩm tiêu biểu. Trong đó, tác phẩm để lại nhiều ấn tượng nhất trong lòng người đọc có lẽ là Đây thôn Vĩ Dạ- một bài thơ đặc sắc trong sự nghiệp văn chương của ông. Bài thơ là bức tranh hài hòa giữa khung cảnh thiên nhiên trong trẻo, tinh khôi xứ Huế với bức tranh tâm cảnh của một cái tôi tha thiết yêu đời, khát khao giao cảm với cuộc sống, con người nhưng đầy những âu lo, trăn trở.
Câu hỏi tu từ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” như hờn trách nhẹ nhàng lại như lời mời đầy tha thiết của người con gái xứ Huế. Một lời hờn trách đầy dịu dàng nhưng đằng sau đó là lời mời ân cần và đầy chân thành: “Sao anh không về chơi”. Ở đây tác giả không dùng từ “thăm” mà lại dùng từ “chơi” đủ để thấy sự thân thiết, chân thành, mộc mạc, gợi lên được tình cảm thân mật, gần gũi. Và dường như, đó cũng là câu hỏi mà nhà thơ đang tự hỏi chính mình, tự trách chính mình sao bấy lâu chẳng trở về với chốn cũ, người xưa để giờ đây trong cơn bạo bệnh lại chỉ còn những tiếc nuối, băn khoăn. Trong câu thơ chất chứa cả mỗi nỗi khát khao được trở về với Vĩ Dạ thân yêu.
Từ nỗi nhớ, bức tranh thôn Vĩ dần hiện ra trước mắt người đọc qua từng lời thơ, một bức tranh Vĩ Dạ đầy lung linh, tươi đẹp và căng tràn sức sống:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”
Cau là loài cây dân dã cũng là linh hồn của làng quê Việt Nam. Trong truyện cổ tích, trầu- cau gắn với tình yêu đôi lứa. Trong câu thơ của Hàn Mặc Tử, câu gắn với nỗi nhớ, với vẻ đẹp của thiên nhiên. Hình ảnh “nắng hàng cau” là một hình ảnh đẹp gợi vẻ tinh khôi, trong trẻo của những tia nắng sớm mai. Màu nắng hàng cau là màu nắng vô cùng mới mẻ mà trước Hàn Mặc tử chưa có thi nhân nào gợi ra được màu nắng ấy. Những tàu cau được nắng mới bao trùm, nắng hòa vào hạt sương đọng trên phiến lá tạo nên vẻ long lanh đến kiều diễm. Thiên nhiên trở nên thanh thoát, trong trẻo đến lạ lùng, không gian trở nên cao ráo và đầy khoáng đạt. Ánh nắng hàng cau làm sáng bừng lên cả một khu vườn thơ mộng, hữu tình.
Xa xa là bóng hàng cau, khi lại gần, khu vườn càng thêm đẹp, thêm tươi. Có cây ngời ngợi màu xanh sáng, xanh trong, xanh mỡ màng, mượt mà:
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
Câu thơ cất lên như sự ngỡ ngàng đến xuýt xoa của tác giả trước vẻ đẹp của tạo hoá được tưới tắm bởi bàn tay khéo léo của người làm vườn. Tính từ “mướt” gợi lên sắc xanh ngời ngợi, ngọc ngà, xuân sắc đầy sức sống của khu vườn. Có thể thấy qua những hình ảnh thơ gần gũi, bình dị mà bằng cách sử dụng ngôn từ độc đáo, bức tranh thôn Vĩ đầy đẹp đẽ, sống động và cao quý được gợi lên.
Cảnh thôn Vĩ ngày càng trở nên hài hòa hơn khi có sự xuất hiện của con người:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Lối nói cách điệu thể hiện vẻ đẹp e ấp, kín đáo, dịu dàng và rất Huế của người con gái. Sự xuất hiện của khuôn mặt chữ điền phúc hậu, dịu dàng đã làm cho bức tranh Vĩ Dạ trở nên sinh động hơn khi có sự hài hòa giữa cảnh vật và con người.
Khổ thơ thứ hai gợi ra cảnh sông nước êm đềm, mang nỗi niềm bâng khuâng, nỗi mong cầu hư ảo:
“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Không gian có gió, mây, sông nước, có thơ mộng, có êm đêm những gợi buồn, gợi chia ly. Cảnh chia đôi ngả “gió theo lối gió, mây đường mây” phải chăng chính là sự mặc cảm của nhà thơ về tình yêu xa cách, không thể đồng hành cùng người thương của mình. Vì lòng người mang sau bi nên thiên nhiên cũng vương buồn. Dòng sông nước vẫn chảy mà “buồn thiu”, gió xao động, hoa bắp lay trôi vô định trên làn nước. “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay” cảnh vật gợi vẽ quạnh quẽ, thê lương, u sầu. Dòng sông buồn như chính tâm trạng thi nhân.
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Tứ thơ “Có chở trăng về kịp tối nay?” gửi gắm cả một nỗi niềm của thi nhân, một khao khát vào tình yêu cập bến, để được cùng người tâm sự, tỏ bày. Nỗi ngóng trông, mong chờ, khát khao mãnh liệt được tâm giao được cất lên trong tiếng thơ bình dị. Có chăng, lúc này đây, tác giả đang lo sợ vì vận mệnh ngắn ngủi của cuộc đời mình. Sợ rằng thời gian ngày một ngắn thêm mà lòng người vẫn chưa thể được khỏa lấp nỗi trống vắng, cô đơn, sầu muộn. Liệu con thuyền kia có chở kịp vầng trăng hạnh phúc ấy về với kẻ mệnh bạc này không?
Thực tại phũ phàng, cô đơn ngập lối, tác giả đành tìm đến giấc mơ, nơi đó có thể nhìn thấy người con gái mình yêu, dẫu đó chỉ là chút hạnh phúc trong ảo ảnh:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra;
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Trong giấc mơ mang màu hy vọng, thi nhân thấy vị khách đường xa trong tà áo trắng tinh khôi, ẩn hiện trong sương khói. Bóng hình như nhoè đi rồi biến mất trong phút chốc. Sự thanh khiết, cao quý của người con gái trong ảo ảnh khiến thi nhân không khỏi không lo sợ:
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Trong lời thơ, tác giả phân vân, lo sợ về một tình cảm không chắc chắn. Một trái tim khao khát yêu và được yêu nhưng không bao giờ có được tình yêu trọn vẹn khiến tác giả hoài nghi về tình cảm, về tình yêu của đối phương. Không biết tình người có đậm đà như chính lòng ta chăng?
Bài thơ khép lại bằng một câu hỏi tư từ chất chứa nỗi niềm hoài nghi và thất vọng. Vĩ Dạ đẹp nhưng buồn, lòng người buồn mà đẹp, tất cả tạo nên sự hòa quyện giữa cảnh và tình.
Đây thôn Vĩ Dạ qua bao thế hệ người đọc vẫn mang một sức sống dạt dào. Bài thơ không chỉ là một bức tranh êm đềm và tươi đẹp của Vĩ Dạ mà còn là bức tranh đẹp của một tấm lòng tha thiết với thiên nhiên và khát khao được sống, được yêu của Hàn Mặc Tử.
Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 16
Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ hay nhất của phong trào Thơ mới. Bài thơ lần đầu in trong tập “Nắng xuân” (1937). Hàn Mặc Tử là một nhà thơ tài năng, quãng đời sống và sáng tác của ông là rất ngắn ngủi (1912 – 1940).
Cuộc đời của Hàn Mặc Tử cũng phát triển không bình thường: Ông phải chịu đựng những đớn đau giày vò của bệnh tật và sống trong trạng thái cô đơn giữa cuộc đời.
Hàn Mặc Tử là một người đa tình, ông khơi nguồn cho thơ từ nhiều nguồn cảm xúc: Lòng tin nơi Đức chúa Trời mà tác giả có lúc tự nhận mình là “Thi sĩ của đội quân Thánh giá” với bao lời cầu nguyện vẻ đẹp của quê hương, một tình yêu than thiết với nhiều cái tên đẹp: Ngọc Sương, Mộng Cầm, Thương Thương, Hoàng Cúc.. Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ hay nhất của Hàn Mặc Tử được sáng tạo nên từ hai nguồn cảm hứng – cảnh đẹp của Vĩ Dạ mà có lần Bích Khê đã viết:
“Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn
Biếc che cần trúc không buồn mà say”
Thiên nhiên đẹp, làng quê đất đai trù phú tạo cho tác giả tình yêu cuộc sống, yêu con người. Nguồn mạch thứ hai là tấm lòng yêu mến, tình yêu nửa thực, nửa hư như một mong ước muốn được bày tỏ. Nhà thơ Quách Tấn cho biết Hoàng Cúc đã gửi cho Hàn Mặc Tử một tấm bưu ảnh có phong cảnh xứ Huế và dòng Hương có con đò, bóng tre cần trúc hai bên bờ. Tấm ảnh cũng gợi cho Hàn Mặc Tử những tình cảm, xúc động để từ đó tạo nên cảm hứng trong thơ. Nhà nghiên cứu Văn Tâm lại nói thêm: “Khoảng năm 1937 nghe tin Hàn Mặc Tử mắc bệnh nan y, Hoàng Cúc đã gửi vô Quy Nhơn cho Hàn Mặc Tử một tấm hình chụp hồi còn mặc áo dài trắng trường Đồng Khánh có kèm lời thăm hỏi sức khỏe và trách Hàn Mặc Tử sao lâu nay không ra thăm Vĩ Dạ?” Và đó là nguyên nhân trực tiếp cho sự ra đời của Đây thôn Vĩ Dạ.
Câu thơ mở đầu như một lời chào mời, một lời thăm hỏi hay một lời trách móc, dường như tất cả đều có và ẩn ý trong lời thơ:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Thôn Vĩ Dạ bên bờ sông Hương là một làng quê đẹp, có nhiều khu vườn xanh tươi, buổi sáng khi mặt trời mọc, khung cảnh thiên nhiên rất gợi cảm, ánh nắng ban mai và vườn cây tươi tốt dễ tạo nên những tình cảm gắn bó và thiết tha với cuộc sống. Ở đây tác giả miêu tả những hàng cau thân vút cao trong buổi bình minh gợi một cái gì khỏe khoắn của thiên nhiên:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Hàng cau còn gợi lên không khí của làng quê như đã có từ lâu đời. Nhà thơ Vũ Quần Phương cũng nhận xét: “Cái” nắng hàng cau nắng mới lên “sao lại gợi một nỗi niềm làng mạc quê hương đến thế.”
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Chữ “mướt” ở đây được dùng rất khéo, nói lên cái tốt tươi của sự sống trong khu vườn, nói “mướt” là nói đến trạng thái mượt mà, mềm dịu đang độ phát triển tơ non. Màu “xanh như ngọc” là màu xanh như được lọc qua ánh sáng rất đẹp và gợi cảm. Đó là màu xanh được miêu tả ban mai hoặc khi bầu trời đang bừng sáng thì mới có một màu xanh như ngọc. Có thể so sánh với nhiều từ ngữ khác nhau, những trạng thái, sắc thái của màu xanh: Xanh lơ, xanh lục, xanh nõn, xanh thẳm, xanh biếc.. Vườn cây vừa chiếm lĩnh chiều cao của không gian với những hàng cau cao vút và bề rộng với cây xanh tươi tốt. Trong những vườn đó ẩn hiện những khuôn mặt phúc hậu:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Ở đây tác giả miêu tả quan hệ giữa người và cảnh như hài hòa, phù hợp và gắn bó với nhau. Tuy chỉ là những nét thấp thoáng nhưng cũng gợi lên được ấn tượng về những con người chân chất ở vùng quê, những người lao động trung thực với khuôn mặt chữ điền. Nhìn chung, trong khổ một tác giả đã miêu tả được vẻ đẹp của vùng quê xứ Huế, đất đai trù phú, cây cối xanh tươi, một vẻ đẹp của làng quê thịnh vượng đã có từ lâu đời; về phía chủ quan là tình cảm mến yêu cuộc sống. Ngoài lòng yêu đời có thể còn là những tình cảm riêng gắn bó với mảnh đất, với người thân quen. Khổ một của bài thơ như gây ấn tượng về sự hiện diện của nhà thơ trong cách miêu tả làng quê đẹp bên bờ sông Hương. Tuy nhiên, đọc kĩ cả bài thơ thì tất cả trôi trên dòng tâm tưởng của một tình cảm thiết tha và dè dặt của một nỗi nhớ thương như nén lại trong cảnh ngộ riêng của mình.
Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ mà tứ thơ vận động theo cảm xúc ở bên trong rồi bộc lộ qua những hình ảnh phù hợp bên ngoài. Cũng vì thế mà tứ thơ path triển không theo một dòng chảy liên tục và có lúc như gián cách, như bất ngờ xuất hiện những ý tứ và hình ảnh mới. Đất Huế không chỉ có một vẻ đẹp mà thiên nhiên có nhiều sắc thái, khung cảnh có vui, có buồn và tấm lòng của tác giả với những thiết tha nhớ mong về nơi ấy và về con người ấy nên tránh sao khỏi buồn. Tác giả lại miêu tả một bức tranh thiên nhiên khác gợi buồn gợi nhớ:
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Dòng nước trôi nhẹ, ngọn gió hiu hiu thổi, những cánh hoa bắp lay lay, nỗi buồn nhẹ nhưng không kém phần da diết, đây là một khung cảnh thiên nhiên có thực nhưng đồng thời cũng phản ảnh tâm trạng của chính tác giả.
Tình cảm buồn xuất phát từ nhiều lý do, nỗi bâng khuâng trước một miền đất lạ, nhiều mơ ước, nhiều dè dặt, những thoáng nghi ngờ.
Nói đến Huế, các nhà thơ đều đặc biệt quan tâm đến dòng sông Hương với vẻ đẹp đặc biệt của một dòng sông nước trong chảy lững lờ giữa thành phố. Các nhà thơ Nam Trân, Tố Hữu đều có nhiều bài thơ đẹp viết về sông Hương, như câu thơ rất chân tình của Tố Hữu:
Hương Giang ơi, dòng sông êm
Quả tim ta vẫn ngày đêm tự tình
Với Tố Hữu, đó là dòng sông tuổi thơ, dòng sông quê hương đã nuôi dưỡng tâm hồn tác giả. Còn với Hàn Mặc Tử đây là dòng sông thơ mộng như thực như hư, nhất là trong đêm trăng, đó là một dòng sông trăng. Không gian ngời ngợi ánh trăng, con thuyền cũng đầy trăng và ghé nhiều bến trăng. Hàn Mặc Tử là nhà thơ miêu tả vẻ đẹp của trăng với nhiều sắc thái lạ:
Không gian đắm đuối toàn trăng cả
Tôi cũng trăng và nàng cũng trăng
Tác giả đã nhân cách hóa vầng trăng theo con mắt đa tình:
Mới lớn lên trăng đã thẹn thò
Thơm như tình ái của ni cô
Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi
Trong bài thơ, dòng sông Hương được miêu tả rất thơ mộng như một dòng sông trăng và con thuyền cũng trở đầy trăng và cập bến như vừa xác định vừa mơ hồ. Cảm xúc với Huế là những cảm xúc đẹp.
Ở khổ thơ cuối tác giả bộc lộ tâm trạng:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Phải chăng khách đường xa nhớ đến miền đất thân yêu này để tìm lại một hình ảnh, một kỉ niệmnhưu đã có ở trong đời hay đúng hơn chỉ một niềm mong ước? Tất cả như thực như hư; hình ảnh áo trắng của người con gái là hình ảnh đẹp gợi lên sự trong trắng, thanh khiết mà một số nhà Thơ Mới thường dùng. Câu thơ “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh” đã được dùng trong thơ xưa để nói lên cái hư ảo của kiếp người: “Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm”.
Hàn Mặc Tử nói đến hình ảnh “mờ nhân ảnh” là chân thực vì hình ảnh của một người thân yêu nào đó còn mờ ảo, như thực, như hư. Đó là một tình cảm lãng mạn, một bóng dáng xa xôi, một ước mơ đẹp. Cũng vì thế mà trong lòng tác giả nảy sinh một câu hỏi rất thực mà cũng có tính chất văn chương của nghệ thuật tu từ:
Ai biết tình ai có đậm đà?
Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ hay, thiên nhiên đẹp và tình người với những mơ ước, những dè dặt, tình đời như nửa thực nửa hư. Bài thơ bộc lộ tấm lòng của tác giả, một nhà thơ mang theo nhiều nỗi niềm mơ ước và cũng hiểu rõ giới hạn mà mình có thể tìm đến với cuộc đời. Nhà phê bình Lê Đình Kỵ nhận xét: “Hai bài thơ được thừa nhận rộng rãi đến thành cổ điển của Hàn Mặc Tử: Mùa xuân chín và Đây thôn Vĩ Dạ không xa lạ với những trình tự quê hương và vào loại trong sáng nhất của Thơ Mới”.
Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 17
Đây Thôn Vĩ Dạ là tác phẩm do Hàn Mặc Tử sáng tác trong hoàn cảnh ông đang đối diện với căn bệnh nguy hiểm. Bài thơ tái hiện bức tranh thiên nhiên đẹp nơi Thôn Vĩ và con người xứ Huế. Qua đó, tác giả gửi gắm nỗi lòng, tương tư, số phận bạc bẽo của ông. Cùng phân tích Đây Thôn Vĩ Dạ để thấy được tình tình yêu cuộc sống, hồn thơ lãng mạn của tác giả.
Trong khổ đầu tiên của Đây Thôn Vĩ Dạ lớp 11, hình ảnh thiên nhiên sớm mai thật lung linh. Một câu hỏi tu từ được tác giả đặt ra nhằm nhấn mạnh hơn nét đẹp quê hương. Khung cảnh thiên nhiên với ánh nắng, hàng cau, sân vườn, lá trúc rất quen thuộc tại vùng quê Việt Nam. Tuy nhiên, tất cả chỉ còn trong ký ức và tiếc nuối, bởi tác giả không thể nào quay về nơi đây nữa. Đoạn thơ thể hiện sự sôi động của thiên nhiên vừa buồn ảm đạm của tâm trạng con người.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Hàn Mặc Tử đặt câu hỏi tu từ thật nhẹ nhàng nhưng có chút trách móc. “Sao anh không về chơi Thôn Vĩ?”, đây là lời mời của tác giả. Qua đó, Hàn Mặc Tử cũng tự hỏi chính mình, tại sao không quay về? Thôn Vĩ là nơi có thiên nhiên tươi thắm, rực rỡ, khoe sắc. Bức tranh thiên nhiên sinh động, ấn tượng, rực rỡ vô cùng. Đây cũng là nét đẹp giản dị của người dân xứ Huế mộng mơ, kín đáo, nổi bật. Với hình ảnh “nắng hàng cau”, “vườn mướt xanh như ngọc”, “lá trúc”, “nắng sớm mai” thật lung linh.
Dàn ý phân tích Đây Thôn Vĩ Dạ đoạn 2 là khung cảnh thiên nhiên đượm buồn. Hoàn cảnh tại bến sông lãng mạn, trên cao là ánh trăng tỏa sáng nhưng thật cô đơn. Tác giả cảm giác nỗi buồn chia xa:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp tay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Thiên nhiên vốn hoạt động đúng theo quy luật của nó, con người bị cô đơn giữa không gian rộng lớn. Tác giả bị bỏ rơi, xa lánh giữa dòng đời tội nghiệp. Ông yêu cuộc sống, thiên nhiên, con người nhưng số phận của ông thật bi đát.
Thiên nhiên hùng vĩ, rộng lớn, với hình ảnh “gió”, “mây” tách biệt nhau tạo sự ngăn cách. Theo quy luật tự nhiên, gió luôn là yếu tố thúc đẩy mây bay, chúng thường hòa quyện vào nhau. Tuy nhiên, trong câu thơ của Hàn Mặc Tử thì đi ngược lại với quy luật. Gió và Mây đoạn tuyệt, không gặp nhau. Hàn Mặc Tử mặc cảm về số phận, cuộc đời không may mắn của mình, ông bị mọi người xa lánh. Ông vẫn yêu thiên nhiên, cuộc sống, quê hương và ưu tiên cái đẹp. Tuy nhiên, ông không thể nào có sức khỏe lại được như xưa, trở về cuộc sống thường nhật được nữa.
Bài thơ thể hiện nỗi buồn sâu tận đáy tâm hồn của Hàn Mặc Tử. Tác giả sử dụng biện pháp nhân hóa, “dòng nước buồn hiu” tựa như chính trong lòng ông. Động từ “lay” nhẹ nhàng gợi tâm trạng nặng trĩu. Không gian từ mây, gió, dòng nước đều buồn, cô đơn, làm ảnh hưởng đến hoa bắp cũng kéo theo. Hoa chỉ lay nhẹ, thấu hiểu nỗi buồn của cả khung cảnh xung quanh nó.Ta thấy nỗi lòng của thi nhân cũng tan nát, cô đơn, không có ai bên cạnh, chỉ biết buồn cùng thiên nhiên. Cuộc đời tác giả vẫn còn nhiều tiếc nuối, tham vọng về cuộc sống trong tương lai.
Tác giả lo cho chính số phận của ông. “Thuyền ai” là một đại từ phiếm chỉ, tác giả tự đặt câu hỏi và biết chắc rằng sẽ không có câu trả lời. Thi nhân luôn tìm ánh trăng làm bạn, tri kỷ suốt đời ông, đặc biệt là những ngày cuối đời. Không gian với ánh trăng sáng, mờ mờ ảo ảo, hình ảnh siêu thực. Chỉ có duy nhất một ánh trăng luôn theo dõi, bên cạnh ông, không giống những người ngoài kia. Trăng là sự an ủi, hy vọng duy nhất về sự sẻ chia, thấu hiểu cho ông thời điểm đó.
Hàn Mặc tử dùng chữ “kịp” thể hiện ông không còn nhiều thời gian, tác giả sợ một điều gì đó. Ông có nguy cơ đối mặt với cái chết bất cứ lúc nào, vẫn tha thiết với thiên nhiên, cuộc sống.
Dàn ý phân tích Đây Thôn Vĩ Dạ khổ cuối là tình yêu của tác giả. Hình ảnh thiên nhiên nổi bật, tâm trạng của nhà thơ trước tình yêu đơn phương có duy trì được không.
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Khổ cuối cùng của bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ sự tiếc nuối của tác giả trước chuyện tình đơn phương. Ông day dứt với mối tình không dám bày tỏ của mình. Qua đó, ông khao khát được yêu, giao tiếp, chia sẻ, sống cuộc sống bình thường như bao người.
“Mơ khách đường xa” được lặp lại 2 lần, tác giả nhấn mạnh sự lưu luyến, cần nhanh chóng, gấp gáp. Miêu tả sự chờ đợi trong mỏi mòn của tác giả, khẩn xin con người hãy mở lòng với ông. “Áo em trắng quá” tác giả không thể dùng bằng mắt nhìn được, cũng chính do không gian sương mù che khuất. Hình dáng người con gái trong Hàn Mặc Tử dần phai nhòa, mất đi trong trí nhớ. Vốn tất cả những người ông thương thầm trộm nhớ là kỷ niệm, nay càng xa tầm với bởi hoàn cảnh éo le của ông.
Tác giả lại tiếp tục dùng câu hỏi tu từ “ai”, không nói đến cụ thể người nào. Thiên nhiên hữu tình, mờ ảo, ảnh hưởng bởi tâm trạng của người thi sĩ. Hình ảnh con người cô đơn, tài hoa nhưng bạc mệnh. Tâm trạng tác giả đi từ cung bậc này đến cung bậc khác, vui vẻ, hoài nghi, buồn bã, cô đơn. Ông không hề kỳ vọng vào tình yêu như những người khác chốn nhân gian.
Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một thi phẩm nói lên mối tình đơn phương vô vọng nhưng cũng rất đỗi thiết tha yêu đời của thi nhân Hàn Mặc Tử. Nhắc đến Huế, ta không thể quên bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, và nhắc đến Hàn Mặc Tử ta càng không thể quên vẻ đẹp của Huế, đặc biệt là không thể quên vẻ đẹp thôn Vĩ trong thi phẩm để đời của ông.
Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 18
Trong phong trào thơ Mới, Hàn Mặc Tử là một trong những cái tên nổi bật nhất với lối thơ đặc biệt vừa lãng mạn tươi trẻ, vừa bi thương day dứt, tất cả đều đến từ cuộc đời có quá nhiều đớn đau, chua xót của người nghệ sĩ trẻ bạc mệnh. Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những sáng tác nổi bật và xuất sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Hàn Mặc Tử, đồng thời cũng là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của phong trào thơ Mới. Bài thơ mang đậm dấu ấn sáng tác của tác giả khi vừa chứa đựng những nội dung trong sáng, thanh khiết vô ngần, bộc lộ tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu cuộc đời tha thiết, đồng thời cũng bộc lộ những nỗi ám ảnh, tiếc nuối của tác giả trước số phận nghiệt ngã của bản thân thông qua những vần thơ kỳ dị, phức tạp đan xen giữa cảnh thực và cảnh mơ.
Hàn Mặc Tử là một nhà thơ tài năng nhưng có cuộc đời nhiều bất hạnh đắng cay, khi ông không may mắc phải căn bệnh phong quái ác khi tuổi đời còn trẻ, sự nghiệp đang thời kỳ nở rộ nhất, đặc biệt trong tình yêu Hàn Mặc Tử cũng lại là người kém may mắn khi phải chịu nhiều thương tổn, day dứt. Trong giai đoạn cuối đời, ông trở về mảnh đất Quy Nhơn để chữa trị thì bỗng nhận được tấm bưu thiếp có in hình phong cảnh Huế, trên bức thiếp ấy là những dòng chữ nhắn gửi của nàng Kim Cúc, cô gái mà Hàn Mặc Tử vẫn thường nhung nhớ. Chỉ bấy nhiêu thôi cũng đã dấy lên trong cõi lòng cô độc của người nghệ sĩ những xúc cảm hạnh phúc, vui tươi, lòng ông dào dạt những tình cảm nhớ mong Huế, nhớ về một xứ Huế đẹp tươi, đồng thời bộc lộ tấm lòng khao khát sống, khao khát hạnh phúc đến tột cùng thông qua những vần thơ đầu thật tươi sáng, trong trẻo.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Mở đầu bài thơ là một lời hỏi ngỏ rất dễ thương, đậm chất xứ Huế “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”, đó có thể là lời hờn trách vu vơ của một người con gái mong ngóng mãi người thương về thăm Huế, thăm mình cho thỏa nỗi nhớ mong, rồi ấy cũng có thể là một lời mời mọc thân tình của một người bạn xa, muốn tác giả một lần về lại Huế, thăm lại chốn cố đô yên bình. Rồi sau thẳm trong lời hỏi ngỏ ấy, ta cũng dường như nhìn thấu lòng tác giả, Hàn Mặc Tử phải chăng cũng đang hỏi chính bản thân sao không về thăm lại chốn quê cũ, thể hiện sự bất lực trước bệnh tật, trước hoàn cảnh éo le của bản thân.
Trong dòng hồi tưởng, thôn Vĩ của Hàn Mặc Tử đã hiện ra với một hình ảnh đặc trưng, ấy là những khu vườn với hàng cau thẳng tắp đón nắng lên. Hình ảnh “nắng hàng cau” là một hình ảnh đặc biệt, có tính khái quát và ấn tượng, nắng hàng cau tức là nắng buổi sớm, mặt trời đã lên khá cao, đương độ ấm áp nhất, và cũng không nóng gắt như buổi ban trưa. Giữa khung cảnh ấy, ánh nắng bao trùm không gian, phủ lên những ngọn cau xanh một màu vàng nhạt, mở ra một không gian trong trẻo, tràn đầy sức sống, cũng như sự thanh bình, yên tĩnh nơi làng quê. “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”, từ phiếm chỉ “vườn ai” đã đem vào cho bức tranh thiên nhiên thêm sự ấm áp của tình người, bên cạnh cái ấm áp của nắng sớm, khung cảnh càng trở nên hài hòa khi có sự giao hòa giữa con người với thiên nhiên.
Những tính từ “mướt quá”, “xanh như ngọc” đều là những nét vẽ thật tài tình và đầy tinh tế của Hàn Mặc Tử khi nhớ về thôn Vĩ Dạ, chúng đã khéo léo, mở ra một bức tranh thiên nhiên dịu dàng, sinh động, trong trẻo, tinh khiết và tràn đầy sức sống. Ấy là cái non tươi mỡ màng của cây lá, là sự trong lành mát mẻ của những giọt sương sớm còn đọng lại sau một đêm dài, mà dưới cái nắng ấm áp chúng ánh lên thật đẹp như những ngọc ngà châu báu, khiến người ta không khỏi suýt xoa ngỡ ngàng. Đến câu thơ cuối, bút pháp thi trung hữu họa đã thực sự làm rõ và nổi bật vẻ đẹp của con người xứ Huế trong bức tranh quê, “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”, lấy cái sự mảnh nhỏ, vắt ngang của lá trúc để làm nổi bật lên khuôn mặt chữ điền, phúc hậu, dịu dàng và thông minh của người con gái Huế, đó có thể cũng là bóng hình mà Hàn Mặc Tử vẫn thường nhung nhớ, một con người với những vẻ đẹp cổ điển và tâm hồn đáng quý, đại diện cho cả một vùng đất với những con người thân thương mà tác giả ngày đêm hướng về.
Nếu như ở khổ thơ đầu tiên, Hàn Mặc Tử nhìn đời, nhìn người với tinh thần tích cực, lạc quan, tràn đầy hy vọng, bằng bức tranh thiên nhiên tươi sáng, trong trẻo, thì đến khổ thơ tiếp theo, mạch cảm xúc của tác giả đã nhanh chóng thay đổi theo sự thay đổi giữa ngày và đêm, giữa hai bức tranh thiên nhiên hoàn toàn khác biệt với những gam màu mới.
“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Từ bức tranh thiên nhiên tươi sáng, với những gam màu ấm áp, thanh mát, giản dị, Hàn Mặc Tử đã chuyển ngay sang khung cảnh đêm tối với bức tranh sông nước mênh mông lạnh lẽo, sâu kín thể hiện sự trống trải, cô độc đang len lỏi trong lòng tác giả. Hình ảnh “Gió theo lối gió mây đường mây” là hình ảnh buồn, lạc lõng, gợi sự chia ly, tan rã không ngày gặp lại. Rõ ràng gió và mây là hai thực thể luôn gắn liền, gió thổi kéo mây bay, dường như gắn bó như hình với bóng, ấy thế mà trong thơ Hàn Mặc Tử gió và mây lại tách biệt, hai thứ hai nơi dường như chẳng chút liên hệ. Phải chăng đây là ẩn ý cho mối tình của ông với nàng Kim Cúc, hai người giờ đây đã dường như cách biệt phương trời, và rồi mai đây nữa chính là âm dương chia cắt. Rồi cảnh mây gió ấy cũng lại gợi liên tưởng đến sự liên quan của tác giả với thế gian, dường như giây phút này, ông cũng đã bắt đầu cảm nhận được bản thân không còn nhiều thời gian, dường như sự sống đối với ông ngày càng xa cách, cuộc đời trần thế của ông có lẽ cũng chẳng còn nhiều nữa. Chính những suy nghĩ và hiện thực đã càng dày vò thêm trái tim mới vừa được thắp lên hy vọng của Hàn Mặc Tử. Một tấm thiếp đã khiến ông vui, tưởng chừng đã thoát khỏi cái u mê, tăm tối của cuộc đời, thế nhưng nó vẫn không thể chiến thắng được sự nghiệt ngã của số phận và bản thân ông bị buộc phải tỉnh mộng quay trở về với thực tại đau thương.
Đến câu thơ tiếp theo “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”, thực đúng với câu “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” của Nguyễn Du, trước nỗi buồn số phận, Hàn Mặc Tử nghĩ về dòng sông Hương hiền hòa, đã trải qua bao thăng trầm lịch sử, ông dường như thấy dòng nước ấy cũng như đang hiểu được nỗi buồn của mình, lặng lẽ buồn thiu, một nỗi buồn âm thầm không biết tỏ bày cùng ai, cô độc, lạc lõng không một người bầu bạn. Hình ảnh “hoa bắp lay” là một hình ảnh có ý nghĩa đặc biệt, hoa bắp vốn là loài hoa không sắc, không hương, mờ nhạt lại nhanh héo tàn. Nó dường như chính là hình ảnh cuộc đời của Hàn Mặc Tử lúc cuối đời, tàn úa chỉ mặc cho gió lung lay mà không thể chống đỡ lại số phận, điều đó khiến cho người ta không khỏi xót xa cho cuộc đời người nghệ sĩ bạc mệnh, cũng như những nỗi đau mà ông đã phải chịu đựng trong suốt cuộc đời.
Đang trong lúc buồn khổ, tuyệt vọng và cô đơn nhất Hàn Mặc Tử lại nhớ đến trăng, người bạn tri kỷ duy nhất ông có thể tâm tình và thấu hiểu ông. Cảnh bến thuyền, ánh trăng sáng là một trong những hình ảnh thường thấy xuất hiện trong thơ ca cổ điển, miêu tả cảnh sông nước thanh vắng, êm đềm, và có đôi chút hiu quạnh. Đến trong thơ của Hàn Mặc Tử cảnh tượng này độc đáo và sáng tạo hơn với câu hỏi “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/Có chở trăng về kịp tối nay?”, ấy là một câu hỏi đầy tâm sự, giữa cảnh sông nước mênh mông, ánh trăng loang vàng khắp mặt nước, có một chiếc thuyền lặng lẽ nằm yên, thật thơ mộng trữ tình biết mấy. Lòng Hàn Mặc Tử lại không được yên bình như thế, người vội hỏi thuyền ai neo bến, người vội hỏi có mang trăng về kịp không, có mang người bạn tâm giao về kịp không. Dường như ta thấy Hàn Mặc Tử đang vội vã, lo lắng, lòng ngập tràn nỗi hoang mang, sợ rằng bản thân không còn nhiều thời gian nữa, không còn có thể chờ kịp ánh trăng về chiếu rọi lòng ông. Càng đọc, càng hiểu sâu tấm lòng người thi sĩ, càng biết được những mối lo, những nỗi cô đơn, bất lực của ông ta lại càng thương cho một kiếp người nhiều đớn đau, khi cả tình yêu, cả sự sống đều nằm ngoài tầm tay với. Tất cả những nỗi đau trong thơ, những tuyệt vọng về cuộc đời của Hàn Mặc Tử đều bộc lộ thực rõ tấm lòng khao khát sự sống, khao khát tình yêu đến quằn quại, dù rằng trong thâm tâm tác giả đã nhiều lần buông bỏ, chấp nhận số phận, thế nhưng chỉ cần có một chút niềm tin, thì tấm lòng ấy lại rạo rực, vui sướng hơn bao giờ hết. Dù rằng tất cả cũng như pháo hoa rực rỡ, đẹp, nhưng chóng nở chóng tàn.
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà”
Đang từ cõi thực, Hàn Mặc Tử chuyển bước vào cõi mơ, thể hiện rất rõ cái hông thơ phức tạp và khó hiểu bậc nhất của mình trong làng thơ ca Việt Nam đương đại. “Mơ khách đường xa khách đường xa”, đó cũng là một câu thơ mập mờ, không rõ ý, “khách đường xa” được lặp lại hai lần, như nhấn mạnh sự xuất hiện của nhân vật này, tuy nhiên càng nêu bật lại càng mờ mịt. Vị khách ấy là từ trong mơ, không rõ mặt, không rõ diện mạo, chỉ biết là họ đang ngày càng xa tầm với, xa mãi không trở lại, ám chỉ sự vô vọng của Hàn Mặc Tử trong mối tình với nàng Kim Cúc xứ Huế, cũng như sự tồn tại của ông trên cõi đời ngày càng trở nên mong manh, mờ mịt. Tác giả đã cách nhân thế rất xa, dần trở thành một vị khách xa lạ, đi một chặng đường ngắn ngủi chừng 28 năm, rồi rời đi vô thanh, vô sắc, liên tưởng ấy khiến người ta vừa ám ảnh, vừa xót xa cho cuộc đời người thi sĩ.
Đến câu thơ tiếp “Áo em trắng quá nhìn không ra”, là bóng dáng chập chờn của người con gái ông yêu trong tiềm thức, bộc lộ khoảng cách ngày một xa xôi giữa ông và nàng, đó không chỉ là khoảng cách về địa lý, mà còn là khoảng cách tâm hồn, khoảng cách sinh ly tử biệt không thể vãn hồi. Chính những khoảng cách ấy, đã khiến Hàn Mặc Tử ngày càng tuyệt vọng, và bóng dáng cô gái năm xưa ngày càng trở nên mờ mịt, ông nhìn không rõ, sờ không được, muốn mà không thể chạm tới đầy xót xa. Để giải thích cho cái sự mờ nhạt, không rõ của nhân vật “em”, tác giả đã viết “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”, nhằm xóa bớt khoảng cách, vịn vào lý do sương khói mờ mịt xứ Huế làm ông không thể thấy rõ, thế nhưng nó lại càng nhấn mạnh vào cái sự mờ mịt, bế tắc và tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử trước cuộc đời, khi chính bàn tay ông cũng chẳng thể nào vén lớp sương mù để tìm thấy bóng hình yêu thương, cũng chẳng thể chống lại số mệnh từ chối cái chết.
Sự đớn đau, mặc cảm số phận đã khiến tác giả không thể mở lòng mình để hiểu rõ tình cảm của nàng Kim Cúc, cũng như chẳng thể đưa bản thân thoát khỏi những mộng tưởng dày đặc, trước tình cảnh ấy ông chỉ còn có thể thốt lên “Ai biết tình ai có đậm đà?”, đó như là lời gửi đến người con gái phương xa liệu có còn nhớ mong kẻ tội nghiệp này, rồi cũng là lời trách móc nhiều đau thương khi lòng ông lo sợ Kim Cúc vốn đã không còn mặn mà với đoạn tình cảm này từ lâu. Cuối cùng ấy còn có thể là lời yêu ông muốn nhắn gửi một cách thật ý nhị, kín đáo vì biết mình không còn sống được bao lâu đến cô gái xứ Huế, ông muốn nàng biết tình cảm của mình, lại cũng muốn nàng không biết, sự phức tạp và mâu thuẫn ấy chính là xuất phát bởi một tâm hồn có quá nhiều thương tổn, đồng thời đang tiến dần những ngày cuối của cuộc đời trần thế, chính lẽ đó người ta không thể có quá nhiều tự tin, hay là gieo rắc hy vọng, tình yêu cho một ai khác. Chi bằng tự ôm lấy nỗi đau, tình yêu tuyệt vọng ấy một mình cho đến hết cuộc đời ngắn ngủi.
Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những tác phẩm xuất sắc và đặc biệt nhất trong suốt đời thơ của Hàn Mặc Tử khi chứa đựng đầy đủ phong cách sáng tác của ông, đồng thời nội dung thơ ấn tượng với nhiều xúc cảm phong phú được thể hiện trong các bức tranh thiên nhiên từ sáng sớm đến tối muộn, từ cảnh thực đến cảnh mơ. Bộc lộ được tài năng sáng tác, cũng như một tâm hồn dù có chịu nhiều đau thương, bất hạnh, thế nhưng Hàn Mặc Tử vẫn giữ gìn vẹn nguyên được tấm lòng yêu cuộc sống, những khao khát hạnh phúc, tình yêu thực giản dị, dù rằng điều đó đối với người nghệ sĩ đã là quá xa tầm với.
Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 19
Hàn Mặc Tử một nhà thơ tài hoa của văn học Việt Nam. Nhắc đến ông, chúng ta lại nhắc tới một người nghệ sĩ tài hoa, bạc mệnh. Qua bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, ta càng cảm nhận rõ hơn ngòi bút sắc sảo, sự tinh tế của Hàn Mặc Tử.
Bài thơ về xứ Huế mộng mơ Đây thôn Vĩ Dạ, là tiếng lòng tha thiết về quê hương, nhưng cũng đượm vẻ u buồn, man mác như dòng sông Hương hiền hòa với những câu hò đượm chút tình của Huế:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Mở đầu bài thơ bằng một câu hỏi tu từ, như lời trách nhẹ nhàng, không có chút giận hờn nào của một cô gái Huế với chàng trai mà cô thầm thương trộm nhớ. Câu thơ còn chứa đựng sự mong đợi, sự trách móc nhẹ nhàng, sao lâu rồi anh không về thăm thôn Vĩ. Đó còn là một lời mời “dịu ngọt”, thôn Vĩ hiện lên, vẻ đẹp không mang nét hùng vĩ như cảnh “Đèo Ngang” hay mang trong mình sự huyền bí hư không, dưới ngòi bút của chính tác giả, hiện lên với vẻ đẹp trữ tình, mộng mơ, đúng chất Huế.
Cái đẹp được tả từ ánh nắng ban mai “nắng mới”, ánh sáng tinh khiết nhẹ nhàng buổi sớm soi rọi xuống những “hàng cau” xanh mướt như đón lấy những tia nắng đầu tiên đó. Tất cả như được phủ kín với ánh sáng, một thử ánh sáng tinh khôi, dưới ánh sáng đó tất cả vạn vật như rực lên sức sống đang tuôn trào.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Một khoảng vườn hiện lên trước mắt chúng ta, ta có thể cảm nhận được dù có nhắm mắt cũng có thể cảm thấy cái màu xanh mượt mà, ngời lên dưới ánh ban mai. Nhà thơ đã dùng hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” để diễn tả sức sống tươi mát, nhựa sống của cây cối đang đâm chồi nảy lộc.
Giữa khung cảnh thiên nhiên trữ tình đó, hình ảnh con người như thấp thoáng đâu đây “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Chúng ta thường nhắc đến mặt tròn, mặt trái xoan… hiếm ai nhắc đến “mặt chữ điền”, chỉ một khuôn mặt hiền lành, phúc hậu.
Con người thấp thoáng, ẩn hiện sau “lá trúc” mơ màng, hình ảnh hư thực. Đây có phải là người ghé thăm thôn Vĩ, là người con gái mà tác giả thầm thương trộm nhớ, một cô gái Huế dịu dàng, duyên dáng. Thôn Vĩ nằm cạnh dòng sông Hương hiền hòa, xinh đẹp, những thửa vườn xanh mát, nằm cạnh đôi bờ sông Hương, vẻ đẹp hiện lên bâng khuâng:
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Câu thơ tả cảnh thiên nhiên, nhưng chứa đựng nỗi lòng của người thi sĩ. Chúng ta thường nói “gió thổi mây bay”, gió và mây cùng đi chung một hướng. Vậy mà trong thơ của Hàn Mặc Tử “gió theo lối gió, mây đường mây”. Có một sự chia lìa đến não lòng. Dòng nước sông Hương cũng đượm vẻ buồn hiu hắt với “hoa bắp lay” hai bên bờ. Cảnh vật như có sự chia lìa, lay động.
Phải chăng đây cũng là tâm trạng của chính tác giả trước nỗi nhớ người mà mình thương yêu, sự nuối tiếc khi không gặp được người trong mộng. Hình ảnh “thuyền và trăng” thường hay xuất hiện trong thơ ca “gió trăng chưa một thuyền đầy” – Nguyễn Công Trứ. Và trong bài thơ này, Hàn Mặc Tử cũng mượn hình ảnh đầy chất trữ tình đó để nói lên nỗi lòng của mình “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó”.
Ánh trăng soi bóng dưới dòng sông Hương, dòng sông của thi nhân không còn mang hình ảnh đơn thuần mà trở thành “sông trăng”, làm cho cả dòng sông và cảnh vật trở nên lung linh, huyền ảo. Có ai ngờ được rằng “dòng nước buồn thiu” vì “hoa bắp” bay theo ánh chiều tà lại có thể trở thành một dòng “sông trăng” nên thơ như thế.
“Thuyền ai” là thuyền của một người xa lạ, hay phải chăng là con thuyền mang theo người mà nhà thơ thầm thương trộm nhớ, hình ảnh vừa thân quen, vừa xa lạ. Câu hỏi tu từ hiện lên day dứt, khắc khoải “Có chở trăng về kịp tối nay”. Câu hỏi nhưng không có câu trả lời, là sự nuối tiếc, hay là sự lỡ dở trong tình yêu, “kịp” khiến cho câu thơ trở nên vội vàng, gấp gáp hơn, dường như đang cố gắng chạy đua để bắt kịp với những chờ mong, hay với tình yêu mà nhà thơ hằng ấp ủ?
Nhưng tất cả những khắc khoải, nhớ thương ấy chỉ là trong tiềm thức, dễ dàng tan biến như chính ánh trăng dưới dòng sông Hương kia. Hiện thực chỉ một giấc mơ đến phũ phàng:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá, nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Nhà thơ đã sử dụng những điệp ngữ “khách đường xa… khách đường xa” làm cho giọng thơ trở nên sâu lắng, nỗi nhớ trong ký ức, nỗi buồn ở hiện tại. Tất cả như mờ đi bởi màu áo trắng, màu sáng tinh khôi ấy hiện lên dưới ánh sáng của mặt trời, là màu tượng trưng cho màu đồng phục của những nữ sinh Huế.
Và trong bài thơ này nó còn là màu nhớ nhung của chính tác giả. Dưới làn sương mờ buổi sớm mai “sương khói mờ nhân ảnh” hình ảnh màu trắng ấy như nhạt nhòa, như ẩn, như hiện, trở nên xa vời, khó nắm bắt. Giữa cái hư không ấy, câu thơ cuối như một sự thất vọng của chính tác giả “Ai biết tình ai có đậm đà?”.
Sự thất vọng của một tình yêu không bao giờ được đáp lại, lời thơ như phảng phất sự u sầu. Bài thơ kết thúc bằng sự ngậm ngùi. Nhà thơ không nói với ai mà chỉ nói với chính lòng mình, sự băn khoăn không biết tình cảm kia có “đậm đà” hay chỉ hư ảo như màu áo trắng trong không rõ ràng trong làn sương mờ buổi sớm.
Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là sự kết hợp tuyệt đối giữa cảnh và tình. Qua đó, ta càng khâm phục hơn nghị lực sống của chính tác giả, cùng sự tài hoa của một nghệ sĩ giàu tình yêu thương.
Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 20
Khi được gọi tên cho Phong trào thơ mới, Đỗ Lai Thúy đã gọi đó là một “Cây nấm lạ trên gia hệ của văn mạch dân tộc”. Cái “lạ” của thơ mới, có người biết, có người chưa biết, nhưng cái “lạ” mà người thi sĩ Hàn Mặc Tử mang theo khi bước vào làng thơ, thì hẳn ai cũng rõ. Những vần thơ điên loạn với ngập tràn ý tượng của hồn, trăng, và máu đã không thôi ám ảnh những ai yêu thơ Hàn, đọc thơ Hàn. Nhưng chẳng ai có thể tưởng đến giữa một rừng thơ ma quái và kì dị ấy, lại mọc lên một bông hoa trong sáng tinh khôi, còn vương bao hương sắc ở đời. Bông hoa ấy Hàn đặt tên Đây thôn Vĩ Dạ, trong nó chứa chở bao cảm xúc và hoài nhớ về một miền quê từng gắn bó biết bao…
Thi phẩm chỉ vỏn vẹn ba khổ, nhưng là sự kết đọng của bao nhiêu nỗi nhớ, bao nhiêu khát khao, có cả bao nhiêu hoài nghi và tuyệt vọng. Bài thơ gắn với chuyện tình giữa thi sĩ và người con gái Huế tên Hoàng Cúc. Giữa những ngày đau đớn nhất cuộc đời, chàng lại nhận được bức ảnh sông nước xứ Huế đêm trăng, nhận thêm mấy dòng thư tín từ người con gái chàng từng thầm thương. Bao cảm xúc ùa về, cuộc hành hương trong tâm tưởng cũng từ đó, và những vần thơ hay nhất được gợi hứng từ xứ Huế mộng mơ đã bật trào trong nỗi nhớ…
Thi phẩm bắt đầu bằng một câu hỏi mang đầy ý vị của Huế mộng và Huế thơ. Không phải là hàng loạt câu hỏi tự vấn đầy quằn quại và đau đớn như ta từng gặp:
Tôi vẫn ở đây hay ở đâu
Ai đem bỏ tôi xuống trời sâu
Sao bông phượng nở trong màu huyết
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu?
Câu hỏi cất lên ở đây vừa như một lời mời, một lời hỏi, lại như một lời trách móc, lời thở than: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Là người con gái Huế hỏi chăng? Hay là Hàn tự phân thân ra hỏi mình? Dù là gì thì cái điều cốt nhất ta thấy được ở đây cũng chỉ là một niềm tha thiết, một nỗi xúc động của người thi sĩ khi được trở về với mảnh đất nhiều kỉ niệm, dù chỉ là trong tâm tưởng. Câu thơ chơi vơi trong sáu thanh bằng và vút lên ở thanh cuối đủ gieo vào lòng người đọc những cảm xúc khó mờ. Là “không về” chứ không phải “chưa về”, là “về chơi” chứ không phải “về thăm”. Nếu đọc cho kĩ, ngẫm cho sâu, ta sẽ thấy một câu thơ mà hàm ẩn bao ý niệm. “Chưa về” nghĩa rằng sẽ còn về được nữa, “về thăm” nghe thật xa lạ biết bao. Đứng ở tâm thế của một người con từng rất gắn bó với xứ Huế, Hàn đã dùng chính tâm thức của mình để viết những câu thơ tiếp theo. Cảnh vườn thôn Vĩ hiện ra, ngời ngời sắc xanh, long lanh ánh sáng:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Ấn tượng sâu nhất vương lại từ câu thơ chính là không gian ngập tràn sắc nắng. Không phải “nắng ửng” trong làn khói mơ tan, không phải “nắng chang chang” dọc theo bờ sông trắng, nắng ở đây, là thứ “nắng mới”, không huyền hồ ảo diệu, không đậm màu đậm hương, nó tinh khôi và trong trẻo đến lạ. Nắng đổ xuống hàng cau, cau hướng lên hứng nắng nhẹ nhàng, một khu vườn mướt xanh được gội sạch bởi sương đêm, sáng sớm nay được đằm mình trong nắng mới. Cái “mướt” mà Hàn gọi dậy ở khu vườn, cái “ngọc” mà Hàn ví với màu xanh, chúng gợi ra bao nhiêu là sắc điệu. Vừa gợi màu mà vừa gợi ánh, vừa óng chuốt lại thật tinh khôi. Người ta ngỡ ngàng về một cảnh vườn thôn từng quen nay trong trẻo đến lạ.
Nhớ về thôn Vĩ còn là nhớ về những nét dáng thân thương của con người nơi đây. Không tả mà chỉ gợi, bằng bút pháp cách điệu hóa, thi sĩ đủ cho ta cảm nhận về con người Huế chân thật, dịu dàng, về con gái Huế đằm thắm, nữ tính, thấp thoáng sau một mảnh trúc che ngang là gương mặt chữ điền rất Huế. Ta từng gặp hình dáng ấy trong câu thơ của Bích Khê:
Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn
Biếc che cần trúc không buồn mà say.
Những nét vẽ thanh tao, những cảm nhận tinh tế, chúng gọi dậy một hồn thơ thánh thiện, nặng tình nặng nỗi với một mảnh đất thân thương. Tìm đâu xa tình yêu quê hương xứ sở, đôi khi niềm thương bắt đầu từ những ấn tượng ngọt ngào quá đỗi bình thường như thế. Hóa ra, không chỉ Hoàng Phủ, không chỉ Trịnh Công Sơn mới viết hay về Huế. Hàn cũng góp cho Huế mấy vần thơ thật chân tình đượm nồng những yêu thương…
Nhưng liệu có phải sẽ thật thiếu sót khi nhắc về Huế mà bỏ quên cảnh sông nước đêm trăng vốn đã thành mảnh hồn riêng nơi đây? Bắt trọn được cái hồn riêng ấy, thi sĩ đã kéo cái nhìn của người đọc sang một miền không gian khác, chơi vơi giữa gió mây, lặng mình theo dòng nước:
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Một bức tranh gợi buồn, gợi sầu. Gió nhẹ thổi, mây nhẹ trôi, hoa bắp nhẹ lay, dòng Hương giang trầm mặc. Cái dáng Huế qua mấy mươi thế kỉ cơ hồ cũng chỉ có thế. Không khí trầm tịch của đất cố đô được gợi lại chỉ qua mấy nét chấm phá.
Nhưng hãy thử đọc kĩ, và nhìn đằng sau câu thơ xem còn bao nhiêu nét nghĩa nữa. Quả vậy, đây không chỉ là một bức tranh ngoại cảnh, nó là tranh tâm cảnh, là điệu tâm hồn. Cứ nghe cái điều ngang trái trong câu thơ là rõ. Lẽ thường gió thổi mây bay, ở đây gió mây đôi ngả, xa cách như chẳng thể chung đường. Cảnh đã được nội tâm hóa, thấm đượm sự chia li. Đến nỗi mà, cái buồn đã được gọi thành tên: “buồn thiu”. Hai chữ “buồn thiu” đã gói trọn nỗi buồn đau của con người, của mối trần duyên tê tái. Thấp thoáng nơi ấy câu dân ca thuở nào:
Ai về Giồng Dứa qua truông
Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em?
Nhưng không biết vì nỗi buồn đã choán ngập tâm hồn, hay vì nhớ mong không thể làm chủ, mà ngay hai câu thơ sau, cảnh trở nên thật hư ảo huyền hồ:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Thuyền, trăng, bờ bãi vốn không phải lần đầu đồng hiện. Thơ xưa từng có ai viết:
Nước biếc non xanh thành gối bãi
Đêm thanh nguyệt bạch khách lên lầu.
Nhưng cái khác biệt ở đây là, thi sĩ không đứng đó mà ngắm trăng hay ngắm sông, người đang chìm dần trong cảm giác ảo hóa. Trăng xuất hiện trở lại, nhưng không phải “trăng vàng trăng ngọc”, “trăng nằm sóng soãi”, mà là trăng huyền hồ tan trên mặt nước. Trong cảm giác mông lung của thi nhân, sông trở thành sông trăng, thuyền trở thành thuyền trăng, bóng người cũng trở thành hình ai thấp thoáng, mờ nhòa trong trăng. Tất cả ngập một màu trăng. Trăng ở đây mang chở nỗi niềm khắc khoải, lo âu, nuối tiếc trước nỗi đau sắp phải xa lìa thực tại.Sự phấp phỏm âu lo và những mong được níu giữ thời gian ấy hiện lên rõ nhất ở chữ “kịp” và câu hỏi đầy tội nghiệp kia. Ta nhìn thấy ở đây một cuộc chạy đua với thời gian, thời gian đang dồn đuổi từng bước, nhưng chạy đua không phải để tận hưởng tối đa thanh sắc cuộc đời như mong muốn của Xuân Diệu, mà chỉ mong tận hưởng cái tối thiểu – đó là được sống. Được sống không thôi đã thỏa nguyện rồi. Trong câu thơ là bao nhiêu sự âu lo, cũng là bấy nhiêu niềm khao khát. Nhân văn của thi hẩm cũng là ở đó: Hãy luôn sống trọn từng ngày khi còn đang được sống.
Niềm khao khát tình đời, tình người của thi nhân cất lên rõ nhất ở khổ thơ thứ ba, khi mà thế giới đã về với thực tại, ngập chìm hoàn toàn ở cõi mơ:
Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đâm đà?
Chữ “mơ” đặt ở đầu, chơi vơi sau đó là tiếng gọi “khách đường xa” đầy khắc khoải, mang theo sự chơ vơ hụt hẫng, bỏ lại bao ngẩn ngơ buồn tiếc. Hình ảnh khách thể xuất hiện trở lại, ngỡ như cứ bước xa dần khỏi vòng tay Hàn, đi về một cõi xa xăm không thể chạm đến. Người con gái mang sắc áo trắng tuyệt đối, trinh nguyên vô ngần, suốt đời Hàn tôn sùng nay lại trở nên mờ nhòa, khó giữ. Tất cả như mờ ảo hơn:
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Không gian mông lung, lạnh lẽo, mịt mùng trong sương khói, huyền hồ trong ảo ảnh. Nó choán trùm lên cả ý thức và tiềm thức, thắt buộc lòng người đến tê dại. Nghe câu hỏi khắc khoải cuối cùng: “Ai biết tình ai có đậm đà?”, ta thảng thốt nhận ra, hóa ra bấy lâu người thi sĩ cũng chỉ mong chờ điều ấy, khao khát điều ấy, đó là tình người, tình đời. Đời thi sĩ sống đã vốn chẳng được vui, đến cuối đời cũng chỉ mong tìm được mảnh hồn tri ngộ. Hàn Mặc Tử của chúng ta, không “kì dị” như bao người nói. Chàng có trái tim rất người, có những tình cảm rất người, mà có lẽ đến nhiều năm sau này vẫn có không ít người ghi nhận điều ấy.
Bài thơ như một khúc đoản ca về tình yêu và niềm khao khát, hướng về một mảnh vườn, cũng là hướng về một mảnh đời. Đặc sắc của thi phẩm còn được tạo nên ở những nghệ thuật mang phong cách riêng của Hàn Mặc Tử. Với những hình ảnh tượng trưng đầy hàm nghĩa, với nhưng câu hỏi tu từ trải đều trên các khổ thơ mang thoe ý niệm riêng, cùng lối viết cách điệu hóa, pha lồng ảo thực, Đây thôn Vĩ Dạ xứng là một thi phẩm có những thi từ đẹp nhất, trong sáng nhất.
“Mai sau, những thứ tầm thường mực thước sẽ biến mất đi, và còn lại của thời kì này một chút gì đáng kể, thì đó là Hàn Mặc Tử”. Lời trân trọng mà người bạn thơ Chế Lan Viên gửi cho Hàn đã nói thay về những gì Hàn để lại cho đời. Mãi mãi là như thế…
Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 21
Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ chính là tác phẩm mà Hàn Mặc Tử đã dùng biết bao tâm huyết của mình viết lên. Bài thơ thể hiện niềm yêu thương nhung nhớ về quê hương xứ Huế nơi mà tác giả đã từng làm việc ở đây.
Hàn Mặc Tử (1912 – 1940) ông được sinh ra tại Bình Định nhưng có 1 thời gian ông được học tập tại Huế và làm việc tại đây. Đối với ông xứ Huế chính là quê hương thứ 2 và cũng là nơi để lại trong ông có nhiều dấu ấn và kỷ niệm nhất. Qua phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ giúp chúng ta có thể hình dung được cảnh vật cũng như con người xứ Huế nơi đây.
Mở đầu bài thơ là lời nói ngọt ngào nghe sao mà tha thiết của một cô gái dành cho 1 chàng trai: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Thôn Vĩ là một làng quê xinh đẹp nằm gần bên con sống Huế thơ mộng. Làng Vĩ hay còn được gọi là làng Vĩ Dạ nơi tác giả nhắc đến là một làng quê yên bình và xinh đẹp.
Đây cũng chính là nơi mà tác giả đã làm việc và học tập tại đây. Phải chăng đây chính là những lời thì thầm nhắc nhở của cô gái dành cho chàng trai rằng hãy về làng Vĩ Dạ chơi vì có biết bao nhiêu cảnh quan đẹp kỳ bí mà chàng trai đã lâu rồi không ghé thăm. Cảnh vật ở đây đẹp đến lạ lùng khi tác giả đã miêu tả rõ nét từng hình ảnh dung dị nhất:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Ở đây cảnh vật có hai màu chủ đạo chính là màu xanh và màu nắng vàng. Cảnh vật ở đây có những hàng cau mọc lên cao và mang màu sắc xanh. Hình ảnh những hàng cau mọc theo hàng lối và đến mùa ra hoa cau thật đẹp. Hoa cau vừa đẹp lại vừa thơm đó chính là lý do mà cây cau không thể thiếu ở Huế được. Nếu như bạn đã từng đi Huế thì sẽ có dịp được chiêm ngưỡng những vườn cau đẹp đến mê hồn của những con người nơi đây.
Ở xứ Huế các bạn sẽ còn trông thấy những vườn cỏ rộng rãi bên trong là những cây cau. Một không gian toàn màu xanh và được điểm sáng bởi những ánh nắng vàng khiến cho không gian trở nên thơ mộng và trữ tình. Vườn nhà đã được tác giả phải thốt lên: “mướt quá” một từ ngữ thể hiện được sự tươi tốt và màu mỡ của cảnh vật nơi đây. Những giọt sương long lanh vẫn còn đọng lại ở những cây cỏ và khi ấy những ánh nắng đã khẽ chiếu vào tạo nên những viên ngọc được tác giả miêu tả: “xanh như ngọc”.
Biện pháp so sánh được sử dụng ở đây khiến cho người đọc liên tưởng được hay hình dung được một bức tranh muôn màu sắc mà tác giả đã vẽ lên. Nhưng đến khổ thơ thứ hai giọng thơ trở nên sâu lắng và pha một chút tâm trạng buồn bã:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Hai sự vật là gió và mây khi được nhắc đến luôn gợi cho chúng ta suy nghĩ về tình yêu đôi lứa. Mây và gió vẫn luôn không rời thể hiện cho tình cảm khăng khít và gắn bó của lứa đôi. Nhưng ở đây thì tác giả lại thể hiện ngược lại đó chính là sự chia ly và xa cách giữa gió và mây mỗi vật lại đi một hướng. Phải chăng đây chính là lời nhắn nhủ của nhà thơ đối với người con gái Hoàng Kim Cúc ấy. Họ đã bị xa cách nhau trong 1 thời gian dài khi Hàn Mặc Tử vào Sài Gòn viết báo và cô Cúc phụ cha làm việc.
Câu thơ thứ hai trong khổ chính là khắc họa về cuộc sống, nhịp sống đời thường của những người xứ Huế chậm rãi và yên bình như sự miêu tả dòng nước thì buồn thiu chảy nước chầm chậm, từ từ. Hoa bắp lay động một cách nhẹ nhàng khi có gió thổi.
Câu thơ tiếp theo là một câu nhớ khiến cho người đọc liên tưởng ra được cảnh vật nhiều nhất có trăng và thuyền. Hai hình ảnh hiện lên thật trữ tình và tỏa sáng cả một dòng sông khi có ánh trăng hiện lên soi tỏ cho cả một con thuyền. Liệu rằng thuyền có chở trăng về kịp tối nay hay không hay lỡ làng? Đây chính là cách nói ẩn của tác giả về chuyện tình yêu của mình có còn kịp để quay lại và yêu thương nữa hay không hay là hai người sẽ mất nhau mãi mãi?
Khổ thơ cuối cùng là lời thốt lên từ đáy lòng tác giả và cũng là những suy tư của tác giả về người con gái ấy:
“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Câu đầu tiên trong khổ thơ cuối tạo sự ấn tượng cho người đọc với sự lặp từ hai lần khách đường xa càng gợi lên sự xa cách hơn. Áo của người con gái ấy trắng quá đến nỗi mà tác giả không nhận ra nữa chính là vì người con gái ấy xinh đẹp mặc trên mình chiếc áo tinh khôi khiến tác giả không thể nhận ra được người con gái mình đã yêu năm nào. Sương khói dày đặc khiến làm mờ đi hình ảnh con người và tác giả tự hỏi liệu rằng cô ấy còn yêu còn tình cảm đậm đà với mình nữa hay không? Câu thơ cuối chính là tiếng lòng của tác giả muốn hỏi người con gái ấy.
Qua phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ chúng ta sẽ biết được rằng đây chính là bài thơ hay nhất mà Hàn Mặc Tử đã viết lên trước khi qua đời bởi căn bệnh phong. Thông qua bài thơ chúng ta có thể tưởng tượng được cảnh đẹp của thiên nhiên cũng như con người nơi xứ Huế xinh đẹp nơi mà đã từng là cố đô của nước ta năm nào. Bài thơ cũng thể hiện khắc họa được tình yêu chân thành mà nhà thơ đã dành tặng cho một người con gái xứ Huế thật đậm đà mà ngọt ngào xiết bao!
Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 22
Hàn Mặc Tử là hồn thơ đau thương nhưng là một nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào thơ mới. Ông để lại cho văn học Việt Nam nhiều tác phẩm có giá trị như: “Gái quê”, “Thơ điên”, “Chơi giữa mùa trăng”… Đặc sắc và gây xúc động nhất là bài Đây thôn Vĩ Dạ được trích trong tập “Thơ điên”. Bài thơ là bức tranh tuyệt đẹp về miền quê đất nước và là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?
….
Ai biết tình ai có đậm đà”
Đây thôn Vĩ Dạ rút trong tập “Thơ điên” xuất bản năm 1940. Theo thi sĩ Quách Tấn – bạn thơ của Hàn Mặc Tử thì bài thơ được gợi cảm hứng từ tấm bưu ảnh do cô gái Huế có tên Hoàng Cúc gửi tặng. Đó là tấm bưu thiếp vẽ cảnh Huế với dòng sông, con đò, bến trăng hay một buổi bình minh. Khi ấy Hàn Mặc Tử đang điều trị bệnh phong tại Quy Nhơn. Nhận được tấm bưu ảnh cùng những lời thăm hỏi của cô gái xứ Huế, ông đã xúc động viết bài thơ này.
Bài thơ mở đầu bằng một hoài niệm mênh mang về cảnh và người thôn Vĩ. Bức tranh thơ đẹp còn tình người thì tha thiết nhớ mong:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Có lẽ, với bất cứ ai khi đọc bài thơ này, cũng đều bị cuốn hút ngay từ câu thơ đầu với những băn khoăn, vừa như hờn dỗi, như trách yêu. Câu hỏi ấy chính là sự phân thân của nhà thơ, sự hóa thân của nhà thơ vào cô gái Huế. Chỉ một câu thôi, câu hỏi nhưng lại chan chứa yêu thương. Tại sao lâu rồi anh không về chơi thôn Vĩ bên bờ sông Hương thơ mộng, có người con gái anh thương? Nhà thơ sử dụng từ “chơi” mà không sử dụng từ “thăm”.
Nếu sử dụng từ “thăm” thì cấu trúc câu thơ không thay đổi nhưng nó trở nên khách sáo, từ “chơi” gợi nên sự thân mật, gần gũi thắm thiết, ân tình. Trong câu thơ, nhà thơ đã hé lộ cho người đọc tình cảm của mình đối với cô gái Huế, xem cô gái Huế là một người thân thương hay chính cô gái ấy xem nhà thơ như bạn tâm giao, tri kỷ.
Mặt khác, sắc thái tu từ trong câu thơ đầu còn là lời tự hỏi, tự trách mình: sao cảnh Huế đẹp vậy mà mình không trở về ? Đó là một câu hỏi đớn đau, khắc khoải vì trở về Huế là điều không thể bởi nhà thơ đang ở giai đoạn cuối của cơn bạo bệnh. Nhưng cũng chính câu hỏi tu từ ấy là nguyên cớ để khơi dậy khao khát, hoài niệm. Vì không thể trở về nên nhà thơ đã làm một cuộc hành hương trong tâm tưởng. Ba câu thơ tiếp theo là hình ảnh thôn Vĩ hiện lên qua cái nhìn tha thiết:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Cảnh sắc thôn Vĩ được chiêm ngưỡng từ xa đến gần. Từ xa nhà thơ đã nhìn thấy “nắng hàng cau nắng mới lên”. Câu thơ với điệp từ “nắng” và cách ngắt nhịp 4/3 gợi ra trong mắt người đọc một không gian tràn đầy ánh sáng. Cảnh hiện lên rõ nét sống động, đầu tiên là vẻ đẹp của “nắng hàng cau”. Cau là loài cây cao nên đón ánh nắng đầu tiên của ngày mới.
Không gian thôn Vĩ vì thế như được đẩy lên cao, thoáng đãng, khoáng đạt. Đặc biệt sau một đêm tắm gội dưới làn sương, những tàu cau trở nên xanh biếc hơn dưới ánh mặt trời. Cụm từ “nắng mới lên” cho ta thấy đó là ánh nắng của buổi ban mai thật rực rỡ, trong sáng. Câu thơ vẽ nên một hàng cau đầy sức sống đang vươn lên mãnh liệt đón ánh nắng đầu tiên của buổi sớm.
Ánh nắng mới mẻ, tinh khôi như làm sáng bừng lên không gian khoáng đạt, rộng lớn. Nhớ đến thôn Vĩ, nhà thơ nhớ ngay đến hình ảnh hàng cau đầu tiên. Bởi lẽ hàng cau là hình ảnh quá đỗi thân thuộc với mỗi người dân thôn Vĩ. Hình ảnh tưởng chừng như đơn sơ, bình dị ấy lại có sức gợi hình, gợi cảm lớn và có ý nghĩa sâu sắc trong trái tim nhà thơ.
Nhắc đến cau còn là nhắc đến loại cây rất thân thuộc với làng quê Việt Nam, nơi có phong tục ăn trầu từ ngàn đời nay. Nguyễn Bính – một nhà thơ cảnh quê, hồn quê cũng đã đặt mối tình bình dị của đôi trai gái thôn quê trên cái nền phong cảnh có hình ảnh thân cau quen thuộc ấy:
“Nhà anh có một hàng cau
Nhà em có một giàn trầu”
Trong bài thơ “Hoa Lư” nhà thơ Trần Đăng Khoa đã viết:
“Đường cỏ lơ mơ nắng
Mái tranh chìm chơi vơi
Vài tán cau mộc mạc
Thả hồn quê lên trời”
Ở khoảng cách gần, thôn Vĩ hiện lên bởi vẻ đẹp của khu vườn tràn đầy nhựa sống “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. “Một câu thơ hay là một câu thơ giàu sức gợi” (Lưu Trọng Lư). Quả đúng như vậy, câu thơ đã gợi ra một khoảng không gian xanh của thiên nhiên Vĩ Dạ, cái màu xanh mượt mà, mỡ màng của hàng cây khiến cho người đọc cảm nhận được một sức sống tràn trề, mơn mởn.
Tác giả dùng màu xanh như ngọc để diễn tả sức sống, vẻ đẹp của thiên nhiên thôn Vĩ, một màu sắc cao quý, lấp lánh và trong trẻo. Nếu không có một tình yêu nồng nàn đối với đất và người Vĩ Dạ, có lẽ thi sĩ họ Hàn không thể gieo được những vần thơ trong trẻo đến như vậy.
“Vườn ai”? không xác định nhưng ngầm hiểu đó là khu vườn cô gái Huế. “Mướt” là một tính từ khác với “mượt” bởi “mượt” chỉ gợi lên mịn màng mà “mướt” thì gợi sự sáng lên, tươi mới của cảnh vật. Xuân Diệu viết:
“Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến nơi nơi động tiếng huyền”
Thủ pháp nghệ thuật so sánh “xanh như ngọc”. Xanh ngọc tức là xanh trong, màu xanh đi liền với ánh sáng nhưng không chói chang mà lại rất dịu, người đọc có thể hình dung vẻ đẹp của viên ngọc đính giữa bầu trời xứ Huế. Câu thơ với “vườn ai mướt quá” như một lời trầm trồ, thán phục, ngợi ca cũng như lời thầm cảm ơn chủ nhân của khu vườn đã dày công chăm bẵm cho khu vườn thêm đẹp.
Và cảnh vật thôn Vĩ càng đẹp hơn trước bởi sự xuất hiện hình bóng con người “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Vĩ Dạ nổi tiếng với màu xanh của trúc – một loài cây họ tre được trồng trước ngõ. Trong tâm tưởng thi nhân bất chợt hiện về khuôn mặt chữ điền lấp ló sau hàng trúc.
Lá trúc thì mảnh mai, mặt chữ điền gợi sự vuông vắn, phúc hậu. Tất cả tạo nên vẻ đẹp hài hòa giữa con người và cảnh vật đồng thời qua đó người đọc nhìn thấy không chỉ vẻ đẹp phúc hậu của người con gái Huế mà còn là vẻ đẹp của sự kín đáo, duyên dáng, e ấp rất thiếu nữ, rất Huế. Cũng viết về thôn Vĩ, nhà thơ Bích Khê viết:
“Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn
Biếc tre cần trúc không buồn mà say”
Viết về trúc, Hàn Mặc Tử không chỉ là “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” mà còn là:
“Thầm thĩ hỡi ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây”
Thiên nhiên và con người có sự gắn bó, hòa quyện hấp dẫn tạo xúc động mạnh trong lòng nhà thơ. Nhà thơ đã ghi lại linh hồn của tạo vật với những gì đặc sắc, lắng đọng trong ký ức hoài niệm, trong nỗi niềm nhớ thương. Bằng việc miêu tả vẻ đẹp thôn Vĩ, Hàn Mặc Tử đã thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng thiết tha đằm thắm đối với cảnh và người xứ Huế. Tất cả ẩn chứa một sự nuối tiếc, một niềm khát khao trở về thôn Vĩ yêu thương.
Nếu như ở khổ thơ thứ nhất nhà thơ nhìn cảnh vật bằng niềm lạc quan yêu đời thì sang khổ thứ hai, tâm trạng thi nhân dần có sự đổi khác, đó chính là lúc mặc cảm chia lìa hiện ra rõ nét dưới từng câu chữ:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
Sông Hương, núi Ngự hiện lên với vẻ đẹp đặc trưng của xứ Huế, dòng sông Hương luôn chảy lững lờ, chậm rãi – đó là “điệu Slow tình cảm dành riêng cho Huế” (Hoàng Phủ Ngọc Tường). Hai bên bờ sông là những vườn bắp với những bông hoa nhẹ nhàng lay động. Thế mà trong đôi mắt Hàn Mặc Tử thì cảnh vật hiện lên chia lìa “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay. Phép nhân hoá làm dòng sông như chở nặng nỗi sầu thương chất ngất của nhà thơ.
Đó là lúc tâm cảnh đã nhuốm vào ngoại cảnh. Nỗi buồn của thi nhân dường như phủ khắp cảnh vật: gió, mây, dòng sông, hoa bắp… Gió và mây là hai sự vật luôn sánh đôi với nhau như thuyền và nước nhưng trong thơ Hàn Mặc Tử thì gió mây chia lìa. Gió đóng khung trong gió, mây đóng khung trong mây “Gió theo lối gió, mây đường mây”. Nhìn xuống dòng sông, thi nhân thấy dòng sông trở nên “buồn thiu”, còn hoa bắp chỉ khẽ “lay” – một cử động rất nhỏ tạo cho bức tranh nỗi buồn hiu hắt vắng lặng. Chữ “lay” ấy như từ trong ca dao bay về đậu vào thơ Hàn Mặc Tử :
Ai về Giồng Dứa qua truông
Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em
Không gian sông nước xứ Huế nhuốm màu sắc hư ảo. Nỗi buồn phủ khắp cảnh vật từ gió mây đến dòng nước và hoa bắp bên sông. Buồn đến não ruột, buồn đến mềm lòng. Gió và mây vốn gắn kết cũng đã có sự chia lìa đôi ngả, dòng sông mang đầy tâm trạng chảy về niềm tâm tưởng. Đằng sau những cảnh vật ấy là tâm trạng của một con người mang nặng một nỗi buồn xa cách, một mối tình vô vọng, đơn phương. Ths Phan Danh Hiếu
Hai câu thơ tiếp theo, thi nhân đưa người đọc vào cõi mộng. Vẫn là dòng sông Hương, là Huế thơ mộng nhưng không còn nắng, còn xanh của Vĩ Dạ mà trước mắt người đọc là không gian ngập đầy ánh trăng, con thuyền trở thành thuyền trăng, dòng sông thì sông trăng, bến thì thành bến trăng.
Từ xưa đến nay, có thuyền trăng, bến trăng nhưng nay lại có sáng tạo sông trăng độc đáo của hồn thơ Hàn Mặc Tử. Đọc câu thơ, người đọc có cảm tưởng như đang trôi vào cõi mộng, dường như đang sống trong khắc khoải hoài mong của thi nhân. Đây không phải lần đầu Hàn Mặc Tử viết về trăng mà trong thế giới thơ ca của Hàn Mặc Tử, trăng là một người bạn, một người tình không thể thiếu trong đời sống tâm hồn thi nhân:
“Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi”
“Không gian đắm đuối toàn trăng cả
Anh cũng trăng mà em cũng trăng”
Hay:
“Gió lùa ánh sáng vào trong bãi
Trăng ngập dòng sông chảy lãng lai”
“Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Trăng nằm im trên cành liễu đợi chờ
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Chẳng bán tình duyên ước hẹn thề”
Thơ Hàn Mặc Tử ít nhiều nhuộm màu sắc trường phái tượng trưng siêu thực của phương Tây vì thế nên có nhiều hình ảnh khó nắm bắt, ví như câu viết về trăng trong tác phẩm này. “Thuyền ai” phải chăng đó là con thuyền của cô gái Huế, con thuyền mà nhà thơ đang mơ ước chở trăng và phải chăng trăng chính là tình yêu mà nỗi chờ mong của Hàn Mặc Tử. “Tối nay” là tối nào, phải chăng đây là giới hạn cuối cùng của cuộc đời nhà thơ – khi mà cuộc sống của nhà thơ là cuộc chạy đua với thời gian.
“Tối nay” phải chăng chính là ranh giới của sự sống và cái chết. Có phải vì thế mà câu hỏi tu từ vang lên khẩn thiết: “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Liệu rồi con thuyền ấy có cập bến bờ trước lúc Hàn Mặc Tử trở về với cõi vĩnh hằng hay không? Từ “kịp” vì thế mà chất chứa tâm trạng hoài mong và cả tin yêu lẫn bi kịch và hoài nghi của con người. Ths Phan Danh Hiếu
“Có chở trăng về kịp tối nay?” là câu hỏi ẩn chứa một sự day dứt, mong ước và lo sợ. Một niềm hy vọng đầy khắc khoải và phấp phỏng trong tâm trạng thi nhân. Hàn Mặc Tử cảm nhận thời gian đang trôi chảy trong lúc mình bất lực. Chính vì vậy mà người đọc càng thấu hiểu hơn cái giục giã trong lời mời gọi ở câu thơ đầu, càng đồng cảm hơn với khát vọng sống mãnh liệt của nhà thơ khi cái chết đang kề cận.
Mặc dù sống trong mơ nhưng thi nhân không mất hết hy vọng mà vẫn mong ước một cách riết róng:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Nhịp thơ 4/3 và điệp ngữ “Khách đường xa” được lặp lại hai lần thể hiện tâm trạng khắc khoải chờ đợi và niềm khát khao đến mãnh liệt. Từ “mơ” nằm đầu câu đã thể hiện rõ tâm trạng mong chờ ấy của thi nhân. “Mơ” chứ không phải là “mong”, vì không mong được nên mơ, vì sống trong mơ có lẽ sẽ bớt đi nỗi cô đơn thì phải. “Khách đường xa” có lẽ chính là cô gái Huế, và khách đường xa xuất hiện trong màu áo trắng.
Màu trắng tượng trưng cho vẻ đẹp trong trắng tinh khôi của cô gái Huế – nhất là Hoàng Cúc từng là nữ sinh của trường Đồng Khánh. Trong sự đa nghĩa của câu thơ, màu trắng còn là sắc màu chỉ sự trong trắng của mối tình đơn phương; màu trắng ở đây vượt lên trên mức bình thường nên đã hóa thành màu của ảo ảnh và chính vì nhìn vào ảo ảnh nên hình bóng của giai nhân cứ mờ nhoè, hư ảo.
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”. “Ở đây” – nơi nhà thơ dưỡng bệnh – nơi mà Hàn Mặc Tử luôn xem là lãnh cung giam lỏng mình. “Ở đây” và “ngoài kia” có xa xôi mấy đâu vậy mà một lần về thăm thôi cũng là điều không tưởng. Bởi thế câu thơ như vừa thực vừa mơ, còn kỷ niệm cứ chìm dần vào Huế – nơi đó giai nhân trong mộng đang lẫn trong màu khói sương của kỷ niệm. Hình bóng giai nhân ấy đã bao năm làm điên đảo mộng thi ca:
“Trời hỡi làm sao cho khỏi đói
Gió trăng có sẵn làm sao ăn
Làm sao giết được người trong mộng
Để trả thù duyên kiếp lỡ làng”
Câu hỏi cuối khổ thơ vang lên đầy hoài nghi, đầy khắc khoải về một mối tình vô vọng: “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Đây là sự hoài nghi của người yêu đời tha thiết. Nhà thơ trong trạng thái bị dày vò vì khát khao tình yêu, vì trái tim đang rơi vào trống trải. Ths Phan Danh Hiếu. Câu hỏi như một tiếng kêu đau đớn, mang theo nỗi buồn vô vọng và những uẩn khúc của Hàn Mặc Tử – một tâm hồn đau thương chới với, bất lực trong mặc cảm chia lìa nhưng cũng hết lòng thiết tha với cuộc đời.
Bài thơ sử dụng một số biện pháp tu từ như: điệp từ, nhân hóa, so sánh, câu hỏi tu từ… Bằng thủ pháp nghệ thuật liên tưởng cùng với những câu hỏi tu từ xuyên suốt bài thơ, tác giả Hàn Mặc Tử đã phác họa ra trước mắt ta một khung cảnh nên thơ, đầy sức sống và ẩn trong đấy là nỗi lòng của chính nhà thơ: nỗi đau đớn trước sự cô đơn, buồn chán trần thế, đau cho số phận ngắn ngủi của mình.
Dầu vậy nhưng ông vẫn sống hết mình trong sự đau đớn của tinh thần và thể xác. Điều đó chứng tỏ ông không buông thả mình trong dòng sông số phận mà luôn cố gắng vượt lên nó để khi xa lìa cõi đời sẽ không còn gì phải hối tiếc. Trải qua bao năm tháng, cái tình của Hàn Mặc Tử vẫn còn tươi nguyên, nóng hổi và day dứt trong lòng người đọc. “Tình yêu trong ước mơ của con người đau đớn ấy có sức bay bổng kì lạ” nhưng nó cũng giản dị, trong sáng và tươi đẹp như làng quê Vĩ Dạ.
Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một thi phẩm nói lên mối tình đơn phương vô vọng nhưng cũng rất đỗi thiết tha yêu đời của thi nhân Hàn Mặc Tử. Nhắc đến Huế, ta không thể quên bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, và nhắc đến Hàn Mặc Tử ta càng không thể quên vẻ đẹp của Huế, đặc biệt là không thể quên vẻ đẹp thôn Vĩ trong thi phẩm để đời của ông. Huế đẹp, Huế thơ, xin được mượn bốn câu thơ của Thu Bồn thay cho lời kết gửi đến tình yêu xứ Huế, với thi nhân Hàn Mặc Tử:
“Xin chào Huế một lần anh đến
Để ngàn lần anh nhớ trong mơ
Em rất thực nắng thì mờ ảo
Xin đừng lầm em với Cố Đô”
Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 23
Đây thôn Vĩ Dạ được Hàn Mặc Tử sáng tác vào năm 1938, tại trại phong Tuy Hòa khi chỉ còn ít thời gian nữa nhà thơ vĩnh biệt cuộc đời. Sự đau đớn về thân xác, sự cô đơn đến chỉ có trăng, hồn và tiếng thở của tạo hóa làm bầu bạn đã làm cho thi sĩ điên cuồng tìm lại những mảnh ghép đẹp đẽ nhất của cuộc đời. Trong phút giây tưởng chừng như giọt cảm xúc về tình yêu người, yêu đời trong ông bị vắt cạn kiệt bởi bệnh tật thì tình cờ nhận được bức ảnh về xứ Huế vào đêm trăng và bức thư hỏi thăm của người con gái năm xưa chàng thầm thương – Hoàng Cúc. Chính những điều đó đã gọi cảm xúc những ngày xưa ùa về, để thi sĩ viết nên Đây Thôn Vĩ Dạ.
Bài thơ vẻn vẹn có 3 khổ thơ, nhưng chất chứa biết bao ký ức, nỗi nhớ, niềm đau, niềm tuyệt vọng của thi sĩ.
Mở đầu bài thơ, Hàn Mặc Tử đã dẫn lối người đọc về với bức tranh tươi đẹp của xứ Huế mộng mơ – nơi một thời đong đầy những miền kỷ niệm đẹp đẽ nhất của thanh Xuân nhà thơ bên mối tình đơn phương, không được ông tơ bà nguyệt se duyên.
Vượt lên những đau đớn của thực tại, dưới con mắt của kẻ đang yêu bồi hồi nhớ lại nơi cũ, thi sĩ Hàn đã gửi vào bức tranh xứ Huế đầy đủ nét tinh khôi, thanh khiết nhất. Tất cả được khắc họa qua hình ảnh những khu vườn nhỏ được chăm chút bởi bàn tay khéo léo của những người con Vĩ Dạ, có sự pha trộn ánh sáng, màu sắc, trong trẻo của buổi ban mai. Bao trùm lên bức tranh ngồn ngộn chất sống, rất Huế không thể nào tìm thấy ở nơi nào khác, thi sĩ viết:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Tác giả đã dùng một câu hỏi tự vấn rất ý vị để làm điểm tựa mở ra bài thơ:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Câu hỏi cất lên tựa như một lời mời mọc, một lời chào ghé chơi thôn Vĩ nhưng cũng được hiểu nhẹ nhàng như một lời trách yêu người thương không trở về để chiêm ngưỡng cảnh sắc tươi đẹp, thanh bình của làng quê Vĩ Dạ vẫn luôn đón đợi. Đó lời tâm sự của cô gái mà thi sĩ từng thương hay lời tự vấn được tác giả “phân thân” để tự hỏi chính mình?
Dù có hiểu theo ý nào đi chăng nữa, thì câu thơ đều tất thảy nỗi lòng xúc động của nhà thơ khi được trở về thăm lại mảnh đất của kỷ niệm. Tác giả Hàn Mặc Tử đã chọn không gian buổi sáng, khoảng thời gian đẹp nhất trong ngày để tái hiện lên vẻ đẹp thiên nhiên tại đây. Nơi những khu vườn được nắng tưới lên mỗi sớm mai. Hình ảnh “nắng” xuất hiện đến lần thứ hai trong một câu thơ đã giúp nhà thơ lột tả được thứ ánh sáng ít gặp như đang lan ra khắp khu vườn theo nhịp bước của thời gian.
Cái nắng hàng cau tươi mơi rải đều trên cả khu vườn, phủ lên những thân cau trong vườn sau một đêm yên giấc, không phải là cái nắng “chang chang cồn cát nắng trưa Quảng Bình” trong thơ Tố Hữu, không phải là “Nắng quái chiều hôm” trong kho tàng ca dao, tục ngữ Việt Nam, cũng không phải cái “nắng ửng khói mơ tan” trong khúc Mùa Xuân Chín của chính Hàn Mặc Tử mà là nắng mới, tinh khôi thanh khiết.
Cau là loài cây cao nhất dường như trở thành cây thước của thiên nhiên để đo được mức độ của nắng tăng dần. Nắng chiếu vào những giọt sương đọng lên thân, lên lá cau…và biến khu vườn trở thành một viên ngọc lớn lấp lánh. Từ “mướt quá” diễn tả rất chính xác trạng thái đầy nhựa sống của khu vườn, vừa lột tả được thái độ có vẻ ngỡ ngàng của tâm tưởng nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên xứ Huế hay cũng chính là bàn tay chăm sóc thơm thảo của con người Vĩ Dạ.
Và ngay dưới câu thơ sau “lá trúc che ngang mặt chữ điền” đã giúp thi sĩ Hàn thể hiện được đầy đủ cung bậc cảm xúc thật của mình. Nếu như trong thi cổ, thiên nhiên là hình tượng trung tâm của bức tranh, thì dưới con mắt của một nhà thơ mới, bức tranh thiên nhiên xứ Huế tuyệt đẹp đích thị là phông nền để nhà thơ gửi gắm cảm xúc và tôn lên vẻ đẹp con người. Không tả, chỉ điểm xuyết bằng hình ảnh khuôn mặt vuông vức” mặt chữ điền” phúc hậu lại có phần gì đó e ấp “che ngang” là đủ để giúp người đọc cảm nhận được nét nữ tính, đằm thắm của người con gái xứ Huế mộng, Huế thơ.
Chuyển sang khổ thơ hai, điệp khúc về tình yêu thiên nhiên xứ Huế vẫn tiếp tục được tác tái hiện, nhưng âm thanh của sóng lòng thi nhân lại chuyển sang khung cảnh Hương Giang vào đêm trăng. Lẽ vì, Vĩ Dạ nằm bên bờ sông Hương cho nên, mỗi khi nhớ về vùng đất này, Hàn Mặc Tử cũng khó lòng cưỡng lại vẻ đẹp của dòng sông từng làm nàng thơ trong “Ai đã đặt tên cho Dòng Sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường sau này. Tuy vậy, nó không còn là bức tranh thiên nhiên tươi sáng, tràn nhựa sống như khổ thứ nhất mà chất chứa nỗi niềm của nhà thơ khi pha trộn cảm xúc thức tại với dòng cảm xúc hồi tưởng của chính mình:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước, buồn thiu, hoa bắp lay”
Không gian tươi đẹp ngồn ngộn chất sống biến mất, phủ đầy trên khổ thơ hai là nỗi buồn mang mác trùm lên cảnh vật. Gió với mây vốn là hai hình tượng sóng đôi “Gió thổi mây bay” thì giờ đây chia nửa phân đường. Vẻ đẹp trầm mặc của Hương Giang muôn đời vẫn thế nhưng dường như lần này chuyên chở thêm tâm trạng của nhà thơ. Trên cả nền bức tranh sông nước, chỉ có mỗi chuyển động của hoa bắp lay khẽ khàng. Nhưng không rõ là nỗi buồn cơ hồ của nhà thơ quá lớn khi nghĩ lại cảnh xưa hay nỗi đau thể xác thực tại trào dâng khiến con tim không thể làm chủ dòng cảm xúc của chính mình đã biến dòng sông thật của xứ Huế trở nên hư ảo, huyền hồ:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Trăng không phải là lần đầu xuất hiện trong thơ Hàn Mặc Tử, thậm chí cùng với máu và hồn, thì trăng là hình tượng bầu bạn giúp nhà thơ thoát ly khỏi những đau đớn thực tại. Nhưng ở đây, không phải là “Trăng nằm sõng soãi trên cành liễu”, không phải là ” con trăng mắc cỡ sau cành thông”… mà chiếc thuyền trăng chở bao khát khao, khắc khoải của nhà thơ về dự cảm xa lìa hiện tại.
Dòng cảm xúc dồn tụ, tiếc nuối, khắc khoải ấy đã được từ “kịp” và câu hỏi tu từ đặt cuối khổ thơ 2 diễn tả rất chính xác. “Có chở trăng về kịp tối nay”?
“Tối nay “là khoảng thời gian ngắn ngủi, nhưng có vẻ qua từ “kịp” và dấu chấm hỏi cuối câu, người yêu thơ có thể cảm nhận được một cuộc chạy đua với thời gian trong tâm trí của Hàn Mặc Tử.
Nhưng tiếc thay, đó không hề là cuộc chạy để vồ vập, tận hưởng phần thanh xuân xanh tươi nhất của cuộc đời như Xuân Diệu từng thốt lên:
“Tôi muốn tắt nắng đi
cho màu đừng nhạt mất”
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Mà là cái tôi tội nghiệp đang ganh đua với thời gian về từng giây phút được tồn tại trong cõi người của nhà thơ. Và niềm khao khát, tình yêu với cuộc đời, với con người được nhà thơ tiếp tục cất lên và đạt cao trào trong khổ thơ thứ 3 khi cả người và cảnh đã chìm trong cõi mơ.
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra”
Chữ mơ đặt ở đầu khổ thơ lại đứng liền với cụm “khách đường xa” được lặp lại lần thứ hai như tiếng gọi “khách” đầy khắc khoải của tâm tưởng nhà thơ. Hình ảnh “khách đường xa”, xuất hiện, lại kết hợp với “nhìn không ra” lại càng khiến cho người đọc như đang nhận ra mồn một cảnh tượng khách đang hằng ngày được mong đợi càng xa khỏi vòng tay của Hàn. Màu trắng của ánh nắng ngập trời Vĩ Dạ hay là màu áo dài trắng của những cô gái Huế thì cũng dần mờ ảo trong sương khói và xa vời với nhà thơ:
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Ai là anh hay là em hay là cả hai – chủ thể trong mối tình của Hàn Mặc Tử? Không ai khẳng định được điều này. Nhưng ai đọc lên câu thơ và hiểu rõ cuộc đời lúc này của Hàn thì ắt hiểu được khát khao về cuộc sống trần thế, khát khao yêu thương của nhà thơ như thế nào. Nhưng khát khao bao nhiêu thì tuyệt vọng bấy nhiêu. Mặc dù đã trốn trong huyền hoặc để gặp lại người cũ, nhưng trả lời niềm khát khao của nhà thơ chỉ là mối nghi ngờ “Ai có tình ai có đậm đà”.
Liệu rằng cô gái năm xưa có từng một lần cảm nhận được tình cảm của ông? Liệu rằng, người con gái ấy có lấy một chút động lòng với với con tim thầm thương trộm nhớ của thi sĩ Hàn đến tận cuối những năm tháng cuộc đời? Cảm xúc là vậy, những kết lại vẫn chỉ là nỗi cô đơn, tuyệt vọng của nhà thơ khi khi không có hồi đáp. Rõ ràng, lời thơ không gay gắt như:
“Trời hỡi làm sao cho khỏi đói
Gió trăng có sẵn làm sao ăn
Làm sao giết được người trong mộng
Để trả thù duyên kiếp phũ phàng”
Khép lại Đây thôn Vĩ Dạ – bức tranh đẹp về thiên nhiên và con người nơi xứ Huế được khắc hoa qua sự liên tưởng, tưởng tượng thú vị, trái tim yêu thương, quặn thắt của Hàn Mặc Tử, chúng ta vẫn còn cái cảm nhận được cái tình của thi nhân dành cho người, cho cuộc đời trần thế. Dù đã ra đi mãi mãi, những chắc chắn rằng, Đây thôn Vĩ Dạ – Đứa con đẻ được ra đời trong những giây phút đau đớn nhất về thể xác, tinh thần của nhà thơ vẫn còn lại đây mãi với hậu thế.
Niềm khát khao được sống, được yêu của thi nhân chính là thứ gia vị đặc sắc giúp người đọc yêu hơn những vần thơ ông và bồi dưỡng thêm tình yêu quê hương, yêu cuộc đời trong mỗi người ngày thêm sâu đậm.
Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 24
Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những tuyệt phẩm mà nhà thơ Hàn Mặc Tử đã để lại cho nhân gian. Đó là những áng thơ bay bổng và ngọt ngào. Trước khi viết bài thơ thì thi sĩ đã mắc bệnh phong nhưng vẫn mang trong mình nỗi nhớ thương, đau đáu nhớ về quê hương Vĩ Dạ đó là nơi chứa biết bao nhiêu thời gian đẹp đẽ mà nhà thơ đã gắn bó ở đây.
Xứ Huế chính là quê hương thứ hai của nhà thơ Hàn Mặc Tử khi ông đang còn làm nhân viên sau đó mới chuyển vào Sài Gòn và viết báo. Cố đô Huế hiện lên trong tác phẩm của nhà thơ có biết bao cảnh đẹp trữ tình mà con người nơi đây cũng đẹp đẽ. Huế cũng chính là mảnh đất có đặc trưng trồng rất nhiều cây cau ấy vậy mà trong thơ Hàn Mặc Tử có nói đến:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”
Đó là lời trách mắng dịu dàng và nhẹ nhàng mà khi ai đọc đến cũng có thể đoán được đó chính là lời trách của một cô gái đối với một chàng trai. Nhưng nghe câu nói sao thấy mượt mà nửa dỗi hơn đáng yêu đến vậy! Cô gái trách cứ với chàng trai rằng sao không về chơi thôn vĩ để xem những hàng cau mới mọc lên và được những ánh nắng “rót” vào.
Những cây cau mọc cao và có lá màu xanh mướt nhìn đã rất đẹp nay lại còn được phủ trên mình những ánh nắng màu vàng óng ả nữa! Ôi chao thật đẹp đúng là một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp chan hòa ánh sáng. Chưa dừng lại ở đó mà khi đọc đến hai câu thơ tiếp theo ta lại được chiêm ngưỡng cảnh đẹp hoàn mỹ đến khó tưởng:
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Nếu các bạn đã từng đi tham quan ở Huế thì sẽ thấy những mảnh vườn xinh xắn có cỏ và những cây cau mọc bên vườn. Người Huế đơn giản lắm họ chỉ cần sống gần gũi với thiên nhiên mộc mạc mà trữ tình vậy thôi cũng đủ cho ta thấy cuộc sống của họ thật nên thơ và tuyệt đẹp khi họ không cần những tòa nhà cao tầng chọc trời hay những chiếc xe ô tô to lớn, khi vào đến Huế chúng ta mới cảm nhận hết được vẻ đẹp của ngày xưa được hiện diện như thế nào.
Đường phố thì đông đúc người qua lại người đi bộ người đi xe đạp không hề ồn ào cũng không hề hấp tấp. Tác giả miêu tả: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” chính là vẻ đẹp của những cây cỏ xanh mướt được những giọt sương sớm đọng lại. Khoảnh khắc ấy đã tuyệt đẹp nay còn đẹp hơn khi có những tia nắng chiếu vào.
Cảnh vật như hoa lệ và mỹ miều hơn bao giờ hết. Mướt quá chỉ sự vật cỏ cây mọc tốt mà xanh non quá đến nỗi xanh như ngọc. Mà ngọc có màu xanh thể hiện cho màu xanh biếc. Tác giả thật khéo liên tưởng giữa màu xanh của cỏ cây và màu xanh của ngọc. Qua đây ta mới thấy được sự tinh tế cũng như khéo quan sát của nhà thơ Hàn Mặc Tử biết bao.
Người xứ Huế hiện lên vẻ đẹp trung thực và hiền lành biết bao qua câu thơ: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Khuôn mặt hình chữ điền chính là sự thể hiện cho phúc hậu, vuông vắn mà toát lên sự hiền lành và đôn hậu của những con người nơi đây. Đến khổ thơ thứ hai thì tác giả đã đặc biệt khắc họa rõ nét hơn về nhịp sống của những con người nơi xứ Huế chậm rãi mà êm ả:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Dòng nước chảy chậm đến nỗi mà “buồn thiu” hoa bắp lay động cũng rất chậm. Câu thơ khiến ta cũng liên tưởng tới sự xa cách giữa lối gió một hướng , hướng mấy một hướng. Phải chăng đó chính là sự ly biệt, là đường thẳng song song không bao giờ có điểm chung của mối tình giữa chàng trai Hàn Mặc Tử và cô gái Hoàng Thị Kim Cúc – một cô gái mà ngày xưa nhà thơ đã thầm thương trộm nhớ.
Và khi đọc đến câu thơ: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, có chở trăng về kịp tối nay?” khiến người đọc có thể liên tưởng được một thuyền nằm trên mặt sông và nơi đó có cả vầng trăng sáng. Thuyền đi đến đâu như thể chở trăng đi theo đến đó. Liệu thuyền có chở trăng kịp về hay không?
Khổ thơ cuối chính là tình cảm của tác giả Hàn Mặc Tử dành cho cô gái xứ Huế mà ông vẫn luôn thương thầm được miêu tả cụ thể qua 4 câu thơ cuối:
“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Tác giả mơ đến một giấc mơ ở đó có người khách lạ mà đó chính là cô gái mà tác giả đang yêu. Áo trắng quá khiến nhà thơ không còn nhận ra được cô gái nữa rồi. Màu áo trắng cũng làm chúng ta dễ dàng liên tưởng đến màu áo trắng của tà dài nữ sinh Huế. Câu thơ lặp từ khách đường xa đến 2 lần càng thể hiện sự sâu lắng và xa lạ giữa nhà thơ với nhân vật mà tác giả nhắc đến.
Sương và khói đã làm mờ đi hình ảnh của người con gái khiến cho tác giả cảm giác xa xôi, khó gần. Tác giả tự hỏi bản thân mình: “Ai biết tình ai có đậm đà?” không biết liệu rằng cô nàng đó còn nhớ và còn thương Mặc Tử hay không? Đọc xong câu thơ cảm thấy phảng phất nỗi buồn, đó là tình yêu dạt dào của tác giả đơn phương gửi gắm đến một cô gái mà không được đáp trả lại.
Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 25
Hàn Mặc Tử một người yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, trân trọng cuộc sống. Ông cũng là người từng yêu và cảm giác giang dở trong tình yêu của mình. Nhưng ông lại là một con người lạc quan, hòa mình vào cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp.
Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là những tâm sự của ông trước cảnh thiên nhiên thôn Vĩ cùng với nỗi niềm tâm trạng của mình.Bắt đầu bằng một câu hỏi: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ” câu hỏi vang lên như một lời trách thầm, nhắn nhủ của nhân vật trữ tình trong tâm trạng vời vợi nhớ mong.
Câu thơ bảy chữ nhưng có tới sáu thanh bằng, thanh trắc duy nhất vút lên cuối câu như một nốt nhấn khiến cho lời thơ nhẹ nhàng mà thấm thía những nỗi niềm tiếc nuối vọng lên da diết khôn nguôi. Từ niềm nhớ thương được khơi nguồn như thế, hình ảnh thôn Vĩ chợt sống dậy trong lòng nhà thơ:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Chỉ ba câu thơ Hàn Mặc Tử đã khắc họa được những nét đặc trưng của thiên nhiên xứ Huế. Mỗi câu thơ là một nét vẽ, mỗi chi tiết sống động tạo thành sự khắc họa sống động đẹp đẽ của thôn Vĩ trong hoài niệm. Trước tiên là vẻ đẹp trong trẻo tinh khôi của buổi sớm mai: nắng hàng cau nắng mới lên không phải là cái nắng chang chang dọc bờ sông trắng mà là cái nắng trong trẻo tin khôi của một ngày.
Chỉ miêu tả nắng thôi mà đã gợi lên trong lòng người đọc bao nhiêu liên tưởng đẹp. . Điệp từ “nắng” đã vẽ ra một bức tranh ánh nắng trong không gian nắng lan đến đâu vạn vật bừng sáng đến đó từ trên cao tràn xuống thấp và tràn đầy cả khu vườn, thôn Vĩ như được khoác lên một chiếc áo mới thanh tân, tươi tắn.
Đến câu thơ thứ ba là cảnh vườn tược được tắm đẫm trong nắng mai ngời sáng lên như một viên ngọc xang diệu kì: ” Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.” Câu thơ như một tiếng reo đầy ngỡ ngàng thích thú, không phải xanh non xanh biếc mà là xanh như ngọc. Cảnh giản dị mà thanh khiết cao sang vô cùng. Chữ “mướt” tác động mạnh mẽ vào giác quan người đọc ấn tượng vẻ mượt mà loáng mướt của khu vườn.
Nhưng cái thần của câu thơ lại dồn cả vào chữ “ai” chỉ một chữ mà khiến cho cảnh đang gần gũi bỗng bị đẩy ra xa, hư thực khó nắm bắt. Âm hưởng nhẹ bẫng của tiếng này khiến hơi thở như thoáng xuôi về một cõi hư ảo mơ hồ. Và rất tự nhiên theo mạch cảm xúc, nhắc đến “ai” lập tức nhà thơ nhớ đến hình bóng con người:”Lá trúc che ngang mặt chữ điền”.
Hình ảnh cành trúc đã trở nên quen thuộc khi nhắc đến con người nơi đây, mảnh đất cố đô văn hiến. Con người như hòa vào, như ẩn vào thiên nhiên một vẻ đẹp kín đáo tao nhã. Đó là vẻ đẹp riêng trong mảnh đất cố đô nhưng ngay trong dòng cảm xúc miên man ấy ta đã thấy nỗi buồn man mác xa nỗi thấm vào lòng người.Cảm giác về cái đẹp mơ hồ mong manh ấy càng rõ hơn ở khổ 2 trong bức tranh mây trời sông nước:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Hai câu đầu: Bức tranh có những nét rất đặc trưng của xứ Huế: gió thổi, mây nhẹ trôi, dòng nước lặng lờ và hoa bắp khẽ lay động ven sông. Tả thực mà gợi lên cái hồn xứ Huế: gió mây nhẹ nhẹ bay, dòng sông trôi lững lờ, cây cỏ khẽ đung đưa. Nhưng ngắm kĩ sẽ thấy đường nét chia lìa, rời rạc của tạo vật,sự sống hiện lên lắt lay, mệt mỏi, âm điệu câu thơ buồn bã, xa vắng.
Tả cảnh thực hay là cảnh đã được tâm trạng hoá, bộc lộ nỗi niềm thi nhân. Cái ngược chiều của gió, mấy khơi gợi sự chia lìa đôi ngả của tình đời, tình người, như rạch vào nỗi đau thân phận, sự chia lìa xa cách của chủ thể trữ tình khi viết bài thơ. Hai câu kết đoạn cũng đem đến ấn tượng về bức tranh tâm cảnh như vậy.
Cảnh đẹp sông vẫn thoáng bâng khuâng gợi nên từ những hình ảnh: thuyền ai- sông trăng…. Dòng sông dường như bị ảo hoá, không còn là sông nước mà là sông trăng, lấp ánh ánh trăng vàng, là dòng ánh sáng tuôn chảy khắp vũ trụ làm cho không gian thơ trở nên hư ảo.
Đại từ phiếm chỉ ” ai” nghe thật mơ hồ xa vắng; và con thuyền chở trăng trên dòng sông kia thật mong manh như một ảo ảnh. Để rồi chỉ cần một chữ ” kịp tối nay” là lập tức đủ kéo thi nhân về với thực tại, đối diện với nỗi cô đơn của chính mình. Ba chữ thôi nhưng gợi lên thật nhiều những khắc khoải, mong ngóng, hi vọng, lo âu, vừa mới khao khát đấy rồi lại chợt vội vàng hoài nghi.
Tín hiệu mong chờ thật mong manh nhưng vô cùng da diết. Khao khát của thi nhân hướng tới cái đẹp của tình đời tình người không tránh khỏi những nghi ngại băn khoăn.Khổ cuối bài thơ là tiếng nói giúp nhà thơ hiểu thêm nỗi thiết tha dường như vô vọng đó:
“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Hình ảnh ” khách đường xa” đã từng xuất hiện trong thơ Hàn Mặc Tử? : khách xa gặp lúc mùa xuân chín.hành trình của người khách từ xa xôi- em- là cả một giấc mộng dài say đắm của Hàn Mặc Tử . Bản thân ” khách” đã diệu vợi, khách đường xa càng diệu vợi xa xăm hơn. Phải chăng vì hoàn cảnh đặc biệt của mình,vì mối quan hệ với cuộc đời trong tâm trí nhà thơ trở nên xa xăm cách trở.
Nhà thơ cảm thấy mình chỉ đi song song với tình yêu, hạnh phúc mà không bao giờ nắm bắt được. Phải chăng vì thế mà mọi hình bóng đều xa vời hư ảo: áo em trắng quá nhìn không ra. Câu thơ đầy đam mê ” áo em trắng quá” nhưng cũng thật hụt hẫng xót xa ” nhìn không ra”. Sắc trắng thiên thần tinh khôi ấy sao cứ vượt khỏi tầm tay. Hai câu kết là lời lí giải: Xuất hiện một lí do thật khách quan: ở đây sương khói mờ nhân ảnh.
Xưa nay xứ Huế vốn bảng lảng sương khói, nhưng còn lí do chủ quan : trái tim trong tà áo trắng kia cung hư vô bí mật như sương khói. Đó là sương khói của thời gian, hay sương khói của một mối tình mong manh chưa một lời ước hẹn, sương khói phủ lấy một trái tim biết mình sắp từ giã cõi đời…sương khói ấy che phủ khiến nhà thơ không thể nhận ra, không thể nắm bắt.
Câu kết bài đọng lại nỗi buồn khắc khoải băn khoăn ” ai biết tình ai” có đậm đà không hay chưa kịp nồng trên mà khác đã phôi pha”. Câu thơ gợi lên nhiều cách hiểu; nhà thơ sao có thể biết tình người xứ Huế có đậm đà hay không?; người xứ Huế có biết chăng tình cảm của nhà thơ với cô rất đậm đà?
Đây thôn Vĩ Dạ hấp dẫn người đọc bởi vẻ đẹp bức tranh xứ Huế trầm mặc cổ kính mà rất tao nhã quý phái. Nó gợi nên cái linh hồn của mảnh đất cố đô nhưng không thể nói rằng bài thơ chỉ đơn thuần tả cảnh. Bài thơ đã làm chúng ta thêm yêu cuộc sống hơn.
**********************
Với 25 bài văn mẫu Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử lớp 11 hay nhất. Hy vọng sẽ giúp các em cảm nhận vẻ đẹp của xứ Huế mộng mơ, cùng vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ – một trái tim, một tâm hồn lãng mạn dạt dào yêu thương đã bật lên những tiếng thơ, tiếng khóc của nghệ thuật trước cuộc đời.
Đăng bởi: Trường Trung Cấp Nghề Thương Mại Du Lịch Thanh Hoá
Chuyên mục: Giáo Dục
Bản quyền bài viết thuộc Trường Trung Cấp Nghề Thương Mại Du Lịch Thanh Hoá. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: https://tmdl.edu.vn/phan-tich-bai-tho-day-thon-vi-da-cua-tac-gia-han-mac-tu/
Trang chủ: tmdl.edu.vn
Danh mục bài: Giáo dục