Giáo dục

Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương

Đề bài: Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương

phan tich gia tri hien thuc va nhan dao trong chuyen nguoi con gai nam xuong

Bạn đang xem bài: Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương

Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương

 

I. Dàn ý phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương (Chuẩn)

1. Mở bài

– Giới thiệu về tác phẩm
– “Chuyện người con gái Nam Xương” có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.

2. Thân bài

* Giá trị hiện thực:
– Bi kịch của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến:
+ Xuất thân bình dân, nết na, thùy mị, “tư dung tốt đẹp”
+ Chồng đi lính, một mình quán xuyến nhà cửa, lo cho mẹ chồng, cho con, mẹ chồng chết, “lo liệu ma chay như cha mẹ đẻ”.
→ Người phụ nữ đẹp người đẹp nết, đại diện cho phụ nữ trong xã hội phong kiến.
+ Trương Sinh vì nghe lời nói của con, nghi ngờ bóng gió vợ mình, “đánh đuổi đi”, khiến vợ rơi vào bế tắc phải tự tự để minh oan…(Còn tiếp)

>> Xem chi tiết Dàn ý phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương tại đây

 

II. Bài văn mẫu Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương (Chuẩn)

” Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”

Đó chỉ là một trong hàng trăm những lời ca dao than thân của những người phụ nữ trong xã hội cũ. Họ là những người phải chịu đựng rất nhiều bất hạnh, đau thương, phải sống trong một xã hội “trọng nam khinh nữ”. Vậy nên, không ít những tác phẩm thơ và truyện đã ra đời để phản ánh những nỗi khổ cực mà những người phụ nữ hiền hậu đã trải qua trong xã hội phong kiến. Trong số đó phải kể đến tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”. Đây là một tác phẩm không chỉ hay về nội dung khi phản ánh được số phận đau khổ của người phụ nữ xưa mà còn thể hiện được những giá trị hiện thực và nhân đạo hết sức sâu sắc.

“Chuyện người con gái Nam Xương” được nhà văn Nguyễn Dữ viết lên để nói về một người phụ nữ tên là Vũ Nương. Nàng xinh đẹp, đức hạnh, khát khao hạnh phúc nhưng lại bị chính chồng mình, xã hội, chính lễ giáo phong kiến dồn ép phải rơi vào hoàn cảnh éo le, oan khuất. Kết thúc câu chuyện là hình ảnh của một Vũ Nương rực rỡ giữa dòng nước thoáng ẩn thoáng hiện nói với chồng mình lời tạ từ rồi biến mất.

Đầu tiên, người ta thấy ở tác phẩm này chứa đựng một giá trị hiện thực hết sức sâu sắc. Đó là hình ảnh của một người phụ nữ đức hạnh nhưng lại phải chịu biết bao khổ cực, đắng cay, cuối cùng phải chịu oan khuất mà đi tìm cái chết. Ở đây, truyện đã phản ánh được cái bi kịch của hầu hết những người phụ nữ sống dưới chế độ xã hội phong kiến tàn ác. Vũ Nương vốn chỉ xuất thân con nhà bình dân, nhưng sắc đẹp cùng phẩm hạnh của nàng đã lọt vào mắt xanh của Trương Sinh – con nhà hào phú nhưng không có học thức, lại còn có tính đa nghi, “với vợ phòng ngừa quá sức”. Một người con gái như nàng, đẹp người đẹp nết, đáng ra nàng phải được lựa chọn cho mình một đức lang quân như ý, thế nhưng trong cái xã hội ấy, nàng phải thuận theo cha mẹ, thuận theo lễ giáo mà cưới một người như Trương Sinh.

Tuy vậy nhưng nàng cũng là một người vợ đoan trang, thủy chung hết mực. Ba năm chồng đi lính, nàng ở nhà lo việc nhà, chăm mẹ, chăm con, “cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết”. Nàng đúng là mẫu người phụ nữ phẩm hạnh, đúng với lễ giáo phong kiến xưa.

Không chỉ xinh đẹp, nết na, thùy mị, thủy chung, nàng còn có “tư dung tốt đẹp” bởi khi chồng vắng nhà, một tay nàng quán xuyến việc nhà, chăm lo cho gia đình, cho mẹ chồng. Một người phụ nữ chân yếu tay mềm làm sao đủ sức vừa lo chuyện gia đình vừa có thể quán xuyến được việc nhà cơ chứ? Ấy vậy mà Vũ Nương đã thay chồng lo lắng hết mọi công việc trong nhà, nàng quả là người con gái giỏi giang hết mực. Đến lúc mẹ chồng chết, nàng còn một tay lo liệu ma chay, cúng tế cho mẹ “như đối với cha mẹ đẻ của mình”.

Vũ Nương là hình tượng người con gái đại diện cho lớp phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ đều có tài có sắc, xinh đẹp, nết na, thùy mị, thủy chung nhưng lại chịu chung một bi kịch trong số phận của mình. Nếu nàng Kiều phải chịu cảnh tủi nhục, buộc phải bán mình cứu cha, bị xã hội ấy chà đạp hết lần này đến lần khác trong vũng bùn tăm tối thì Vũ Nương còn đau khổ hơn với bi kịch của mình khi nàng bị chính chồng của mình nghi ngờ không giữ trọn tiết.

Trong gia đình, còn gì đau khổ hơn khi người chống “đầu gối tay ấp” nghi ngờ về tiết hạnh của mình? Với người phụ nữ trong xã hội phong kiến, một người phụ nữ không tròn tiết hạnh thì thật là một người phụ nữ đáng khinh bỉ. Vậy mà Vũ Nương ở đây đã bị chính chồng mình nghi ngờ mình đã thất tiết. Dù nàng có giải thích, có van xin, “dám bày tỏ để cởi mối nghi ngờ” thì chồng nàng vẫn một mực nghi ngờ người vợ của mình. Điều đó đã đẩy nàng đến tột đỉnh của đau khổ, bởi chồng nàng “lấy chuyện bóng gió này nọ mắng nhiếc này, đánh đuổi đi”, điều này đã khiến nàng phải nhảy sông tự vẫn để bày tỏ nỗi oan khuất của mình.

Phải nói, người phụ nữ trong xã hội xưa, mỗi người lại có cho mình một bi kịch đau khổ riêng. Bi kịch ấy dựng lên bởi xã hội phong kiến, bởi lễ giáo, bởi hệ quả của xã hội đương thời. Giá trị hiện thực của tác phẩm không chỉ được thể hiện ở bi kịch của nàng Vũ Nương xinh đẹp mà còn phản ánh một xã hội phong kiến vô cùng bất công với người phụ nữ.

Một cuộc chiến tranh phi nghĩa đã đẩy Trương Sinh phải xa nhà, xa vợ, xa đứa con còn chưa chào đời để đến khi trở về, chàng đã tạo nên môi hiểu lầm sâu sắc khiến vợ mình phải chịu hàm oan. Nếu không có cuộc chiến tranh ấy, liệu có chăng cuộc sống của Trương Sinh đã khác và Vũ Nương cũng chẳng phải chịu oan khuất dưới dòng sông Hoàng Giang? Hơn nữa, chiến tranh loạn lạc ấy cũng cướp đi mạng sống của rất nhiều người dân trong nước, khiến họ phải chết đuối trên đường trốn chạy giặc giã “Cuối đời Khai Đại nhà Hồ, quân Minh mượn tiếng đưa Trần Thiêm Bình về nước, phạm vào cửa ải Chi Lăng, nhân dân trong nước, nhiều người sợ hãi phải chạy trốn ra ngoài bể, không may đắm thuyền đều chết đuối cả”.

Không chỉ vậy, xã hội phong kiến ấy còn có những lề thói, lễ giáo bó buộc con người, dung túng cho những tư tưởng “trọng nam khinh nữ”. Xưa kia, ông bà ta vẫn thường hay nói rằng: “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, tức là có một người con trai mới gọi là có con còn có mười người con gái cũng chỉ như không có mà thôi. Một xã hội với tư tưởng như vậy, liệu chăng những người con gái như Vũ Nương có thể hưởng được hạnh phúc hay không? Ngay cả việc lấy Trương Sinh – một kẻ vũ phu, vô học cũng vô tình làm mất đi hạnh phúc của Vũ Nương. Đúng như lời than thân trách phận của người phụ nữ xưa vẫn hát:

“Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?”

Nếu như xét trong mối quan hệ gia đình, một người đàn ông như Trương Sinh sau ba năm xa nhà, để vợ quán xuyến mọi việc, lo lắng mọi điều, đáng ra chàng ta phải vô cùng cảm ơn người vợ dịu hiền của mình chứ? Vậy mà chỉ với một câu nói vu vơ của một đứa trẻ còn chưa lớn, chàng ta đã vội vàng nghi ngờ vợ của mình mà bỏ ngoài tai hết mọi lời can gián, không chỉ là lời biện bạch của người vợ thủy chung mà còn là lời “bênh vực và biện bạch cho nàng” của xóm làng. Phải nói, sự ghen tuông này của chàng ta xuất phát từ cái tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, là hệ quả của cả một xã hội đương thời với lễ giáo trói buộc người phụ nữ vào “tam tòng tứ đức”. Ở cái xã hội này, người phụ nữ dù làm gì cũng chẳng bảo vệ nổi bản thân mình, luôn là người chịu nhiều thiệt thòi và đau khổ nhất.

“Chuyện người con gái Nam Xương” đã thể hiện rất rõ ràng giá trị hiện thực. Đó là một xã hội phong kiến bất công, “trọng nam khinh nữ” với nhiều tư tưởng bảo thủ, lạc hậu, lễ giáo khắt khe với người phụ nữ khiến họ rơi vào nhiều bi kịch, chẳng thể bảo vệ được bản thân mình. Cùng với đó là những cuộc chiến tranh liên miên, kéo dài, gây ra mất mát, đau thương cho nhân dân.

“Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ không chỉ thể hiện những giá trị hiện thực rất chân thực mà còn phản ánh giá trị nhân đạo rất sâu sắc nữa.

Một tác phẩm chứa giá trị nhân đạo là khi tác phẩm đó biết lên án, tố cáo những thế lực đã đẩy con người ta vào bước đường cùng, chà đạp lên số phận, lên nhân phẩm của họ. Và thông qua những điều đó, nhà văn muốn gửi gắm tới họ niềm cảm thông sâu sắc trước bi kịch số phận mà họ phải chịu đựng, đồng thời ngợi ca những đức tính tốt đẹp của nhân vật và đưa ra một hướng giải thoát cho họ.

Ở tác phẩm này, Nguyễn Dữ đã thông qua nó mà muốn đề cao cũng như thể hiện niềm trân trọng vô cùng tới vẻ đẹp của người phụ nữ xưa. Thông qua hình tượng nhân vật Vũ Nương, ông muốn ngợi ca những đức tính tốt đẹp của người phụ nữ: Tuy xuất thân bình dân nhưng nết na, thùy mị, đảm đang, thủy chung, tư dung tốt đẹp. Về nhà chồng thì cư xử đúng mực, “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến bất hòa”. Chồng đi lính, nàng ân cần dặn dò, nói với chàng những lời thắm thiết, thấm đượm nghĩa tình, chỉ mong chồng trở về bình yên, chẳng cần “đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm”.

Lúc chồng vắng nhà, lại một tay thu xếp, vun vén việc trong nhà, chăm mẹ chồng, chăm con, lo cho mẹ chồng như cha mẹ đẻ. Mẹ chồng ốm, nàng hết sức thuốc thang. Lo cho bà, rồi “lấy lời ngọt ngào, khôn khéo mà khuyên lơn” bà, mong bà mau hồi lại sức khỏe. Nàng quả là một người con dâu hiếu thảo, hết lòng vì nhà chồng, cho tới tận lúc sắp ra đi, người mẹ chồng vẫn hết mực thương yêu Vũ Nương, cảm ơn nàng: “trời xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con chẳng phụ mẹ”. Mẹ chồng chết, nàng lại “hết lòng thương xót”, lo lắng việc ma chay cho ba “như đối với cha mẹ đẻ của mình”.

Lúc chồng đi lính về, nghi ngờ nàng thất tiết, nàng hết mực phân trần “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết” để giữ lấy hạnh phúc gia đình. Nàng mong chồng hiểu mình để giữ lấy, để hàn gắn hạnh phúc, để giữ gìn cái “thú vui nghi gia”. Đến khi bất lực, không thể cứu vãn, Vũ Nương quyết đem cái chết để minh oan cho sự trong sạch của mình: “Bây giờ bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, …., đâu còn có thể lên núi Vọng Phu kia nữa”. Việc nàng quyết tâm gieo mình xuống sông là một hành động quyết liệt, quyết tâm bảo vệ danh tiết của mình, chứ không chịu để tiếng oan khó rửa. Nguyễn Dữ đã hết mực ngợi ca những phẩm chất của người phụ nữ, để đến giờ này, ông tỏ rõ thái độ bênh vực họ trong từng câu chữ của mình.

Không chỉ vậy, ông còn cất lên tiếng nói để đòi quyền công bằng cho người phụ nữ trong xã hội xưa. Ông tạo ra việc Vũ Nương được cứu sống bởi Linh Phi – vợ vua biển Nam Hải, cho nàng một cuộc sống bất tử. Đây là sự ưu ái của ông, là con đường mà ông tạo ra để giải thoát những người phụ nữ. Vũ Nương được sống ở cung điện dưới nước, được sống xứng đáng với phẩm giá mà nàng đáng được hưởng. Đến khi gặp Phan Lang, nhờ Phan Lang chuyển cho chồng chiếc trâm vàng với lời dặn: “Nếu còn nhớ chút tình xưa nghĩa cũ, xin lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước, tôi sẽ trở về”. Trương Sinh nghe vậy, lập đàn tràng ba ngày ba đêm ở bến sông, Vũ Nương đã trở về giữa kiệu hoa võng lọng, nhưng chỉ đứng từ xa nói lời cáo biệt rồi biến mất. Nàng không muốn trở về, ở đây nàng sẽ sống ở một thế giới tốt hơn, đẹp hơn, nơi xứng đáng với giá trị của nàng mà không phải một xã hội tàn ác kia nữa. Đây cũng là lời đáp ứng nguyện vọng, mơ ước của nhân dân ta về một thế giới bất tử, nơi cái thiện, cái đẹp sẽ chiến thắng, về một xã hội công bằng, nơi giá trị của người phụ nữ được công nhận, được tôn vinh.

Bằng nghệ thuật kể chuyện độc đáo, đan xen những tình tiết kì ảo, Nguyễn Dữ đã tạo nên một tác phẩm thật thành công. Ông đã khắc họa hình ảnh của một người phụ nữ với tất cả những nét tính cách tốt đẹp nhất nhưng lại phải chịu số phận hẩm hiu, bất hạnh. Đó là hình tượng đại diện cho bi kịch của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Cũng qua hình tượng đó, ông muốn ngợi ca họ, ngợi ca phẩm chất, giá trị của họ đồng thời lên án xã hội phong kiến bất công, cũng như cất tiếng nói đòi quyền công bằng cho những người phụ nữ.

Câu chuyện đã được viết lên từ hàng thế kỉ trước nhưng đối với chúng ta, nó vẫn còn nguyên giá trị như ngày nào. Những thông điệp sâu sắc giàu ý nghĩa về hiện thực xã hội, bất hạnh của con người, niềm thương xót, cảm thông của tác giả đối với những nhân vật trong tác phẩm sẽ luôn vang vọng mãi trong lòng mỗi người đọc chúng ta.

————————HẾT————————

Chuyện người con gái Nam Xương là một trong những truyện ngắn đặc sắc nhất trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Tác phẩm không chỉ phản ánh hiện thực xã hội nhiều bất công mà còn đồng cảm, xót thương cho thân phận người phụ nữ qua nhân vật Vũ Nương. Tìm hiểu thêm về cuộc đời và số phận Vũ Nương hay cũng chính là những người phụ nữ trong xã hội xưa, bên cạnh bài Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương trên đây, các em có thể tham khảo thêm: Bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua Chuyện người con gái Nam Xương, Bình luận về cái hay của tình huống truyện Chuyện người con gái Nam Xương, Phân tích bài Chuyện người con gái Nam Xương, Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương qua tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương.

Bản quyền bài viết thuộc trường Trường Trung Cấp Nghề Thương Mại Du Lịch Thanh Hoá. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: Trường Tmdl.edu.vn (tmdl.edu.vn)

Trang chủ: tmdl.edu.vn
Danh mục bài: Giáo dục

Lương Sinh

Lương Sinh là một tác giả đầy nhiệt huyết trong lĩnh vực giáo dục, ngoại ngữ và kiến thức. Với hơn 10 năm kinh nghiệm làm việc trong ngành, cô đã tích lũy được rất nhiều kiến thức và kỹ năng quan trọng. Với tình yêu với ngôn ngữ và mong muốn chia sẻ kiến thức, Lương Sinh đã quyết định sáng lập blog tmdl.edu.vn. Trang web này không chỉ là nơi chia sẻ những kinh nghiệm và kiến thức cá nhân của cô, mà còn là một nguồn thông tin hữu ích cho những người quan tâm đến giáo dục, kiến thức và ngoại ngữ. Đặc biệt là tiếng Anh và tiếng Trung Quốc.
Back to top button