Giáo dục

Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng hay nhất (20 Mẫu)

Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng bao gồm dàn ý chi tiết cùng 18 bài văn mẫu hay nhất được Trường Trung Cấp Nghề Thương Mại Du Lịch Thanh Hoá tuyển chọn sẽ giúp các em củng cố kỹ năng viết bài phân tích của mình.

Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng
Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng

Đề bài: Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh

Bạn đang xem bài: Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng hay nhất (20 Mẫu)

Sóng là một hình tượng không mới nhưng trở nên rất đẹp, một vè đẹp rất riêng trong cảm nhận của hồn thơ Xuân Quỳnh. Bằng hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã nói được những điều giản dị mà lớn lao của tâm hồn người phụ nữ đang yêu. Mời các em theo dõi ngay 18 bài văn mẫu Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng hay nhất ngay sau đây

Dàn ý Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh

1. Mở bài:

– Giới thiệu về tác giả và tác phẩm Sóng

– Hình tượng sóng là hình tượng xuyên suốt bài thơ.

2. Thân bài:

a. Khái quát:

– Sóng là hình tượng trung tâm của tác phẩm, song hành cùng hình tượng em

– Thể hiện quy luật của tình yêu, nỗi khát khao, trăn trở về tình yêu và một niềm ước mong về một tình yêu vĩnh cửu, trường tồn.

b. Sóng – mang bản chất, quy luật của một người phụ nữ đang yêu (2 khổ đầu):

– Khổ 1: được tạo nên bởi những cặp từ đối lập “dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ”: bản chất của người con gái đang yêu, lúc nhẹ nhàng, đằm thắm, khi lại dữ dội, mạnh mẽ.

– Những tính chất này song hành cùng sống trong tâm hồn của người con gái

=> Hình tượng sóng mang nhiều trạng thái, xúc cảm khác nhau, biểu tượng cho tâm hồn và bản chất của người phụ nữ, ẩn chứa khát vọng tình yêu.

– Hai câu sau: “sông”: biểu tượng cho nơi chật hẹp, không thể thấu hiểu những khát vọng mãnh liệt của sóng, nên con sóng đã quyết liệt tìm đến với “bể” lớn.

=> Khát vọng được vươn tới tình yêu to lớn, đích thực của người phụ nữ, để có thể thấu hiểu được tầm vóc, bản chất của mình => bản lĩnh kiêu hãnh của người phụ nữ.

=> Yêu không phải bó hẹp trong một thứ xúc cảm, nó là sự thức tỉnh, là ý thức có được tình yêu, vươn tới những chân trời cao rộng hơn.

– Khổ 2: Tác giả so sánh con sóng của ngày xưa và nay, nhận ra rằng muôn đời sóng vẫn như thế, mãnh liệt, khát khao được vùng vẫy ở nơi rộng lớn “Ôi con …vẫn thế”.

– Cũng như sóng, trái tim yêu cũng luôn bồi hồi, khao khát tình yêu đích thực “Nỗi khát …ngực trẻ” =>đây là quy luật vĩnh hằng.

=> Hình tượng sóng trong hai khổ đầu diễn tả tình cảm tha thiết, rạo rực của một trái tim yêu, giai điệu nhẹ nhàng, êm ái, lúc dồn dập, mạnh mẽ. Âm điệu thơ dạt dào như tiếng sóng vỗ vào bờ. Thể hiện quy luật của tạo hóa và con người.

c. Sóng – sự trăn trở về cội nguồn của tình yêu (2 khố tiếp):

– Đứng trước biển lớn, người con gái băn khoăn tự hỏi chính mình nguồn cội của sóng, cũng băn khoăn khám phá chính mình, về người mình yêu và “biển lớn” tình yêu.

– Đặt câu hỏi, nhà thơ cũng tự trả lời theo lý giải của chính mình “Sóng bắt …nữa”. Sóng ở đây trở thành tình yêu, nỗi khát vọng cháy bỏng của nữ thi sĩ, “Gió” là khởi nguồn của “sóng”, “gió” tượng trưng cho xúc cảm giữa hai con người nhưng “gió” đến từ đâu thì không ai rõ.

=> Nguồn cội của “sóng”, của tình yêu thật khó lý giải “từ nơi…lên”, thật bí ẩn.

d. Nỗi nhớ trong tình yêu của người phụ nữ và tấm lòng thủy chung, tin tưởng:

– Con sóng cứ liên tiếp nối nhau xô vào bờ, tượng trưng cho nỗi nhớ bờ của sóng, từ bất cứ nơi nào cũng trào lên xô vào bờ “Con sóng …cách trở’.

=> Phạm vi không còn ở biển cả mênh mông mà còn mở rộng ra cả không gian và thời gian (dưới lòng sâu – trên mặt biển, ngày – đêm).

– Hình tượng sóng ở đây giống như thực thể sống, nhà thơ đã nhân hóa nó trở lên sống động, con sóng ấy không chỉ nhớ bờ dạt dào mà còn thao thức “không ngủ được”.

=> Nhấn mạnh nỗi nhớ thương da diết, biểu tượng cho tình yêu của người phụ nữ, luôn mãnh liệt, tha thiết, dạt dào như sóng biển.

– Người phụ nữ – nhân vật trữ tình còn bộc lộ trực tiếp nỗi nhớ ấy qua lời thổ lộ “lòng em …thức” => Nỗi nhớ mãnh liệt, ăn sâu vào tiềm thức của người con gái, đến mơ cũng tưởng như đang thức.

=> Ở đây, sóng trở thành phương tiện biểu hiện cho tình yêu mãnh liệt của người phụ nữ đang yêu.

– Cặp từ đối xứng đối lập “xuôi – ngược” , điệp từ “dẫu”, “về” được nhà thơ sử dụng gợi lên hình ảnh của những con sóng và hành trình của nó ngoài đại dương =>con sóng cũng giống như người phụ nữ cứ mải miết trong hành trình tìm kiếm tình yêu đích thực của mình

– Cuối cùng thì dù ở nơi nào, lòng em cũng hướng về “anh” chờ đợi, thùy chung và tin tưởng, bằng tất cả sự chân thành và trái tim nồng nhiệt.

– Con sóng ngoài biển luôn vỗ vào bờ “dẫu muôn …trở” thì tình yêu của “em” cũng sẽ vượt qua tất cả để đến được với “anh ” – tình yêu đích thực của mình

=> Hình tượng con sóng là tình yêu mãnh liệt, tha thiết của người phụ nữ. Hình ảnh những con sóng vượt cách trở vỗ vào bờ như người con gái vượt khó khăn để tìm được tình yêu đích thực.

e. Khát vọng tình yêu vĩnh cửu qua hình tượng sóng:

– Nhân vật trữ tình cảm nhận được sự nhỏ bé, hữu hạn của mình trước thời gian “Cuộc đời ..qua”, đây cũng là sự trăn trở về lòng người trước cuộc đời “như biển …xa”.

– Thế nhưng, sâu trong đó, vẫn là niềm tin mãnh liệt về một tình yêu vững bền cùng thời gian, về sức mạnh của tình yêu sẽ vượt qua biển rộng.

– Ở khổ thơ cuối, sóng là hình tượng của tình yêu mãnh liệt với khát vọng được trường tồn mãi mãi. Khát vọng được tan ra, hòa mình vào biển lớn để trở lên bất diệt và đây có lẽ là khát vọng mạnh mẽ nhất của người phụ nữ.

=> Hình tượng sóng trong bài thơ được gợi ra liên tiếp biểu tượng cho người phụ nữ khi yêu, mãnh liệt và dạt dào, êm dịu, đằm thắm, khát vọng tìm được tình yêu đích thực, bất diệt. Bài thơ là tiếng lòng của người phụ nữ mong muốn vượt qua giới hạn của mình để hướng tới tình yêu đích thực.

f. Nghệ thuật:

– Âm điệu thơ như nhịp điệu của những con sóng đang gợn

– Lời thơ giản dị, trong sáng, giàu sức gợi.

– Các biện pháp nghệ thuật sử dụng hết sức tinh tế

3. Kết bài:

– Khẳng định lại ý nghĩa bài thơ.

Bài văn mẫu Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh hay nhất
Bài văn mẫu Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh hay nhất

18 Bài văn mẫu Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh hay nhất

Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng – Mẫu 1

Sóng vỗ vào bờ rì rào rì rào, ngàn năm nay vẫn luôn như thế, dường như sóng với bờ luôn gắn bó, luôn đi liền với nhau. Mượn hình ảnh những con sóng nối nhau liên tiếp xô vào bờ, nữ thi sĩ Xuân Quỳnh đã dùng nó để nói lên nỗi khát khao tình yêu, những rạo rực, xôn xao, khắc khoải của một tình yêu nồng cháy trong lồng ngực người phụ nữ. Sóng là hơi thở miên man, trôi chảy, tràn ngập khắp những câu chữ trong bài thơ cùng tên của nhà thơ.

Sóng là biểu tượng, là hình ảnh xuyên suốt tác phẩm, song hành cùng với hình tượng em. Từng con sóng nhấp nhô, rì rào như tâm hồn của người phụ nữ đang yêu đang đứng trước biển Diêm Điền ngắm từng đợt sóng tung bọt trắng xóa. Sóng vô hồi, sóng bất tận, khi là “em”, khi lại là cái tôi của tác giả, khi lại đứng riêng một mình mà thể hiện xúc cảm của mình. Chung quy lại, sóng trong bài thơ thể hiện quy luật bất diệt của tình yêu, những nỗi thao thức, mong chờ, những niềm trăn trở và ước mơ về tình yêu vĩnh cửu của một trái tim yêu đang nồng nàn. Sóng chính là bài thơ khơi gợi cho một hồn thơ vừa nhẹ nhàng, êm dịu lại phong phú, sôi nổi của Xuân Quỳnh.

Sóng luôn ngàn đời vỗ triền miên, bất tận vào bờ cát:

“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”

Sóng cứ luôn dạt dào, cứ luôn thao thức cũng như bản chất của một người phụ nữ đang yêu. Tâm trạng bồi hồi, rạo rực, cháy bỏng trong lồng ngực ấy là tâm trạng khi yêu của một người phụ nữ hết lòng vì tình yêu. Tình yêu có lúc êm dịu như tơ nhung, có lúc lại dữ dội, ồn ào như con sóng gào thét, có khi lại tư lự, trầm tư trong suy nghĩ mênh mang. Các cặp từ đối lập “dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ” được Xuân Quỳnh sử dụng liên tục trong hai câu thơ đầu đã làm sáng tỏ cái bản chất của một con sóng hay cũng chính là bản chất của tình yêu của người phụ nữ. Những tính cách ấy đối lập nhau, song song cùng tồn tại, ấy vậy mà lại bổ sung cho nhau, tạo nên một tâm hồn đầy khao khát. Hình tượng con sóng mang đầy những xúc cảm, những trạng thái khác nhau, đối lập nhau, bổ sung cho nhau, biểu trưng cho tâm hồn, cho bản chất chân thành của người phụ nữ, ẩn chứa trong đó là khát vọng tình yêu bồi hồi, cháy bỏng.

Và hành trình của con sóng cứ tiếp nối, tiếp nối từ sông ra tới biển:

“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”

Làm sao ở một nơi chật hẹp có thể thấu hiểu hết cái tôi của mình, có thể tìm được bản thân mình trong đó, vậy nên, con “sóng” quyết tâm chảy ra tận “bể” để mà vùng vẫy. Biển mênh mông, dạt dào, trời cao, biển rộng, sóng mới có thể tìm thấy chính mình với sức sống mạnh mẽ, với những khát khao cháy bỏng, to lớn. Sóng ở đây là biểu tượng cho khát vọng tình yêu đích thực của người phụ nữ. Con sóng biến hóa phức tạp, đa chiều thì tình yêu cũng vậy, cũng phức tạp và khó hiểu như thế. Khát vọng được vùng vẫy ở biển lớn tình yêu chính là bản lĩnh kiêu hãnh của người phụ nữ đang yêu. Bởi yêu không thể chỉ bó hẹp trong một thứ xúc cảm mà nó còn là sự tự ý thức, sự thức tỉnh trong khao khát có được tình yêu, khao khát được vươn mình tới những nơi rộng lớn với những cảm xúc mới mẻ.

Con sóng vẫn luôn rì rào nơi biển cả, vậy “con sóng ngày xưa” và “con sóng ngày sau” có gì khác biệt hay chẳng? Không, chẳng có gì khác biệt khi con sóng vẫn luôn triền miên và bất tận như thế. Một phép so sánh nhỏ của tác giả đã khiến cho ta hiểu rằng muôn đời trước, muôn đời sau, sóng vẫn dạt dào và mãnh liệt như thế. Và tình yêu cũng như con sóng kia, nỗi khát khao có được tình yêu cứ mãi dạt dào trong những trái tim trẻ tuổi. Đây là một quy luật vĩnh hằng:

“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”

Con sóng bước tới với đại dương để hiểu về mình cũng như “em” tới bên “anh” để hiểu rõ tâm hồn và trái tim của em, con người đích thực của em.

Hình tượng sóng trong hai khổ thơ đầu là sự diễn tả tình cảm tha thiết của một trái tim yêu đang rạo rực. Những nhịp điệu nhẹ nhàng, lúc êm dịu, lúc dữ dội như nhịp điệu của những con sóng đang vỗ vào bờ. Sóng, không chỉ thể hiện tình yêu, nó còn thể hiện cho quy luật vĩnh cửu vĩnh hằng của tạo hóa, cũng là của con người, của tình yêu: sóng luôn có mặt ở “bể” và khao khát yêu thương của con người cũng luôn luôn nồng cháy.

Thế nhưng, tình yêu bắt nguồn từ đâu, bắt nguồn từ khi nào, liệu có ai biết rõ? Những con sóng ngoài khơi xa bắt đầu từ đâu, liệu có ai biết chăng? Và thế là, người con gái băn khoăn tự hỏi bản thân mình hay cũng chính là hỏi những con sóng gợn:

“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”

Đó là lời băn khoăn về nguồn cội của sóng, của tình yêu, là những băn khoăn, trăn trở của người con gái muốn được khám phá chính mình, khám phá người mình yêu, khám phá biển lớn. Câu hỏi “khi nào ta yêu nhau”, một câu hỏi mà dường như không thể tìm được một lời lý giải hợp lý, bởi trong tình yêu đâu ai có thể biết trước được điều gì, đâu ai có thể cắt nghĩa được tình yêu:

“Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu”

Ngay cả Xuân Diệu – ông hoàng của thơ tình cũng chẳng thể lý giải nổi tình yêu, chỉ một sớm một chiều là nảy nở rực rỡ.

Một câu hỏi mà như diễn tả được tất cả tâm trạng của những đôi trai gái yêu nhau, họ băn khoăn tự hỏi nhau, tự hỏi lòng mình, thế nhưng chẳng ai có thể biết. Nếu như “Sóng bắt đầu từ gió” thì “gió bắt đầu từ đâu”. “Sóng” là biểu tượng của tình yêu, là nỗi khát khao cháy bỏng của nữ thi sĩ, sóng bắt nguồn từ gió, tình yêu bắt nguồn từ những xúc cảm. Vậy xúc cảm bắt nguồn từ đâu? Chẳng ai có thể hiểu rõ! Chính nữ thi sĩ cũng chẳng thể biết được cảm giác tình yêu của mình bắt đầu từ khi nào! Vậy mới thấy cội nguồn của tình yêu, của “sóng” thật quá khó lý giải “từ nơi nào sóng lên”, thật bí ẩn biết chừng nào!

Tình yêu chân thành với những nỗi nhớ triền miên trong tình yêu cứ day dứt, cứ bồi hồi, chiếm trọn lấy không gian, trải dài cả chiều sâu, chiều rộng, bề nổi, bề chìm của thời gian:

“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”

Con sóng cứ liên tiếp nối nhau mà xô vào bờ, cũng giống như nỗi nhớ của những người đang yêu, ở bất cứ nơi đâu, sóng cũng trào lên mạnh mẽ, xô vào bờ cát. Phạm vi của sóng mở rộng ra cả không gian, thời gian “dưới lòng sâu – trên mặt biển, ngày – đêm”. Hình tượng sóng ở đây không đơn thuần là biểu tượng cho tình yêu nữa mà nó giống như một thực thể sống động. Nữ thi sĩ Xuân Quỳnh đã nhân hóa con sóng trở thành một nhân vật trữ tình với những xúc cảm của một con người thực thụ. Những nỗi nhớ bờ khiến sóng không thể đứng yên mà lúc nào cũng dạt dào vỗ vào bờ cát trắng. Thật tự nhiên, thật thơ mộng, đó là một quy luật không hề biến đổi qua năm tháng. Vì nhớ thương, con sóng cứ ngày đêm thao thức cùng thời gian, cùng đại dương mênh mông. Nỗi nhớ thương da diết trong tình yêu của người phụ nữ đã được Xuân Quỳnh nhấn mạnh trong hai câu thơ này. Tình yêu của người phụ nữ lúc nào cũng mãnh liệt, tha thiết như những con sóng ngoài biển cả.

Không chỉ bộc lộ qua hình ảnh của những con sóng, nhà thơ còn bộc lộ trực tiếp nỗi nhớ thương của mình qua lời thổ lộ:

“Lòng em nhớ tới anh
Cả trong mơ còn thức”

Nỗi nhớ đã ăn sâu, đi sâu vào trong tiềm thức của người phụ nữ, để đến trong mơ, ngẫm lại tình yêu đó cũng chợt mỉm cười hạnh phúc như đang còn thức, như đang mong nhớ người tình của mình.

Ở đây, con sóng trở thành một biểu tượng cho tình yêu của người phụ nữ, cũng dạt dào, mãnh liệt, mênh mông và liên tiếp như những con sóng ngoài đại dương đang nối nhau mà xô vào bờ.

Tiếp đến, nhà thơ dùng loại loạt những cặp từ đối lập nhau như “bắc – nam, xuôi – ngược” cùng các điệp từ “dẫu”, “về”, gợi lên hình ảnh của những con sóng cùng hành trình của nó ngoài đại dương xa xôi. Những con sóng cứ mải miết nối nhau gợi lên giữa mênh mông sóng nước, cũng như tình yêu của người phụ nữ và hành trình của cô đi tìm kiếm tình yêu đích thực của mình. Thế nhưng, dù ở bất cứ đâu, sóng cũng tìm cách để vỗ vào bờ, còn “em” dù ở nơi nào cũng luôn đăm đắm về phía “anh”. Nỗi nhớ tình yêu sẽ lấp đầy những khoảng trống về khoảng cách, khó khăn. Hình tượng con sóng ở đây lại chợt biến chuyển trở thành hình ảnh gợi lên sự chờ đợi thủy chung của người phụ nữ, “em” tin vào tình yêu của mình, tin tưởng bằng tất cả tình yêu chân thành, tha thiết nhất, bằng trái tim nhiệt thành.

Bao nhiêu con sóng ngoài khơi xa, “trăm nghìn con sóng nhỏ”, nhưng bất cứ ngọn sóng nào cũng luôn vỗ vào bờ, dù có vượt qua bao nhiêu gian nan, khó khăn và trắc trở. Tình yêu của “em” cũng vậy, “em” bằng lòng vượt tất cả để tìm đến được với tình yêu đích thực của mình.

“Ở ngoài đại dương kia
Trăm nghìn con sóng nhỏ
Con nào chẳng tới bờ
Dẫu muôn vàn cách trở”

Hình tượng con sóng cũng là hình tượng của một tình yêu mãnh liệt, tha thiết của người phụ nữ. Hành trình tìm vào bờ của những con sóng, cũng là hành trình người phụ nữ đi tìm tình yêu của mình với một trái tim tha thiết nhất.

Yêu là thế, mãnh liệt, dạt dào là thế, nhưng không biết được tình yêu ấy có bền vững chăng? Vậy nên, sau tất cả những khát khao về sự tìm kiếm một tình yêu đích thực, người phụ nữ lại trăn trở về khát vọng có được một tình yêu vĩnh cửu. Nhìn những đám mây bay ngang qua mặt biển, những con sóng đang gợn lăn tăn mà nhân vật trữ tình chợt cảm thấy sự ngắn ngủi, nhỏ bé, sự hữu hạn của cuộc đời mình trước thời gian:

“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”

Cuộc đời là một hành trình dài thế nhưng không phải là mãi mãi, “năm tháng” vẫn vội vã qua đi, nhanh đến nỗi chính như Xuân Diệu cũng đã từng ước để thời gian ngừng lại:

“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”

Từng dòng thơ của Xuân Quỳnh cũng là từng lời trăn trở của nữ thi sĩ về lòng người trước cuộc đời. Biển dẫu rộng mênh mông là thế, mây cũng chẳng dừng chân ở lại vậy thì con người làm sao có thể biết trước được lòng người khác giữa những mênh mông của cuộc đời này?

Thế nhưng, sâu trong tâm hồn người phụ nữ vẫn có một niềm tin mãnh liệt với tình yêu của mình, sức mạnh của tình yêu sẽ giúp đôi lứa vượt qua cả không gian, thời gian để mãi mãi vững bền về sau. Những con sóng ở đây như nói hộ tấm lòng của người con gái:

“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”.

Sóng lại trở lại là hình tượng của một tình yêu mãnh liệt với một khát vọng được trường tồn. Tình yêu được tạo nên từ những nỗi nhớ thương, từ những con “sóng” nhớ bé, thế nên, nhà thơ ước tình yêu ấy “tan ra” hòa chung với biển lớn tình yêu để trở lên bất diệt. Và đây có lẽ là khát vọng tha thiết và mãnh liệt nhất của người phụ nữ.

Hình tượng sóng trong bài thơ được gợi ra liên tiếp, là biểu tượng cho tình yêu của người phụ nữ đang yêu: mạnh mẽ, êm dịu, đằm thắm. Song hành với đó là khát vọng tìm được tình yêu đích thực, bất diệt trường tồn. Bài thơ là tiếng lòng của một người phụ nữ mong muốn vượt qua tất cả những giới hạn của thời gian, con người, không gian để hướng đến tình yêu vĩnh cửu, đích thực.

Ngay cả nhan đề của bài thơ, Xuân Quỳnh cũng đặt là “sóng”, tất cả âm điệu của bài thơ, nhịp điệu thơ đều nhịp nhàng như tiếng những con sóng vỗ vào bờ. Nhịp thơ hồn nhiên, trong sáng, mạch thơ dìu dặt, êm đềm như âm điệu của những con sóng trên đại dương hay cũng là những con sóng ở trong lòng người phụ nữ.

Đặt bài thơ vào những năm 1967 khi mà cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc đang vào những hồi gay cấn nhất, ta mới hiểu được ý nghĩa nỗi khát khao tình yêu của người phụ nữ đến nhường nào.

Khép lại bài thơ, có một dư âm vẫn còn vang vọng mãi trong lòng người đọc chúng ta. Đó là dư âm về một người phụ nữ với một tấm lòng thủy chung, và khát vọng tình yêu mãnh liệt, khao khát có được tình yêu đích thực của đời mình. Với bài thơ này, Xuân Quỳnh xứng đáng trở thành một trong những nữ thi sĩ xuất sắc nhất trong nền thi ca Việt Nam.

Mô tả cuối: Sóng là bài thơ đặc sắc nhất của nhà thơ Xuân Quỳnh, đặt trong hoàn cảnh đất nước đang trong giai đoạn chiến tranh ác liệt, bài thơ không chỉ là tình yêu giữa đôi lứa mà còn là tình yêu của cái tôi với đất nước. Cùng tìm hiểu thêm các bài viết Bình giảng bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh, Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng để hiểu rõ thêm về tác phẩm này của nữ thi sĩ.

Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng – Mẫu 2

Sóng là bài thơ tình đặc sắc của Xuân Quỳnh. Sức sống và vẻ đẹp tâm hồn cùa nhà thơ cũng như những sáng tạo nghệ thuật trong bài thơ đều gắn liền với hình tượng trung tâm – hình tượng “sóng”, cả bài thơ là những con sóng tâm linh của tác giả được khơi dậy khi đứng trước biển cả, đối diện với những con sóng vô hạn vô hồi. Sóng là một hình tượng ẩn dụ, nó là sự hóa thân của cái tôi trữ tình của nhà thơ, lúc thì hòa nhập, lúc là sự phân thân của “em”. Người phụ nữ trong bài thơ soi vào sóng để thấy rõ lòng mình, nhờ sóng để thể hiện tâm trạng của mình. Với hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã tìm được một cách diễn tả và biểu hiện tâm trạng của mình một cách chân thành, trong sáng.

Cả bài thơ, hình tượng “sóng” được gợi ra bằng âm điệu. Bài thơ có một âm điệu nhịp nhàng, lúc dạt dào sôi nổi, lúc thầm thì lắng sâu, gợi lên âm hưởng những đợt sóng liên tiếp. Nhịp sóng đó cũng là nhịp lòng của tác giả, một tâm hồn không thể yên định, đầy biến động, chảy trôi và chất chứa những khát khao rạo rực.

Mỗi đặc tính của sóng đều tương hợp với một khía cạnh trạng thái của tâm hồn. Sóng “dữ dội và dịu êm, ồn ào và lặng lẽ”, những trạng thái tương phản, cũng như tâm tính, tính khí của người con gái đang yêu: họ sống với những trạng thái trái ngược trong lòng, nó chứa đựng những khát khao và sức mạnh tiềm ẩn. Với khát vọng lớn lao như thế, sóng không chịu dừng lại ở sông, vì “không hiểu mình”, sóng phải “tìm ra tận bể”, hành trình ra bể rộng, từ bỏ những giới hạn chật hẹp tìm đến chân trời bao la của tâm hồn. Ra đến bể rộng, con sóng mới thật sự tìm thấy mình, nhận thức được mọi sức mạnh và khát khao của nó.

Sóng là vĩnh hằng với thời gian, cũng như nỗi khát vọng tình yêu của loài người – nỗi khát vọng bồi hồi trong tim tuổi trẻ:

Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ.

Sóng là sự nhận thức về cái (quy luật) không thể cắt nghĩa được của tình yêu.

Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau

Sóng là nỗi nhớ da diết, giày vò. Nó lấp đầy cả không gian, nó chiếm cả tầng sâu và bể rộng, nó trải dài trong mọi thời gian:

Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Như nỗi lòng người con gái:
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức

Nếu như ở trên, sóng thể hiện sự vô biên và những bí ẩn của tình yêu, thì ở đoạn này những khát khao của sóng lại thật rõ ràng và giản dị: sóng khát khao tới bờ như em mong có anh. Tình yêu của người phụ nữ ở đây thật mãnh liệt, nhưng cũng thật trong sáng, dung dị, một tình yêu chung thủy và trọn vẹn.

Cuối cùng, sóng cũng nói giúp cho nhà thơ nỗi khát vọng được sống trọn vẹn, hết mình trong tình yêu, cho tình yêu và được hòa nhập với cái vĩnh hằng bằng chính tình yêu của mình:

Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ

Qua hình tượng “sóng” và cả bài thơ, chúng ta cảm nhận được sức sống và vẻ đẹp của một tâm hồn phụ nữ trong tình yêu. Người phụ nữ ấy mạnh bạo, chủ động bày tỏ những khát khao và rung động rạo rực của lòng mình trong tình yêu. Đó thật là một nét mới mẻ, thậm chí hiện đại trong thơ ca. Tâm hồn ấy giàu khát khao, không chút nào yên định mà luôn sôi nổi, rạo rực “vì tình yêu muôn thuở, có bao giờ đứng yên” (Thuyền và biển). Nhưng đó cũng lại là một tâm hồn trong sáng, tha thiết và đắm say, một tình yêu thủy chung, tuyệt đối dâng hiến trọn vẹn đến quên mình. Nó rất gần gũi với mọi người và có gốc rễ trong những quan niệm bền vững của dân tộc.

Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng – Mẫu 3

Nói về đề tài tình yêu trong thơ ca nói chung và trong thơ Xuân Quỳnh nói riêng, Sóng – một bài thơ tình nổi tiếng của Xuân Quỳnh. Hình tượng sóng thể hiện những trạng thái người phụ nữ trong tình yêu thấm đẫm chất trữ tình trong sáng.

Hình tượng “Sóng” được tái hiện qua nhạc điệu bài thơ. Hình tượng Sóng đi: tả những cảm xúc, những sắc thái tình cảm vừa phong phú đa dạng, vừa thiết tha, sôi nổi của một trái tim đang rạo rực yêu đương.Hình tượng sóng hiện lên qua nhịp điệu nhẹ nhàng, lúc sôi nổi dồn dập, dịu êm, sâu lắng như nhịp sóng ngoài biển khơi, cũng là nhịp của những con sóng tình cảm của một trái tim khao khát yêu đương.

Nhà thơ sử dụng thể thơ 5 chữ với những dòng thơ liền mạch ít ngắt nhịp. Sự trở đi trở lại hồi hoàn của hình tượng sóng, biện pháp điệp từ ngữ, điệp cấu trúc, những từ láy… đã tạo nên nhạc điệu của những con sóng, đợt song liên tiếp gối lên nhau lúc tràn lên sôi nổi, lúc lắng lại dịu êm.

Hình tượng sóng mang ý nghĩa biểu tượng cho tình yêu và tâm trạng nhân vật trữ tình (người phụ nữ) trong bài thơ.

Sóng là biểu tượng cho sự bí ẩn trong tình yêu, biểu tượng cho niềm khát khao một tình yêu lớn, một tình yêu mãnh liệt.

Khổ thơ thứ nhất thể hiện hai trạng thái của sóng cũng là hai trạng thái của tình yêu tưởng như đối lập nhưng rất thống nhất (dữ dội – dịu êm; ồn ào lặng lẽ). Đó là sự bí ẩn của tình yêu. Cũng như sóng, con người tìm đến với tình yêu” để hiểu mình hơn (Sóng không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể).

Khổ thơ thứ hai là sự phát hiện sự tương đồng giữa sóng và quy luật muôn thuở của tình yêu. Sóng “ngày xưa” và sóng “ngày sau” vẫn thế giống như “nỗi khát vọng tình yêu/ bồi hồi trong ngực trẻ”.

Khố thơ thứ ba và thứ tư tác giả dùng để cắt nghĩa về nguồn gốc của sóng và nơi bắt đầu của tình yêu. Cái hay của đoạn thơ là sự đầu hàng của nhận thức, là sự bất lực trong lôgic lí trí (Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau).

Sóng là biểu tượng cho nỗi nhớ trong tình yêu của người phụ nữ.Con sóng thao thức ở mọi chiều không gian, thời gian cũng như: “Lòng em nhớ đến anh / Cả trong mơ còn thức”. Nhà thơ dùng liên tưởng đan cài để đồng nhất “sóng” và “em”.

Sóng là biểu tượng cho sự thủy chung trong tình yêu của người phụ nữ. Nhà thơ sử dụng kết cấu: dẫu… thì… cùng với những đối lập (xuôi – ngược, bắc – nam) để khẳng định: “Nơi nào em cũng nghĩ/ Hướng về anh một phương”. Ngoài việc khẳng định tình yêu chung thủy, Xuân Quỳnh còn muốn đề cập đến Iihừng thử thách trong tình yêu. Tình yêu cho ta sức mạnh vượt qua thử thách và qua thử thách tình yêu càng thêm bền vững.

Sóng là biểu tượng cho những trăn trở, lo âu trong cõi lòng người phụ nữ đang yêu. Đó là nỗi lo âu về cái hữu hạn của đời người, của tình yêu.

…Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa

Sóng là biểu tượng cho khát vọng mãnh liệt muốn bất tử hóa tình yêu. Những thơ sử dụng những đại lượng 1ớn có tính ước lệ (trăm, ngàn) cùng với những hình ảnh thuộc về vô biên (biển, sóng). Khát vọng của tâm hồn người phụ nữ đang yêu thật mãnh liệt. Đó là khát vọng của muôn đời, muôn người, khát vọng mang giá trị nhân văn sâu sắc, cao đẹp.

Sóng là một hình tượng không mới nhưng trở nên rất đẹp, một vè đẹp rất riêng trong cảm nhận của hồn thơ Xuân Quỳnh. Bằng hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã nói được những điều giản dị mà lớn lao của tâm hồn người phụ nữ đang yêu. Khát vọng tình yêu được gửi vào sóng khát vọng thành thực, khẩn thiết, nồng nàn và rất nhân văn.

Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng – Mẫu 4

Nhà thơ Xuân Quỳnh là một nhà thơ nữ để lại nhiều tên tuổi trong nền thơ ca Việt Nam. Những tác phẩm của bà đều gắn liền với những nhân vật trữ tình, gần gũi thân thiết, thể hiện tâm tư tình cảm của đôi lứa, của người phụ nữ đang yêu da diết mãnh liệt.

Bài thơ Sóng là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của Xuân Quỳnh. Tác giả vô cùng tinh tế khi chọn hình tượng sóng làm nhân vật trữ tình của mình, nhằm gửi gắm tâm tư tình cảm vào trong đó.

Sóng là hình tượng không mới, nhưng trong bài thơ sóng của Xuân Quỳnh hình tượng sóng được tác giả vẽ lên vô cùng thi vị, trữ tình và mang vẻ đẹp tâm hồn của người thiếu nữ.

Hình tượng con sóng nhân vật trữ tình của tác giả hiện lên như tâm trạng của người thiếu nữ đang yêu có tâm hồn trắng trong, chung thủy, với trái tim dạt dào cảm xúc. Nó như nỗi lòng, chất chứa nhiều tâm sự của người con gái khi mong đợi, nhớ nhung, da diết với người con trai của cuộc đời mình.

Những tình cảm mãnh liệt, khát khao tình yêu khát khao của tuổi trẻ được tác giả gửi vào hình tượng con sóng vô cùng chân thực, nồng nàn các xúc và chứa đựng tính nhân văn sâu sắc.

Trong những đề tài về tình yêu thì bài thơ Sóng của nhà thơ Xuân Quỳnh là một bài thơ tiêu biểu, để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Nó đã diễn tả được hết những tâm trạng nhớ nhung, hờn giận lo lắng của người phụ nữ khi đang yêu, đắm chìm trong tình yêu mãnh liệt của đời mình.

Hình tượng con sống được nhà thơ thể hiện qua những nhịp điệu, nhanh chậm khác nhau của bài thơ. Nó như tâm trạng nỗi lòng của người con gái, lúc nhớ nhung da diết, những ghen tuông hờn giận, lúc yêu thương mãnh liệt. Từng nhịp thở từng cảm xúc của người con gái đã tạo nên những âm hưởng riêng cho bài thơ, như nhịp sóng kia lúc dữ dội, khi lại vô cùng dịu êm yên bình

Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể

Nhà thơ Xuân Quỳnh vô cùng tinh tế khi sử dụng thể thơ năm tiếng với những nhịp ngắt vô cùng khôn khéo tạo nên một bài thơ vô cùng độc đáo, làm lay động trái tim người đọc bởi những cảm nhận tinh tế của tác giả.

Hình tượng sóng chính là biểu tượng tình yêu và tâm trạng của nhân vật nữ trữ tình, được tác giả Xuân Quỳnh tinh tế gửi gắm trong bài thơ. Hình ảnh con sóng là biểu tượng cho tình yêu, sự bí ẩn trong tình yêu, thể hiện sự khát khao của người con gái khi yêu. Mong ước có một tình yêu lớn, vĩ đại, mãnh liệt được yêu hết mình, cống hiến cho tình yêu.

Trong khổ thơ thứ nhất thể hiện tâm trạng hoàn toàn trái ngược khi thì dịu dàng bình yên, khi thì nổi sóng giận dữ. Thể hiện những tâm trạng bất an của người phụ nữ khi yêu. Lúc thì bình yên, tin tưởng, khi thì hơn ghen, tủi hơn. Nó như nhịp tim yêu thương của người con gái

Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ

Trong khổ thơ này tác giả nói tới sự đồng điệu giữ hình tượng sóng với trái tim của người đang yêu. Nó thể hiện quy luật muôn thủa, gần gũi với con người. Những cảm xúc tình yêu dào dạt, đang cao khiến trái tim người thiếu nữ đang trong độ tuổi xuân xanh phơi phới, lúc nào cũng khát khao hạnh phúc.

Bài thơ Sóng chính là hình tượng cho nỗi nhớ trong tình yêu của người thiếu nữ, con sóng luôn thao thức như trái tim người thiếu như lúc nào cũng thổn thức nhớ nhung tới người tình của mình.

Nó chính là biểu tượng cho những lo âu, trăn trở thể hiện tâm trạng bất an của người thiếu nữ khi yêu. Những nỗi niềm không biết tỏ cùng ai trong tình yêu.

Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa

Hình tượng sóng là biểu tượng cho những khát khao, ước mong mãnh liệt của người thiếu nữ khi hiếu. Nó đã trở thành biểu tượng bất tử của tình yêu đôi lứa. Tác giả Xuân Quỳnh vô cùng tinh tế khi dùng hình tượng sóng làm nhân vật trữ tình của mình. Một người phụ nữ khi yêu mãnh liệt luôn mong muốn được đền đáp lại xứng đáng, những lo âu khắc khoải, những đợi chờ nhớ mong chính là tình yêu của người con gái.

Hình tượng sóng mà tác giả sử dụng không phải là hình tượng quá mới mẻ nhưng nó lại có cái nhìn riêng biệt, thể hiện phong cách của nhà thơ Xuân Quỳnh. Chính vì vậy, bài thơ Sóng của bà được nhiều người yêu thích và có sức sống mãnh liệt vượt thời gian.

Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng – Mẫu 5

Trong thơ Việt Nam hiện đại, Xuân Quỳnh được coi là nhà thơ nữ viết hay nhất về tình yêu. Đặc sắc của thơ tình Xuân Quỳnh là tiếng nói trực tiếp, chân thành và mãnh liệt bày tỏ những khát vọng tình yêu của trái tim phụ nữ. Cùng với bài thơ Thuyền Biển, bài thơ Sóng được coi là “hai bài thơ tình thuộc loại hay nhất của Xuân Quỳnh nói riêng về thơ hiện đại Việt Nam nói chung” (Lưu Khánh Thơ).

Trong bài thơ có một hình tượng nghệ thuật xuyên suốt, tạo nên hình hài của tác phẩm. Hình tượng đó là sóng. Nhưng sóng cũng chính là trái tim Dữ dội và dịu êm của Xuân Quỳnh, vẻ đẹp của bài thơ hiện lên từ những phát hiện mới lạ của tác giả ở hình tượng sóng. Cùng với sóng, hình tượng em tạo thành cặp sóng đôi, gắn bó, quấn quýt suốt bài thơ. Trên cơ sở đó, nhà thơ bộc lộ mọi cung bậc tình cảm của mình về tình yêu.

Đầu tiên là tứ thơ. Điều phổ biến ở nhiều bài thơ trữ tình là thường dựa vào một cái cớ nào đó để mà cấu tứ. Chẳng hạn: tát nước đầu đình / Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen… Rồi: Sáng trong như sáng năm xưa / Gió thổi mùa thu hương cốm mới Ngay ở một bài thơ trữ tình chính trị như Việt Bắc, khi cấu tứ, Tô Hữu cũng tạo ra một cái cớ: Mình về mình có nhớ ta / Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng… Ớ Sóng, cách cấu tứ hơi khác: Dữ dội và dịu êm / Ồn ào và lặng lẽ. Mới nhìn cứ tưởng không khác gì những cách cấu tứ kia. Song, thực ra, ngay từ ban đầu, cái cớ ấy đã là một sự ẩn dụ. Bài thơ mượn hình tượng sóng để tạo tứ, mượn sóng để nói về trái tim con người. Các lớp sóng gối lên nhau, trùng trùng, điệp điệp là những lớp sóng trong trái tim người phụ nữ đang yêu. Và, hẳn nhiên, cuộc kiếm tìm, khám phá về sóng cũng chính là tự khám phá trái tim mình. Ta hãy xem người phụ nữ ấy tự khám phá như thế nào?

Sóng hiện lên trước hết là đối tượng cần nhận thức:

Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sóng không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ.

Hóa ra, tính cách sóng thật phức tạp: Dữ dội và dịu êm, Ôn ào và lặng lẽ. Cả hai nét tính cách ấy cùng tồn tại ở sóng, có khi mạnh mẽ đến cuồng nhiệt, nhưng lắm lúc sâu lắng, dịu dàng. Bản tính sóng lại thất thường. Đến đây thì không ai nghĩ là nhà thơ nói về sóng nữa mà đó là những cung bậc trong trái tim người con gái đang yêu. Tình yêu luôn có nhu cầu được chia sẻ, giãi bày. Xuân Quỳnh mượn sóng – một hình ảnh rất đẹp, tương xứng với tình yêu để thổ lộ nỗi niềm. Tình cảm ấy chân thực và mãnh liệt. Nhưng dẫu quen thuộc, sóng vẫn hết sức lạ lùng, chưa dễ gì lí giải. Trước trạng thái mâu thuẫn ấy, sóng tự nhận thức:

Sóng không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể.

Nỗi trăn trở, khao khát tự khám phá trái tim người phụ nữ đã thổi hồn người vào sóng. Đến lúc tâm trạng dâng trào như những lớp sóng ùa vỡ, trái tim ấy không còn kiềm giữ được nữa. Vì thế, sang khổ thứ hai, tứ thơ chuyển từ sóng sang người, có phần đột ngột nhưng cũng hợp lí, dễ hiểu: Ôi con sóng ngày xưa / Và ngày sau vẫn thế / Nỗi khát vọng tình yêu / Bồi hồi trong ngực trẻ. Nhà thơ giãi bày nỗi trăn trở nhưng là giãi bày để mà khẳng định: Tình yêu, từ ngày xưa đến ngày sau, muôn đời vẫn thế!

Mượn sóng để nói về tình yêu, không phải chỉ riêng Xuân Quỳnh. Ca dao, dân ca và nhiều nhà thơ hiện đại đã từng có những liên tưởng thú vị. Có điều, “nét riêng Xuân Quỳnh là tạo ra con sóng mãnh liệt mà đầy nữ tính, giàu trạng thái: có cái bồi hồi rất trẻ trung, có cái dữ dội tương xứng với tình yêu, nhưng còn có cái dịu dàng sâu lắng rất con gái. Xuân Quỳnh xoay trở ngọn sóng yêu đầy âu lo để cảm nhận nó trên nhiều chiều đối lập. Đó là cách cảm nhận nồng nàn mà có chiều sâu, trên cả hai bề mặt cảm xúc và nhận thức” (Nguyễn Quang Trung).

Tiếp tục khai thác hình tượng sóng từ cách câu tứ của riêng mình, những khổ thơ tiếp theo (khổ 3 đến khổ 7), Xuân Quỳnh đẩy phát triển của bài thơ thêm một bậc nữa: từ sóng gợi lên bao nhiêu điều suy tư về cuộc đời, về con người. Nếu ở trên mới chỉ không hiểu mình thì đến đây là hàng loạt câu hỏi khác: Sóng bắt đầu từ gió / Gió bắt đầu từ đâu / Em cũng không biết nữa / Khi nào ta yêu nhau. Đành rằng làm sao cắt nghĩa được tình yêu (Xuân Diệu) nhưng người đời vẫn khát khao tìm kiếm, cắt nghĩa. Bài thơ của Xuân Quỳnh không đơn thuần là giãi bày nỗi lòng khi yêu. Nhu cầu tự nhận thức, nhận thức đến tận cùng khiến bài thơ có chất sâu lắng. Và, quả đúng vậy, tình yêu đâu chỉ là tình yêu, đó là thứ tình cảm mà mỗi khi giãi bày nó đồng thời bộc lộ bản chất con người. Bởi vậy, từ xưa đến nay, đây là thứ tình cảm phức tạp nhất, kì diệu nhất của con người và không ai có thể nói là mình đã hiểu hết.

Hỏi để cuối cùng một câu nói buột ra: Em cũng không biết nữa. Có người nói cái hay của bài thơ chính là hỏi nhưng không trả lời được, vì bản chất tình yêu là không thể cắt nghĩa. Thực ra, Em cũng không biết nữa là một sự khẳng định, một khẳng định theo kiểu của phụ nữ: không biết mà vẫn biết đấy. Vả lại, tình yêu đã vốn có từ rất lâu rồi. Chúng ta từng chấp nhận những câu thơ lãng mạn, đại loại: Tôi yêu em từ khi chưa có tuổi… thì làm sao không thể không chấp nhận, không thể hiểu được cách nói của một nhà thơ nữ?

Tâm trạng người phụ nữ đang yêu tiếp tục bộc lộ với cung bậc mới:

Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương.

Tình yêu luôn gắn liền với nỗi nhớ. Những câu thơ ở đây có một cặp hình tượng sóng đôi: sóng vỗ vào bờ cả ngày đêm, em nhớ anh cả lúc thức lẫn ngủ. Cặp hình tượng này song hành những cộng hưởng đều nhằm diễn tả nỗi nhớ sâu sắc hơn. Tình yêu đích thực dường như không có giới hạn về cả không gian lẫn thời gian. Nỗi nhớ bao trùm lên tất cả. Chỉ có trái tim yêu hết mình mới có được cung bậc như thế. So với nhiều cách thể hiện tình cảm của người phụ nữ đang yêu trước đó trong thơ Việt Nam, đây là lối bộc lộ có phần táo bạo. Khi đối diện với chính mình, không chút ngại ngần, trái tim yêu ấy đã tự hát và đã hát một cách thành thật. Song, dù mạnh mẽ và táo bạo đến đâu, đấy vẫn là lời tự hát của một trái tim phụ nữ Việt Nam: khát vọng gắn bó thủy chung.

Những khổ thơ cuối của bài, Xuân Quỳnh dồn hết vào việc thể hiện khát vọng đó. Và, ở đây, cũng vẫn là sóng mới đủ sức thể hiện khát vọng lớn lao trong tim người phụ nữ:

Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.

Một lần nữa, Xuân Quỳnh thể hiện được sự thức tỉnh ở tâm hồn người phụ nữ khi yêu. Con sóng nào chẳng mong đến bờ? Trái tim yêu nào không thiết tha một sự gắn bó? Cuộc đời thật khó nói trước. Xuân Quỳnh và có lẽ rất nhiều người phụ nữ Việt Nam khác, khi yêu mãnh liệt vẫn có lúc thấp thỏm, âu lo. Song, dù dự cảm có muôn vời cách trở, trái tim yêu cũng không hề đắn đo. Nói đây là niềm tin bồng bột, dễ dãi chắc là không đúng. Tình yêu chân chính, nhất là với phụ nữ Việt Nam, luôn đồng nghĩa với sự hiến dâng.

Sóng là bài thơ tình tiêu biểu của Xuân Quỳnh. Đó là tiếng lòng vừa dữ dội vừa dịu êm, vừa thao thức không yên, vừa bồi hồi khát vọng. Nhà thơ đã khéo chọn sóng, một hình tượng giàu sức biểu cảm, để thể hiện tình yêu như là một giá trị văn hóa lớn của con người. Qua Sóng, người đọc càng thêm yêu quý trái tim nồng nàn, đôn hậu của người phụ nữ Việt Nam.

Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng
Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng

Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng – Mẫu 6

Trước Xuân Quỳnh đã có không ít thi sĩ viết về tình yêu – đề tài muôn thuở và không bao giờ vơi cạn của thi ca – thế nhưng, cũng với đề tài này, nữ sĩ Xuân Quỳnh đã thực sự để lại dấu ấn trên thi đàn Việt Nam. Từ những năm khói lửa chiến tranh, những vần thơ của Xuân Quỳnh đã làm bổi hồi bao trái tim người đọc. Thi sĩ đã đem đến cảm nhận về một tình yêu thuần khiết, dung dị và hết sức dạt dào, tha thiết. Sóng có thế coi là một trong số những bài thơ về tình yêu hay nhất của nữ sĩ. Có người đã từng nói Sóng của Xuân Quỳnh là một bài ca về một tình yêu giản dị mà đẹp đến mê lòng. Tình yêu luôn có nhu cầu được chia sẻ và giãi bày. Xuân Quỳnh đã mượn “sóng” – một hình ảnh đặc biệt – để bộc lộ tình yêu của mình. Ngay từ khổ thơ đầu tiên, nhà thơ đã có những phát hiện mới mẻ về “tính cách” của “sóng”:

Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ

Thi sĩ đã khám phá ra những trạng thái đôi lập trong con sóng: dữ dợi, ổn ào, mạnh mẽ đến cuồng nhiệt và “dịu êm”, “lặng lẽ”, sâu lắng đến dịu dàng. Bản tính của sóng thật thất thường như tâm hồn người con gái đang yêu. Đây là hai câu thơ tự bạch, tự thú táo bạo mà dịu dàng. Táo bạo vì nó quá mãnh liệt và chân thực. Dịu dàng vì sau những dữ dội, ồn ào, tình yêu vẫn đổ về phía cuối câu thơ để lắng vào dịu êm lặng lẽ – đó là cái dịu dàng con gái làm nên chất nữ tính của hình tượng sóng. Xuân Quỳnh đã tinh tế biết bao khi nhận ra hai trạng thái tưởng chừng như đối lập của con sóng để khám phá về tình yêu. Tinh yêu đâu phải dễ lí giải, nó cũng “nắng mưa thất thường”, cũng đầy mâu thuẫn. Trước trạng thái ấy, Xuân Quỳnh đã thổi vào con sóng một niềm khao khát:

Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể

Ngay từ đầu, con sóng tâm trạng đã ùn vào, vỗ sóng trong tâm hồn người đọc. Ta bỗng nhận ra trong bản thân mình sự đồng cảm với thi sĩ và với chính con sóng kia. Con người đâu phải lúc nào cũng hiếu rõ về mình. Chính vì thế trong khổ tiếp theo, tứ thơ chuyên từ hình tượng sóng sang những suy nghĩ về tình cảm con người, vừa đột ngột vừa tự nhiên:

Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ

Từ ngày xưa đến ngày sau, liên tưởng thơ đã vươn tới cái muôn đời. Ta cảm nhận sâu sắc về một tình yêu thủy chung, cháy bỏng lúc nào cũng phập phồng “trong ngực trẻ”. Từ sóng cho tới tình yêu vốn là tứ thơ quen thuộc xưa nay. Người xưa từng mượn sóng mà hạ lời thề:

Bao giờ cho sóng bỏ ghềnh,
Cù lao bỏ biển anh mới đành bỏ em.

(Ca dao)

Con sóng si tình của Xuân Diệu từng khát khao:

Cho anh làm sóng biếc
Hôn mãi cát vàng em
Hôn thật khẽ, thật êm
Hôn ôm đềm mãi mãi

(Biển)

Nét riêng của Xuân Quỳnh là tạo cho con sóng sự nữ tính đấy sức sống qua các trạng thái khác nhau: Có cái bồi hồi rất trẻ trung; có cái dữ dội, mãnh liệt nhưng còn có cá cái dịu đàng sâu lắng. Xuân Quỳnh xoay trở con sóng yêu đầy lo âu để cảm nhận nó trên nhiều chiều đối lập. Đó là cách cảm nhận nồng nàn mà có chiều sâu trên cả hai mặt cảm xúc và nhận thức.

Những khổ thơ tiếp theo, sóng từ đối tượng cảm nhận được chuyển thành đối tượng để suy tư. “Trước muốn trùng sóng bể, dòng suy tư cuộn lên như sóng không cùng, những câu hỏi hóa thành cuộc đối thoại lớn với vũ trụ về tình yêu:

Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau

Vói những câu hỏi, Xuân Quỳnh đang muốn truy tìm nguyên nhân, truy tìm ngọn nguồn của tình yêu. Song dường như những câu hỏi ấy chẳng bao giò có thể tìm được một câu trả lời thích đáng. Thiên nhiên bí ấn còn có thể cắt nghĩa nhưng “làm sao cắt nghĩa được tình yêu?” (Xuân Diệu), Xuân Quỳnh đã diễn đạt sâu sắc cái mà người ta gọi là “Trái tim có những quỵ luật riêng mà lí trí không thể hiểu được”. Tình yêu cần có lí trí nhưng trước hết đó là câu chuyện của trái tim, cho nên không thể dùng lí trí tính táo để xác định sự bắt đầu của tình yêu. Chính sự tưởng chừng như bất lực trong những câu trả lời đã đưa tình yêu trở về với bản chất của nó. Đặc biệt, câu thơ: “Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau” có một giọng điệu hết sức đáng yêu. Nếu đảo lại trật tự; “Khi nào ta yêu nhau – Em cũng không biết nữa”, ý thơ sẽ lăn về phía lí trí tỉnh táo. Bằng sự khéo léo tài tình của Xuân Quỳnh trong cách sử dụng ngôn ngữ, ta thấy những vần thơ dường như diễn tả rất chính xác nỗi choáng váng của cô gái khi vừa chạm vào cái vùng chói sáng của trái tim con người – tình yêu. Hai câu thơ không chỉ nói về tình yêu mà ta có cảm giác những câu chữ cũng đang rung động theo trái tím thiếu nữ, nó giống như cái lắc đầu đầy yêu thương và bối rối của một cô gái đáng yêu. Nỗi thổn thức ấy tiếp tục lăn mình cùng sóng nước, vươn dài theo thời gian, mênh mang cùng những câu thơ của Xuân Quỳnh:

Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức

Tình yêu von gắn liền với nỗi nhớ. Đến đây mỗi câu thơ dường như đểu chan chứa một nỗi nhớ – nỗi nhớ da diết, khắc khoải. Đoạn thơ có hai cặp hình ảnh so sánh song song, khá đắc địa: sóng vỗ bờ cả ngày lần đêm, em nhớ anh ” cả trong mơ còn thức”. Hai cặp hình ảnh song hành, cộng hưởng nhằm diễn tả tình yêu sâu sắc hơn. “Cả trong mơ còn thức” – câu thơ là một phát hiện đầy tinh tế về quy luật của tình yêu: sinh hoạt thường ngày của con người còn có giới hạn bởi thức và ngủ nhưng tình yêu phá vỡ mọi giới hạn, thông trị cả tiềm thức, giấc mơ, thao thức đến khôn cùng. Chỉ có những trái tim yêu hết mình mới thống trị cả thời gian, cả ý thức lẫn tiềm thức như vậy. Tình yêu quả là một sự “bất thường” giữa đời thường. Xuân Quỳnh đã thực sự thông suốt mọi ngỏ ngách của tình yêu vì bà chính là một con người có trái tim yêu không bao giờ mệt mỏi, luôn khát yêu, khát sống bằng cả trái tim. Tình yêu có mặt trong thơ, lên ngôi và tỏa sáng trong phần lớn các tác phẩm của bà. Ta đã bắt gặp không ít những tình yêu vượt qua mọi giới hạn của không gian, của thời gian để hướng tới cái vĩnh cửu trong thơ Xuân Quỳnh:

Những ngày không gặp nhau
Biển bạc đầu thương nhớ
Những ngày không gặp nhau
Lòng thuyền đau rạn vỡ
Nếu từ giã thuyền rồi
Biển chỉ còn sóng gió
Nếu phải cách xa anh
Em chi còn bão tố

(Thuyền và biển)

Thời gian chật chội bởi giới hạn, suy tư lại mở ra không gian:

Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương

Hai chữ xuôi, ngược thấp thỏm một linh cảm lo âu trước cuộc đòi bất trắc. Vì thế câu thơ “Hướng về anh- một phương” nôm na mà chắc nịch như một sự khẳng định tuyệt vời cho một tình yêu mãnh liệt. Người ta thường nói ngược vẽ phương bắc và xuôi về phương Nam nhưng có lẽ trong tình yêu luôn có những thứ trái ngang, những điều đi ngược lại cái bình thường nhưng suy cho cùng, điều quan trọng nhất của tinh yêu phải chăng chính là sự nhung nhớ, sự gặp gỡ của những trái tim yêu? Và đối với người con gái đang yêu, trái tim họ luôn chỉ hướng về một phương “anh” duy nhất. Những suy tư lấy hình ảnh “sóng” làm trung tâm là sự kết hợp tuyệt vời giữa cảm xúc vàlí trí, tạo cảm giác vừa bổi hồi vừa lắng sâu.

Cao trào của bài thơ dồn thành khát vọng trào dâng trong ba khổ thơ cuối – khát vọng tìm đến tựa từ một niềm tin:

Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa

Cái hay của lỗi diễn đạt của Xuân Quỳnh không chỉ ở chỗ mượn quy luật của sóng biển, mây trời để nói về quy luật của tình yêu. Độ sâu của nó bắt nguồn từ nhận thức rất đời thường : cuộc sống là dài, là rộng, là muôn vời cách trở, cuộc sống tràn đầy những điều bất ngờ vì thế mà cũng đầy bất trắc. Lời thơ như nỗi lo đau đáu luôn âm thầm giày vò, như những đợt sóng ngầm trong trái tím khát yêu của nữ sĩ Xuân Quỳnh. Song dù thế nào đi chăng nữa, tình yêu vẫn sẽ vượt qua mọi trở ngại để vươn tới đích như những con sóng “Con nào chẳng tới bờ

Dù muôn vời cách trở “.Với niềm tin ấy, khát vọng cúa Xuân Quỳnh vừa mạnh mẻ vừa ấm áp:

Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ

Mong ước hóa thân vào sóng thật lớn lao. Khát vọng được “tan ra” để bất tử cùng tình yêu (“ngàn năm còn vỗ”) thật cháy bỏng. Tứ tha có sự phát triển giống như sự nhận thức và lí giải về sự tồn tại mãnh liệt của tình yêu. Có lẽ chưa bao giờ ta thấy trên thi đàn Việt Nam có một nữ thi sĩ bộc lộ tình yêu một cách mãnh liệt mà cũng thật dung dị đến vậy.

Lưu Khánh Thơ nhận xét về thơ Xuân Quỳnh như sau: “Ở Xuân Quỳnh, tình yêu không bao giờ chỉ đơn thuần là tình yêu, nó còn tượng trưng cho cái đẹp, cái tôl, cái cao quý của con người, tượng trưng cho niềm khát khao được hoàn thiện mình”. Với sự hóa thân vào sóng, Xuân Quỳnh đã truyền sức sống dào dạt vào tác phẩm như sự khao khát tình yêu luôn cháy bỏng trong trái tim nữ sĩ, làm cho những Sóng hay Thuyền và biển sống mãi với thời gian nhu truyền thuyết về tình yêu mãi mãi làm say đắm bao trái tim người đọc.

Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng – Mẫu 7

Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ nữ xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại, thơ bà luôn giàu những xúc cảm suy tư, lúc hạnh phúc lúc khổ đau, đặc biệt là khi viết về đề tài tình yêu trên cương vị một người phụ nữ từng đổ vỡ hôn nhân, lại tìm được hạnh phúc mới, với sự đằm thắm mặn mà của thiên chức làm mẹ, làm vợ. Xuân Quỳnh trở nên nổi tiếng với nhiều bài thơ như Thuyền và biển, Hoa cỏ may, Tự hát, Nói cùng anh,… với một giọng thơ ấm áp, dịu dàng và tươi trẻ. Trong số đó tác phẩm Sóng cũng là một bài thơ xuất sắc viết về đề tài tình yêu với hình tượng sóng tượng trưng cho hình tượng người phụ nữ trẻ trong công cuộc tìm kiếm tình yêu, tìm kiếm hạnh phúc đầy sôi nổi nhiệt huyết nhưng cũng không kém phần e ấp, tinh tế.

“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”

Sóng luôn ấp ủ trong mình hai cá tính đối lập, một bên là sự ồn ào, dữ dội đầy nhiệt huyết, sôi nổi, một bên lại mang những mặt êm đềm, lặng lẽ và dịu dàng, thế nhưng có một điều rằng sóng luôn ôm trong mình những khát khao được thấu hiểu, được sẻ. Sóng sẵn sàng từ bỏ một dòng sông quá đỗi yên bình, bó hẹp để vươn ra biển lớn, để tìm thấy những cảm xúc mới, để được thỏa sức vẫy vùng, tựa như những khát khao lớn trong tình yêu của người phụ nữ. Sóng là đại diện cho hình ảnh người con gái trẻ hiện đại khi đối mặt với tình yêu, vẫn giữ cho mình những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, bên cạnh đó Xuân Quỳnh cũng mạnh mẽ thể hiện cái tôi cá nhân, người phụ nữ trở nên mạnh mẽ và chủ động hơn trong tình yêu để tìm được hạnh phúc đích thực của cuộc đời. Hơn thế nữa người ta còn nhận ra những con sóng sôi nổi chính là đại diện của một tình yêu mãnh liệt, nồng nàn, là tình yêu trong sáng của những con người son trẻ, khi bên nhau họ khát khao được bộc lộ bản thân một cách ồn ào và dữ dội, nhưng cũng có những phút giây họ lắng lại, để nghe tiếng trái tim hòa nhịp đập để thấu hiểu nhau hơn nữa.

“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”

Bằng hình tượng sóng, những nét đẹp trong tâm hồn người phụ nữ được bộc lộ một cách tinh tế và hồn nhiên “Ôi con sóng ngày xưa/Và ngày sau vẫn thế”, đó là sự thủy chung sắt son một lòng đối với tình nhân, tình yêu ngày nào đắm say, thì đến nay những khát vọng nồng nàn về tình yêu vẫn hằng thổn thức trong trái tim của người con gái chưa một lần thay đổi và chỉ có thêm đậm đà, sâu sắc. Không chỉ tượng trưng cho hình ảnh người con gái, sóng còn là dáng vẻ của tình yêu trong đôi mắt của Xuân Quỳnh, một tình yêu nồng nàn, sắt son và mãnh liệt, những khát vọng tình yêu ấy vốn đã là quy luật của tạo hóa, luôn làm trái tim con người ta phải bồi hồi thổn thức trong từng nhịp đập.

“Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”

Từng ngọn sóng giữa biển cả mênh mông, cũng tựa như tình yêu của tác giả vậy, không thể lý giải được “Từ nơi nào sóng lên?”, từ gió, hay từ một nơi nào ấy chẳng thể nói thành lời. Tình yêu cũng vậy nào ai có thể lý giải nổi tình yêu, một khái niệm vốn phức tạp và nhiều những cung bậc cảm xúc khác nhau, khiến người ta hạnh phúc, nhưng cũng có lúc đầy tổn thương và đớn đau. Người con gái dường như bất lực trước nhận thức của lý trí về tình yêu, điều ấy đã thôi thúc con sóng, thôi thúc tác giả hòa mình vào biển lớn tình yêu, yêu bằng tất cả trái tim chân thành và tuyệt vời nhất, bởi tình yêu là cảm xúc của con tim, mọi sự lý giải đều trở nên vô nghĩa trước sức mạnh của nó.

“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức

Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương

Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”

Ở những khổ thơ tiếp, một lần nữa đức tính chung thủy của người phụ nữ lại được thể hiện thông qua hình tượng sóng, đó là nỗi nhớ da diết của người con gái đối với người yêu, tình yêu sâu sắc ấy khiến tác giả trăn trở ngày nhớ đêm mong đến “Cả trong mơ còn thức”. Đó là sự thủy chung, sắt son một lòng mà dù có xuôi Bắc, ngược Nam thì tấm lòng của em vẫn chỉ “Hướng về anh một phương”, đầy trông mong và hy vọng. Ngoài ra hình tượng con sóng xa bờ còn gắn liền với những thử thách, những cách trở khó khăn trong tình yêu, là những nỗ lực, cố gắng một lòng vì tình yêu, vì một kết quả tốt đẹp, cũng như hình ảnh con sóng dù cách bờ bao xa vẫn tìm về vỗ vào bờ cát những tiếng vang dội, tựa như tiếng cười hạnh phúc trong tình yêu lứa đôi.

“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”

Nhưng dẫu sống lạc quan, đắm say và khao khát về tình yêu như thế thì Xuân Quỳnh vẫn có những ám ảnh nhất định về sự chảy trôi của thời gian, đó là nỗi sợ về tuổi xuân sớm đi qua, nỗi sợ thời gian thấm thoát thoi đưa nhưng tình mình vẫn không toại nguyện. Chính vì lẽ ấy, tác giả lại càng khao khát được sống hết mình, đắm chìm vào hạnh phúc của tình yêu, đó là ước muốn được tan ra, được đắm chìm vào một tình yêu trọn vẹn, sâu sắc và vĩnh cửu muôn đời. Đó là khát vọng muôn đời của người phụ nữ trong tình yêu, trong hạnh phúc lứa đôi, trong sáng, cao đẹp và mang đầy tính nhân văn sâu sắc.

Sóng và hình tượng sóng là một sáng tạo độc đáo của Xuân Quỳnh trong sáng tác. Bằng hình tượng sóng bà đã thể hiện một cách xuất sắc những tâm tư đầy trong sáng và hồn nhiên của người phụ nữ khi yêu, có những cảm xúc mãnh liệt, nồng nàn nhưng cũng có lúc lặng lẽ và dịu dàng. Từ đó vẻ đẹp của người phụ nữ được bộc lộ một cách tinh tế, khao khát muốn yêu và được yêu vừa mạnh mẽ vừa, e ấp, đức tính thủy chung son sắt truyền thống và khát vọng lớn lao về một tình yêu vĩnh cửu, muôn đời.

Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng – Mẫu 8

Tình yêu là đề tài bất tận trong thơ văn, là cảm hứng không bao giờ vơi cho mỗi tác giả. Nói đến thơ tình, chúng ta không thể không nhắc đến Xuân Quỳnh với những vẫn thơ giản dị mà đầy tâm tư. “Sóng” được xem là tác phẩm nổi bật, thể hiện bản ngã và quan niệm về tình yêu, cuộc đời của tác giả. Thông qua việc phân tích hình tượng sóng trong bài thơ, ta sẽ hiểu rõ hơn điều này.

Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ nữ hiếm hoi có chỗ đứng quan trọng trong thi ca Việt Nam. Thơ của bà có bản sắc riêng, đậm chất nữ tính nhưng vẫn mạnh mẽ và quyết liệt. Xuân Quỳnh sáng tác đa dạng đề tài, nhưng mảng thơ tình vẫn là đề tài tâm đắc và đặc sắc nhất của tác giả. Trong đó có bài thơ “Sóng”.

“Sóng” được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”, xuất bản năm 1968 của tác giả. Bài thơ như lời tự tình của người con gái khi yêu với tâm trạng mãnh liệt, nhiều suy tư. Đó là khát vọng đắm say của người con gái với mối tình đầu của mình. Ở đó, hình tượng sóng hiện lên như những trạng thái của người con gái trong tình yêu với sự trong sáng, lãng mạn và đậm chất trữ tình

Đầu tiên, Phân tích hình tượng sóng – hình tượng sóng hiện lên như bản chất và quy luật của người phụ nữ khi yêu. Ngay từ khổ thơ đầu tiên, tác giả đã thể hiện rất rõ quan niệm của mình:

“Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ

Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể”

Với biện pháp ẩn dụ, sử dụng từ trái nghĩa, khổ thơ tưởng như chỉ miêu tả hoạt động của con sóng nhưng thực chất lại khắc họa người phụ nữ đang yêu. Họ vừa “dữ dội”, “ồn ào” lại vừa “dịu êm”, lặng lẽ. Sóng vỗ liên hồi, triền miên, vô tận, cũng như tình yêu của em mênh mông, nồng nhiệt. Mãnh liệt đấy, nồng cháy đấy, nhưng người con gái khi yêu cũng rất sâu lắng với những nỗi niềm riêng. Và khi cảm thấy “sông không hiểu nổi mình”, không thể sống trong nơi tù túng với người không hiểu mình, người con gái quyết định “tìm ra tận bể”. Đó là hành động quyết liệt khi từ bỏ nơi chật hẹp và tìm đến tình yêu rộng lớn hơn, có thể bao dung và thấu hiểu cho tâm tư của chính mình.

Trước những biến đổi về không gian, thời gian, sóng hiện lên vẫn giữ nguyên là mình như thuở ban đầu:

“Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ”

Trước thời gian “ngày xưa – ngày sau”, con sóng “vẫn thế”, vẫn luôn dạt dào giữa đại dương mênh mông. Đó cũng chính là sự sôi nổi của người con gái đối với tình yêu. Trái tim nằm trong “ngực trẻ” luôn khao khát yêu thương, mãnh liệt và cháy bỏng hết mình.

Phân tích hình tượng sóng – Không chỉ biểu tượng cho người con gái khi yêu, hình tượng sóng còn hiện lên là những trăn trở của nhân vật về cội nguồn của tình yêu:

“Trước muôn trùng sóng bể

Em nghĩ về anh, em

Em nghĩ về biển lớn

Từ nơi nào sóng lên?”

Đến đây, Xuân Quỳnh như muốn cắt nghĩa về tình yêu nhưng không thể được. Tác giả đi tìm “nơi nào sóng lên”, là muốn khám phá tình yêu từ đâu mà có, vì lí do gì mà tồn tại. Đó cũng chính là sự trăn trở về chính bản thân mình lẫn người mình yêu. “Nghĩ về anh em”, rằng tại sao lại gắn kết và yêu thương nhau”. Và người thi sĩ mải miết đi tìm câu trả lời:

“Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu

Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau”

Con sóng dạt dào được là nhờ có gió thổi. Thế còn gió từ đâu mà đến? Nguồn gốc của gió, cũng như nguồn gốc tình yêu, đều bí ẩn và khó có thể lí giải nổi. Để rồi trăn trở mãi không tìm ra câu trả lời, Xuân Quỳnh hồn nhiên thú nhận “em cũng không biết nữa”. Tình yêu của chúng ta, khó có thể cắt nghĩa và truy hỏi cho đến tận cùng. Bởi lẽ vì sao yêu nhau, vì lí do gì mà gắn bó, không ai có thể thấu hiểu và cắt nghĩa được.

Không những thế, sóng còn là biểu tượng cho nỗi nhớ và lòng thuỷ chung son sắt của người con gái trong tình yêu. Nỗi nhớ của tác giả bao trùm lên cả thời gian lẫn không gian:

“Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức”

Dù là “dưới lòng sâu” hay “trên mặt nước” là “ngày” hay “đêm” thì sóng vẫn nhớ “bờ” tha thiết. Biện pháp nhân hóa con sóng “ngày đêm không ngủ được” càng thêm nhấn mạnh nỗi nhớ ấy. Bất kể khi nào, ở đâu, em cũng nhớ đến anh, cháy bỏng và cồn cào không yên. Không chỉ thế, người con gái giờ đây đã mạnh dạn bày tỏ nỗi nhớ tha thiết của mình “cả trong mơ còn thức”. Nỗi nhớ ấy đã ăn sâu vào trong tiềm thức, luôn thường trực, không lúc nào yên.

Và nỗi nhớ ấy còn thêm khẳng định tấm lòng thuỷ chung, son sắt của người con gái với tình yêu của mình:

“Dẫu xuôi về phương bắc

Dẫu ngược về phương nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh – một phương”

Với điệp ngữ “dẫu”, “vẫn”, “về” cùng nghệ thuật tương phản, tác giả đã gợi lên hành trình của con sóng ngoài biển lớn. Đây cũng là hình ảnh ẩn dụ cho hình ảnh người phụ nữ và tình yêu của mình giữa cuộc đời dài rộng. Dù có nhiều sóng gió đi qua, tác giả vẫn một lòng, son sắt với người mình yêu, vẫn luôn “hướng về anh một phương”. Và người con gái ấy luôn hướng về “phương anh” bằng cả trái tim và tâm hồn của mình. “Trăm ngàn con sóng” dù có ở đâu thì đều vỗ vào bờ, cũng như người con gái dù có sải cánh giữa những khao khát riêng thì vẫn luôn nhớ và hướng về tình yêu của mình. Họ sẽ luôn tìm kiếm và đấu tranh cho tình yêu của mình dù có gặp bao nhiêu khó khăn, thách thức cũng không màng. Đó như lời khẳng định chắc chắn, lời thề son sắt của người con gái thuỷ chung một lòng.

au cùng, hình tượng sóng hiện lên là khát vọng về tình yêu vĩnh cửu. Con sóng như là sự lo âu, trăn trở của người phụ nữ về sự nhỏ bé của mình trước cuộc đời rộng lớn, sự hữu hạn của tình yêu trước thời gian vô hạn, sự dễ đổi thay của lòng người trước dòng đời biến động không ngừng:

“Cuộc đời tuy dài thế

Năm tháng vẫn đi qua

Như biển kia dẫu rộng

Mây vẫn bay về xa”

Mặc dù lo âu như thế, nhà thơ vẫn thể hiện niềm tin mãnh liệt của tình yêu. Như áng mây mỏng manh vẫn “bay về xa”, vượt qua biển rộng cuộc đời. Đến đây, sóng đã trở thành biểu tượng cho tình yêu trường tồn của Xuân Quỳnh. Khát vọng được “tan ra”, trở thành hàng trăm ngàn con sóng nhỏ khác, để được hòa mình vào biển lớn và sống hết mình với tình yêu. Và tình yêu đó sẽ luôn trường tồn, bất diệt. Đây cũng là khao khát chia sẻ tình yêu đôi lứa nhỏ bé với tình yêu chung của cuộc đời, của khát vọng.

Phân tích hình tượng sóng để thấy hình tượng sóng hiện lên với những ý nghĩa lớn lao, suy cho cùng vẫn là biểu tượng cho bản thân chính người con gái với những trăn trở và khát vọng trong tình yêu. Vì dù cho có những đổi thay, trái tim của Xuân Quỳnh vẫn đập vì tình yêu, vì lí tưởng hạnh phúc của chính mình:

“Em trở về đúng nghĩa trái-tim-em

Là máu thịt, đời thường ai chẳng có

Cũng ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa

Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi”

Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng – Mẫu 9

Xuân Quỳnh (1942-1988) là nhà thơ nữ giàu bản sắc trong nền thi ca Việt Nam hiện đại. Chị nổi tiếng với những bài thơ tình: “Hoa cúc xanh”, “Sóng”, “Thuyền và biển”, “Nói cùng anh”, “Mùa hoa doi”, v.v…

Với Xuân Quỳnh thì tình yêu là “nguồn gốc của muôn ngàn khát vọng”, làm nảy nở bao đức tính tốt, làm cho con người “thực sự Người hơn”. Thơ tình của Xuân Quỳnh lúc nào cũng đằm thắm, nồng nàn, ngọt ngào, mê say. “Sóng” là bài thơ tình đặc sắc, thể hiện khát vọng tình yêu đắm say của người con gái trong mối tình đầu. Bài thơ được viết bằng thể thơ ngũ ngôn trường thiên, hình tượng “sóng” là ẩn dụ về “em”, về người con gái đang mang trong trái tim mình một tình yêu đẹp.

Trạng thái của sóng trên biển, lúc thì “dữ dội”, lúc thì “dịu êm”, có lúc lại “ồn ào”, có khi rất lặng lẽ. Và đó cũng là trạng huống tâm tình của lứa đôi trong tình yêu:

“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ”.

Hành trình của sóng từ sông ra biển cũng là khát vọng muốn vươn tới mọi chân trời mơ ước thương yêu. Sóng trường tồn với đại dương mênh mông cũng như tình yêu là chuyện muôn đời của gái, trai, của lứa đôi xưa nay. Bởi lẽ “Làm sao sống được mà không yêu – Không nhớ không thương một kẻ nào” (Xuân Diệu), nên tình yêu đã trở thành khát vọng của tuổi trẻ. Lời giãi bày về tình yêu của người thiếu nữ rất chân thực và nồng nàn:

“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”.

Con sóng tình yêu có vỗ triền miên, vỗ xôn xao trong lòng “Những cô gái da mịn màng như lụa – Những chàng trai đang độ hai mươi” (Hoa cúc vàng) thì mới xúc động “bồi hồi” như vậy. Có yêu đời thiết tha, có yêu cuộc sống một cách nồng hậu, “Không muốn đi, mãi mãi ở vườn trần” (Xuân Diệu) thì mới tìm thấy vị ngọt của tình yêu, khi tình yêu trở thành khát vọng.

Nhìn trùng dương sóng bể, người thiếu nữ bâng khuâng nghĩ về mối tình đầu, nghĩ về duyên số, “em nghĩ về anh, em”, và tự hỏi: “Từ khi nào sóng lên”. Cái huyền diệu của vũ trụ, của sóng đại dương cũng như cái huyền diệu của tình yêu thật vô cùng. Thiếu nữ hỏi sóng hay tự hỏi mình, một câu hỏi tràn ngập tình thương yêu:

“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”.

Tình yêu là sự sống muôn đời nơi “vườn trần” nhưng “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu” (Xuân Diệu). Câu thơ “Khi nào ta yêu nhau” diễn tả đúng nỗi niềm những lứa đôi đã chớm vị ngọt của tình yêu nồng nàn, say đắm. Cái giây phút “thắm lại” của lứa đôi trong mối tình đầu, tuy không xác định được, nhưng không bao giờ có thể quên. Thi sĩ Thế Lữ, 70 năm về trước gọi đó là “cái thuở ban đầu lưu luyến” vô cùng đắm đuối và thiêng liêng:

“Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy
Nghìn năm chưa dễ đã ai quên?”.

Sóng được nhân hóa, “sóng nhớ bờ”, sóng “ngày đêm không ngủ được”, dù ở “dưới lòng sâu”, hay “ở trên mặt nước”. Sóng ru, sóng reo, sóng hát ca, sóng vỗ suốt đêm ngày trên đại dương mênh mông. Cũng như bến đợi thuyền, thuyền nhớ bến, “thôn Đoài thì nhớ thôn Đông…” người con gái lúc nào cũng bồi hồi thương nhớ:

“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”.

Đây là câu thơ rất hay nói lên một tình yêu nồng nàn, say đắm. Thiếu nữ đã giãi bày rất chân thực về khát vọng tình yêu của mình. Em nhớ anh triền miên, bổi hổi bồi hồi suốt ngày đêm “cả trong mơ” và cả trong lúc “còn thức”. Một chữ “nhớ” tràn ngập tình yêu thương.

Thủy chung là một trong những phẩm chất cao đẹp của tình yêu lứa đôi. Tình yêu cho lứa đôi sức mạnh để vượt qua mọi thử thách “tam tứ núi cũng trèo, ngũ lục sông cũng lội, thất bát đèo cũng qua”, chiến thắng mọi cách trở về không gian và thời gian. Phương Bắc và phương Nam, dẫu xuôi và ngược… nhưng tình em vẫn thiết tha mặn nồng:

“Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương

Cấu trúc đoạn thơ: “dẫu … cũng…”, chữ “dẫu” được điệp lại hai lần cho ý thơ được nhấn mạnh, đó là lòng son sắt thủy chung. Các vị ngữ: “cũng nghĩ”, “hướng về” liên kết với số từ “một” (một phương) là sự khẳng định một lời thề đinh ninh, như thi sĩ Tản Đà đã nói trong “Thề non nước”:

“Dù cho sông cạn đá mòn,
Còn non còn nước hãy còn thề xưa”.

Tình yêu đẹp đem đến cho “em” một niềm tin mãnh liệt. Sóng nhất định tới bờ dù trùng dương có “muôn vời cách trở”. Sóng đã nói hộ lòng về niềm tin, con thuyền tình nhất định sẽ cập bến bờ hạnh phúc:

“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”

Xuân Quỳnh trong đời thường tuy đã uống bao vị ngọt tình yêu, nhưng chị cũng đã từng nếm ít nhiều cay đắng trong tình ái. Có điều, mỗi lần đối diện với những thử thách, chị vẫn hồn hậu dào dạt niềm tin về hạnh phúc mà tình yêu nhất định sẽ đem đến. Đây là một khổ thơ giàu ý vị và sáng ngời niềm tin:

“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”.

“Tuy… vẫn…”, “dẫu… vẫn”, cấu trúc ấy làm cho ý thơ được khẳng định, niềm tin được khẳng định. “Năm tháng” và “mây” là hai hình ảnh ẩn dụ về niềm tin trong tình yêu. Năm tháng sẽ đi qua cuộc đời dài, mây sẽ vượt biển rộng để bay về xa. Có thời gian nào, không gian nào mà con thuyền tình không vượt qua để vươn tới hạnh phúc?

Khổ cuối là lời ước nguyện của em, của người thiếu nữ trong mối tình đầu. Em muốn được “tan ra”, muốn được hóa thân thành “Trăm sóng nhỏ – Giữa biển lớn tình yêu – Để ngàn năm còn vỗ”. Tình yêu không làm cho em bé nhỏ và ích kỉ. Em mơ ước về tình yêu đẹp, bền vững trong hạnh phúc, được yêu và được sống “giữa biển lớn tình yêu” để ngàn năm “còn vỗ”… Ước nguyện ấy mang tính nhân văn cao đẹp.

“Sóng” cũng như nhiều bài thơ tình khác của Xuân Quỳnh phản chiếu một tâm hồn trung hậu, rất yêu đời, sống hết mình với tình yêu, coi tình yêu và hạnh phúc là khát vọng. Lấy hình tượng “sóng”, Xuân Quỳnh đã giãi bày rất chân thực về khát vọng tình yêu của người con gái: đinh ninh lời thề, thương nhớ bồi hồi, thủy chung sắt đá, tin tưởng về hạnh phúc tình yêu trọn vẹn vững bền.

Bài thơ cho thấy cái mới và tính sáng tạo trong thơ tình của Xuân Quỳnh. Người con gái giãi bày về tình yêu chứ không phải người con gái “được yêu” như trong ca dao, trong nhiều bài thơ tình khác. Cũng là “sóng” ẩn dụ, nhưng trong bài thơ tình “Biển”của thi sĩ Xuân Diệu “sóng” lại là hình ảnh người con trai đa tình:

“Anh xin làm sóng biếc
Hôn mãi cát vàng em
Hôn thật khẽ thật êm
Hôn êm đềm mãi mãi
Đã hôn rồi hôn lại
Hôn mãi đến muôn đời
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt…”.

Qua đó, ta thấy rõ cá tính sáng tạo trong thơ tình của Xuân Quỳnh. Hình tượng sóng, nhịp điệu sóng, và tiếng xôn xao “bồi hồi trong ngực trẻ” về khát vọng tình yêu trong bài thơ tình này đã từng ru biết bao chàng trai cô gái thời áo trắng trong những giấc mộng đẹp!

Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng – Mẫu 10

Đến với bài thơ “Sóng”, Xuân Quỳnh đã mượn hình tượng “sóng” để diễn tả những cảm xúc, tâm trạng, sắc thái tình cảm của “em” – một trái tim phụ nữ đang rạo rực, khát khao yêu đương.

Tình yêu là một đề tài muôn thuở của thơ ca. Nhiều nhà thơ nổi tiếng đã viết về tình yêu bằng một cảm hứng mãnh liệt, in đậm dấu ấn tâm hồn, tư tưởng và phong cách nghệ thuật của mình. Xuân Diệu trước đó đã mượn hình tượng “biển” để nói về tình yêu. Còn với Xuân Quỳnh, chị đã mượn hình tượng “sóng” để diễn tả những cảm xúc, tâm trạng, những sắc thái tình cảm vừa phong phú, vừa phức tạp, vừa thiết tha sôi nổi của một trái tim phụ nữ đang rạo rực, khát khao yêu đương.

Cùng với hình tượng “sóng”, bài thơ này còn có một hình tượng nữa là “em” – cái tôi trữ tình của nhà thơ. Sóng là hình ảnh ẩn dụ của tâm trạng người con gái đang yêu, là sự hoá thân, phân thân của cái tôi trữ tình – một kiểu đặc biệt của cái tôi trữ tình nhập vai. Hai “nhân vật” trữ tình này (sóng và em) tuy hai mà một, có lúc phân đôi ra để soi chiếu vào nhau, làm nổi bật sự tương đồng, có lúc lại hoà nhập vào nhau để tạo nên sự âm vang, cộng hưởng. Hai hình tượng này đan cài quấn quýt với nhau như hình với bóng, song song tồn tại từ đầu đến cuối bài thơ, soi sáng, bổ sung cho nhau nhằm diễn tả một cách mãnh liệt hơn, sâu sắc và thấm thía hơn khát vọng tình yêu đang cuồn cuộn trào dâng trong trái tim nữ thi sĩ.

Hình tượng “sóng” là một tìm tòi nghệ thuật độc đáo của Xuân Quỳnh. Trước hết, nó đã được gợi ra từ âm hưởng dào dạt, nhịp nhàng của bài thơ. Đó là nhịp của những con sóng trên biển cả liên tiếp triền miên vô hồi vô hạn. Thể thơ năm chữ không ngắt nhịp lên tiếp đã tạo nên nhịp điệu của những con sóng biển lúc dạt dào sôi nổi lúc sâu lắng chạy dài suốt bài thơ. Song âm điệu chung của cả bài thơ không phải chỉ là âm điệu nguyên con sóng. Nó còn là âm điệu của một nỗi lòng đang tràn ngập khao khát tình yêu vô hạn đang rung lên đồng điệu hòa hợp với sóng biển, hòa hợp tới nỗi không còn biết đâu là đâu là nhịp điệu của sóng biển đâu là nhịp điệu của thi sĩ nữa. Xuân Quỳnh đã mượn hình tượng sóng để thể hiện nhịp điệu tâm hồn mình đang bùng cháy một tình yêu mãnh liệt, không chịu yên định mà đầy biến động, khao khát. Qua hình tượng “sóng”, Xuân Quỳnh đã diễn tả vừa cụ thể vừa sinh động những trạng thái, tâm trạng, những cung bậc tình cảm khác nhau trong trái tim của người phụ nữ đang rạo rực yêu đương. Mỗi trạng thái tâm hồn cụ thể của người phụ nữ đang yêu đều có thể tìm thấy sự tương đồng của nó với một khía cạnh, một đặc tính nào đó của sóng.

Mở đầu bài thơ là trạng thái tâm lý đặc biệt của một tâm hồn đang khao khát yêu đương, đang tìm đến một tình yêu rộng lớn hơn. Xuân Quỳnh đã diễn tả thật cụ thể cái trạng thái khác thường, vừa phong phú vừa phức tạp trong một trái tim đang cồn cào khao khát tình yêu. Tinh khí của người con gái đang yêu, cũng như sóng vậy thôi, vốn mang trong nó nhiều trạng thái đối cực: “Dữ dội và dịu êm, ồn ào và lặng lẽ”… Và cũng như sóng, trái tim người con gái đang yêu không chịu chấp nhận sự tầm thường, nhỏ hẹp, luôn vươn tới cái lớn lao có thể đồng cảm, đồng điệu với mình: “Sông không hiểu nổi mình/Sóng tìm ra tận bể” Có thể thấy, ngay trong khổ thơ đầu tiên này một nét mới mẻ trong quan niệm về tình yêu. Người con gái khao khát yêu đương nhưng không còn nhẫn nhục cam chịu nữa. Nếu “sông không hiểu nổi mình” thì sóng nhất quyết từ bỏ nơi chật hẹp ấy để “tìm ra tận bể” đến với cái cao rộng bao dung. Thật là minh bạch và cũng thật là quyết liệt.

Nỗi khát vọng tình yêu xôn xao, rạo rực trong trái tim con người trong quan niệm của Xuân Quỳnh, là khát vọng muôn đời của nhân loại mà mãnh liệt nhất là của tuổi trẻ. Nó cũng như sóng, mãi mãi trường tồn, vĩnh hằng với thời gian. Với con người, khát vọng tình yêu luôn mãnh mãnh liệt:

“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”

Khi tình yêu đến, như một tâm lí tự nhiên, người ta luôn có nhu cầu tự lý giải nó. Nhưng tình yêu là một hiện tượng tâm lý khác thường, đầy bí ẩn không thể giải thích bằng lý lẽ thông thường. Làm sao có thể giải đáp được câu hỏi về khởi nguồn của tình yêu. Cái điềm mà trước đó từng làm Xuân Diệu băn khoăn: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu”, thì nay, một lần nữa lại được Xuân Quỳnh bộc bạch một cách hồn nhiên, thật dễ thương. Tình yêu cũng giống như sóng biển, như gió trời vậy thôi, làm sao mà lý giải được. Nó cũng tự nhiên, hồn nhiên như thiên nhiên và cũng khó hiểu không ngờ như thiên nhiên:

“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”

Tình yêu cũng gắn liền với nỗi nhớ khi xa cách. Nỗi nhớ của một trái tim đang yêu được Xuân Quỳnh diễn tả thật mãnh liệt. Một nỗi nhớ thường trực cả khi thức, cả khi ngủ, bao trùm lên cả không gian và thời gian. Một nỗi nhớ cồn cào, da diết, không khi nào yên, không thể nào nguôi. Nó cuồn cuộn, dào dạt như những đợt sóng biển triền miên, vô hồi, vô hạn. Nhịp thơ trong suốt bài thơ này là nhịp sóng, nhưng rõ nhất, dào dạt, hăm hở, náo nức nhất, mãnh liệt nhất là ở đoạn thơ này:

“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”

Và như trên đã nói, vẫn là hình tượng song hành của sóng và em bổ sung, đắp đổi cho nhau nhằm diễn tả sâu sắc hơn, ám ảnh hơn tình yêu và nỗi nhớ cùng với lòng thủy chung vô hạn của một trái tim đang rạo rực yêu thương. Nỗi nhớ được diễn tả qua hình tượng con sóng nhớ bờ “ngày đêm không ngủ được” vẫn chưa đủ, chưa thỏa, lai được thể hiện một lần nữa qua nỗi nhớ trực tiếp của nhà thơ: “Lòng em nhớ đến anh, Cả trong mơ còn thức”. Nỗi nhớ tràn đầy lòng yêu của nữ thi sĩ. Nỗi nhớ thường trực trong mọi không gian và thời gian, không chỉ tồn tại trong ý thức mà còn len lỏi trong tiềm thức, xâm nhập vào cả trong giấc mơ. Những đòi hỏi, khao khát yêu đương của người con gái được bộc lộ thật mãnh liệt nhưng cũng thật giản dị song chỉ khao khát tới bờ cũng như em khao khát có anh. Tình yêu của người con gái thiết tha, mãnh liệt, trong sáng, giản dị, thủy chung, duy nhất. Qua hình tượng “sóng” và “em”, Xuân Quỳnh đã nói lên thật chân thành, táo bạo, không hề giấu giếm cái khát vọng tình yêu sôi nổi, mãnh liệt của mình – một phụ nữ, một điều thật hiếm thấy trong văn học Việt Nam.

Xuân Quỳnh viết bài thơ “Sóng” năm 1967, khi mà chị đã từng nếm trải sự đổ vỡ trong tình yêu. Song, người phụ nữ hồn nhiên tha thiết yêu đời này vẫn còn ấp ủ biết bao hy vọng, vẫn có một niềm tin vào hạnh phúc trong tương lai. Vừa tự động viên, an ủi mình, chị vừa tin vào cái đích cuối cùng của một tình yêu lớn như “Con nào chẳng tới bờ/Dù muôn vàn cách trở”. Vì thế, ý thức về thời gian chưa làm cho chị lo âu mà chỉ làm cho chị thêm tin rằng:

“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn qua đi
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”

Tóm lại, “Sóng” là một bài thơ tình yêu rất tiêu biểu cho tư tưởng và phong cách thơ Xuân Quỳnh ở giai đoạn đầu. Một bài thơ vừa xinh xắn, duyên dáng, vừa mãnh liệt, sôi nổi, vừa hồn nhiên, trong sáng, vừa ý nhị, sâu xa. Sau này, khi đã nếm trải nhiều cay đắng trong tình yêu, giọng thơ Xuân Quỳnh không còn phơi phới bốc men say nữa, nhưng cái khát vọng tình yêu vẫn tồn tại mãi mãi trong trái tim tràn ngập yêu thương của chị.

Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng – Mẫu 11

Xuân Quỳnh là một gương mặt tiêu biểu của phong trào thơ trẻ chống Mỹ. Trong giàn đồng ca của thơ trẻ chống Mỹ, Xuân Quỳnh nổi lên như một tiếng thơ trẻ trung, đầy nữ tính. Cũng bám sát cuộc sống lao động và chiến đấu anh hùng của con người Việt Nam, nhưng Xuân Quỳnh còn thể hiện được cả một khát vọng mãnh liệt về tình yêu. Điểm đặc sắc trong thơ tình yêu của Xuân Quỳnh là: vừa khát khao một tình yêu lí tưởng vừa hướng tới một hạnh phúc thiết thực của đời thường. Tất cả những điều ấy được thể hiện trong một tiếng thơ giản dị, tự nhiên và hồn nhiên gần như bản năng vậy. Nhắc đến Xuân Quỳnh người ta thường nhắc đến những bài nổi tiếng: “Thuyền và biển”, “Thơ tình cuối mùa thu”, “Tự hát”… và nhất là “Sóng” – bài này được rút ra từ tập “Hoa dọc chiến hào”. Có thể nói, “Sóng” đã kết tinh được tất cả những gì là sở trường nhất của hồn thơ này.

Hình tượng bao trùm cả bài thơ này không có gì khác hơn là sóng. Sóng vừa được gợi ra trong một âm điệu rất phù hợp, vừa được tái tạo với hàng loạt ý nghĩa phong phú của nó. Một bài thơ chân chính bao giờ cũng tác động vào tâm hồn người đọc trước tiên bằng âm điệu của nó. Người đọc còn chưa kịp hiểu chi tiết hình ảnh thì đã bị cuốn theo âm điệu, nói một cách khác, âm điệu đã xâm chiếm tâm hồn người đọc. Âm điệu của một bài thơ bao giờ cũng là sự hoà điệu nhuần nhụy giữa cảm xúc thơ và tiết điệu ngôn ngữ. Vì thế âm điệu chứa đựng tính chất của tình cảm thơ. Ẩn náu trong âm điệu là cái hồn, cái thần của xúc động thơ. Vì những lý do ấy mà đọc thơ điều trước tiên và cũng là khó nhất, ấy là phải cảm nhận và nắm bắt cho được âm điệu của nó.

Đọc bài thơ “Sóng”, chúng ta còn chưa hiểu các ý nghĩa của sóng nhưng ai cũng dễ bị âm điệu cuốn hút. Bởi âm điệu thơ ở đây cũng là âm điệu của sóng biển. Thi sĩ đã khéo đưa nhịp triền miên của sóng vào thơ hay sóng biển đã khuấy động hồn người tạo nên sóng lòng và sóng lòng đã tràn ra câu chữ mà thành sóng thơ?

Âm điệu thơ phụ thuộc khá nhiều vào thể loại. Xem ra, thể thơ ngũ ngôn ở đây đã phát huy được sở trường riêng của nó. Khéo khai thác sự biến hoá phong phú về cả vần và nhịp của ngũ ngôn, Xuân Quỳnh đã sử dụng nhuần nhuyễn nhịp thơ để tạo ra nhịp sóng. Nói riêng khổ thơ đầu, hai câu đầu đi nhịp 2/7/3:

Dữ dội / và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ

thì hai câu tiếp theo đã chuyển nhịp 3/2 (cầu kỳ hơn là 1/2/2):

Sóng/ không hiểu /nổi mình
Sóng/ tìm ra tận bể

Nhịp thơ thay đổi như vậy đã giúp Xuân Quỳnh mô phỏng được nhịp sóng vốn biến đổi rất mau lẹ, biến hoá không ngừng. Cách tổ chức ngôn từ cũng góp phần tạo ra âm điệu của bài thơ. Thi sĩ đã triệt để tận dụng lối tổ chức theo nguyên tắc tương xứng, hô ứng, trùng điệp. Nhất là việc tạo ra các cặp từ, các vế câu, các cặp câu, thậm chí ngay cả các khổ thơ cũng hình thành những cặp đi liền kề, kế tiếp luân phiên đáp đổi nhau về bằng trắc nữa. Vế tiếp vế, câu tiếp câu. Ở đây vừa “dữ dội và dịu êm” – “ồn ào và lặng lẽ”, ngay đó đã là:

“Ôi con sóng ngày xưa – và ngày sau vẫn thế…

cứ thế:

– Em nghĩ về anh em
Em nghĩ về biển lớn

– Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước

– Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam …

Cặp này vừa lướt qua, cặp khác đã xuất hiện, tựa như con sóng này vừa lịm xuống, con sóng khác đã trào lên. Nhờ đó âm điệu thơ gợi được hình ảnh những con sóng trên mặt biển, cứ miên man, khi thăng khi giáng, khi bổng khi trầm, vô hồi vô hạn. Ta cứ thấy trong âm điệu nhấp nhô những con sóng nối tiếp nhau, gối đầu lên nhau, xô đuổi nhau bất tận. Vậy là, trước khi sóng hiện hình qua những hình ảnh cụ thể thì chúng ta đã nghe thấy tiếng sóng trong âm hưởng, âm điệu.

Sóng là hình tượng trung tâm của bài thơ. Nhưng cũng cần phải thấy thi phẩm này có một lối cấu trúc hình tượng khá độc đáo. Mỗi bài thơ thường vẽ ra hình tượng tác giả của nó. Hình tượng tác giả trong bài thơ không hề đồng nhất với con người thi sĩ ở ngoài đời. Nhà thơ thường chọn một tư thế một dáng điệu trong thơ để phô diễn tâm tình của mình sao cho phù hợp nhất. Có thể Xuân Quỳnh viết bài thơ này tại nhà của mình. Nhưng hình tượng tác giả trong bài thơ lại là người phụ nữ đang đứng trước biển, đối diện với đại dương, với sóng để suy tư ngẫm nghĩ và khát khao. Mỗi một phát hiện về sóng người phụ nữ ấy lại liên tưởng đến mình và tình yêu. Bởi thế, mỗi một khám phá về sóng cũng là một khám phá về chính mình. Xuân Quỳnh nhìn thấy mình ở trong sóng và thấy sóng ở trong mình. Vì thế mà sóng là hoá thân, là phân thân của cùng một cái tôi Xuân Quỳnh. Sóng và Em trở thành hai hình tượng xuyên suốt, khi tách rời, khi hoà nhập, chuyển hoá sang nhau, tuy hai mà một, tuy một mà hai. Đến nỗi, ta có thể khẳng định sóng là cái tôi thứ hai của Xuân Quỳnh, mỗi một khổ thơ là một khám phá về sóng, mỗi một khổ thơ, sóng lại hiện lên một ý nghĩa khác. Cho nên không thể lược qui riêng vào một ý nghĩa nào, mà phải nắm bắt hình tượng sóng với tất cả các ý nghĩa của nó. Và chỉ có thể nói rằng sóng là tâm hồn, là khát vọng, là tình yêu của người phụ nữ mà thôi.

Mở đầu bài thơ, sóng hiện ra với một ý nghĩa rất đặc biệt: sóng mang nữ tính. Nghĩ thật thú vị, nam thi sĩ Xuân Diệu thấy sóng biển là một chàng trai đang yêu bờ đắm đuối cuồng nhiệt. Còn nữ sĩ Xuân Quỳnh lại thấy sóng mang trong nó khí chất của người phụ nữ. Có phải nhà thơ trữ tình thường có thiên hướng áp đặt cái tôi của mình vào đối tượng chăng? Phải nói rằng đây là một tiếng nói đầy kiêu hãnh về giới mình;

Dữ dội và dịu êm
… tận bể

Trong khí chất của sóng, thấy có sự hài hoà của các đối cực, vừa dữ dội nhất vừa dịu êm nhất, vừa ồn ào nhất vừa lặng lẽ nhất. Và mỗi con sóng nhỏ lại mang trong mình một khát vọng lớn, và đó là khát vọng về sự lớn lao. Vì mang khát vọng lớn mà sóng trở nên quyết liệt. Vâng, nếu một khi xảy ra chuyện sông không hiểu nổi mình thì dứt khoát “Sóng tìm ra tận bể”. Sóng sẽ từ bỏ sư chật chội, nhỏ hẹp để tìm đến sự lớn lao, bao dung, khoáng đạt.

Đứng trước biển, con người ta dễ có cảm giác rằng: nghìn năm trước khi chưa có mình biển vẫn thế này, nghìn năm sau khi mình đã tan biến khỏi mặt đất rồi, biển vẫn thế kia. Vẫn những con sóng từ ngoài xa mải miết chạy vào bờ, tan mình trên bờ bãi. Biển vẫn xôn xao, cồn cào, xáo động thế! Biển là hình ảnh của sự bất diệt. Đối diện với sự bất diệt có thực của biển người ta liên tưởng đến sự bất diệt khác: sự bất diệt của khát vọng! Chừng nào còn tuổi trẻ, chừng ấy khát vọng tình yêu vẫn bồi hồi vỗ sóng trong lồng ngực họ:

Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ.

Đến khổ thơ thứ ba, sống lại hiện lên với một ý nghĩa khác: Nguồn gốc của sóng cũng là nguồn gốc bí ẩn của tình yêu! Đứng trước biển, người phụ nữ ấy muốn cắt nghĩa vẽ nguồn gốc của sóng. Những nỗ lực ấy trở nên bất lực. Nguồn gốc của sóng cũng huyền bí như nguồn gốc của tình yêu:

Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau

“Khi nào ta yêu nhau?”, câu hỏi ấy dường như làm băn khoăn mọi đôi lứa. Và không ai trả lời được tới cùng? Càng yêu nhau say đắm bao nhiêu người ta càng thấy rằng tình duyên của mình là không thể giải thích được. Người ta thường thiêng liêng hoá tình yêu. Nó là sự gặp gỡ trong kiếp này, nhưng biết đâu lại là sự hò hẹn từ kiếp trước. Người ta chỉ muốn tin thế! Và phải tin thế tình yêu của con người mới trở nên linh thiêng!

Rồi cứ thế, sóng là nỗi nhớ của tình yêu: “Con sóng dưới lòng sâu – Con sóng trên mặt nước – ôi con sóng nhớ bờ – Ngày đêm không ngủ được – Lòng em nhớ đến anh – Cả trong mơ còn thức”, là lòng thuỷ chung: “Dẫu xuôi về phương Bắc – Dẫu ngược về phương Nam – Nơi nào em cũng nghĩ – hướng về anh một phương”. Là hành trình đến với hạnh phúc của những lứa đôi: “Ở ngoài kia đại dương – Trăm nghìn con sóng đó – Con nào chẳng tới bờ – Dù muôn vàn cách trở”. Là sự không cùng của khát vọng: ”Cuộc đời tuy dài thế – năm tháng vẫn đi qua – Như biển kia dẫu rộng – Mây vẫn bay về xa”… Cứ thế, lời thơ triền miên cùng với sóng. Để đến cuối cùng, nó hiện ra trong khao khát mãnh liệt nhất và cũng là khao khát vô biên tuyệt đích nhất: khao khát bất tử. Điều này là một lôgic hiển nhiên. Đứng trước biển, người ta đối diện với sự vô cùng vô tận của không gian, cũng là đối diện với sự vô thuỷ vô chung của thời gian và nhãn tiền là sự vô hạn vô hồi của biển cả. Người ta khó tránh khỏi cảm giác rợn ngợp. Thấy đời người thật là ngắn ngủi, kiếp người thật là nhỏ nhoi phù du, vô nghĩa. Chỉ có biển kia là vẫn thế. Chỉ có biển kia là bất diệt. Thân phận phù du nào cũng muốn hoá vĩnh hằng! Người ta thèm muốn được bất tử. Người phụ nữ này cũng thế. Chị muốn được có mặt mãi trên cõi đời này. Để được sống! Để được yêu! Sống trong tình yêu ấy là hạnh phúc. Thế là khát khao ấy đã dâng lên mãnh liệt khôn cùng:

Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ

Bài thơ dẫu đã khép lại, nhưng những con sóng đó vẫn cồn cào trong ngực biển, trong lồng ngực những lứa đôi không bao giờ ngừng nghỉ!

Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng – Mẫu 12

Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ viết về tình yêu hay nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Nhà thơ đã dể lại nhiều bài thơ tình đặc sắc: Thuyền và biển, Dẫu em biết ràng anh trở lại, Tự hát, Hoa cỏ may, Thơ tình cuối mùa thu.,. Trong đó bài thơ Sóng ngay từ khi ra đời đã được nhiều thế hệ thanh niên ưa thích. Sóng là hình tượng trung tâm của bài thơ đã góp phần diễn tả sức sống, niềm khát khao mãnh liệt của tâm hồn nhà thơ về tình yêu, về cuộc sống.

“Sóng” hiện lên như một hình tượng hai nghĩa: vừa là con sóng thật ngoài biển cả, vừa là hình ảnh tượng trưng cho nỗi khát khao hạnh phúc, khát vọng tình yêu của người phụ nữ trong bài:”Em”.

Nét đặc sắc đầu tiên của bài thơ là âm điệu, tự nó tạo thành một hình tượng sóng. Thể thơ năm chữ của bài thơ rất phù hợp với nhịp điệu tâm trạng của người con gái đang yêu. Bài thơ gồm mười khổ, chỉ có một khổ hai câu, các khổ còn lại: mỗi khổ bốn câu, Âm điệu của bài thơ chủ yếu được thể hiện bằng thanh bằng; các thanh trắc chiếm một tỉ lệ rất thấp. Chính đặc điểm này đã tạo nên sự nhịp nhàng cho âm điệu, nó vừa mô phỏng được nhịp điệu của sóng biển vừa mô phỏng nhịp điệu của tâm hồn. Mà xét đến cùng cái chính ở đây là nhịp của tâm hồn, nhịp của một tâm trạng tha thiết yêu thương. Nhịp điệu vào – ra, đều đều, vô tận của con sóng còn được tạo nên bằng những đối sánh liên tiếp phân thành hai cực: dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ, sông – bể, ngày xưa – ngày nay; lòng sâu – mặt nước, ngày – đêm, xuôi – ngược, phương Bắc – phương Nam, đại dương – bờ, dài – rộng, sóng nhỏ – biển lớn.

Sóng là biểu tượng của hình ảnh người con gái, đam mê và khao khát tình yêu, là biểu tượng của sự sống mãnh liệt, của một tình yêu muôn đời một tình yêu vĩnh cửu.

Tại sao nhà thơ dùng hình tượng sóng để bộc lộ lòng mình?

Đó là do sự trùng hợp đến lạ lùng giữa những trạng thái tâm hồn với những đặc tính của sóng; sự tương đồng giữa nhịp điệu của tự nhiên, của đời sống với nhịp điệu của tình cảm, của thế giới khát khao con người. Cũng không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhà thơ đã dùng hình tượng biển, sóng để nổi lên sự mãnh liệt, nỗi khát khao, sự dâng đầy, niềm sôi sục, mê đắm của sự sống, của tình yêu (Xuân Diệu – Biển, Xuân Quỳnh – Thuyền và biển). Con sóng “dữ dội và dịu êm”, “ồn ào và lặng lẽ” cũng là tâm tình của người phụ nữ đang yêu. Đó là trạng thái đối nghịch nhưng lại là sự thật của những bí ẩn tâm hồn. Vẻ ngoài bình lặng chứa đựng những sức mạnh ẩn tàng, những khát khao mạnh mẽ. Vẻ ngoài sôi sục, dữ dội che phủ một trái tim đằm thắm, nhân hậu, yêu mến và chở che. Chính cái bí ẩn kì lạ đó, nó khơi dậy những khát vọng lớn lao: Sóng tìm ra tận bể, vượt những giới hạn chật chội, con sóng mới thực sự tìm thấy mình, tức nhận thức được sức mạnh, nỗi khát khao, niềm sôi sục của mình, cũng như người con gái, khi đối diện với tình yêu mới hiểu nổi mình, hiểu được giá trị mình nhận thức được mình, cảm nhận hết được sức mạnh cùng khát vọng tình yêu của mình.

Và cũng chẳng khác gì với sóng, khát vọng tình yêu của loài người mãi mãi tồn tại, mãi mãi là chuyện của muôn đời: “Ôi con sóng ngày xưa, Và ngày sau vẫn thế, Nỗi khát vọng tình yêu, Bồi hồi trong ngực trẻ”.

Sóng và sức mạnh của sóng là nỗi bí ẩn muôn đời, cũng như quy luật của tình yêu, một quy luật không thể nào cắt nghĩa, quy luật của muôn đời: Tình yêu là gì? Bắt đầu từ đâu? Vì sao yêu nhau: “Sóng bắt đầu từ gió, Gió bắt đầu từ đâu. Em cũng không biết nữa, Khi nào ta yêu nhau”.

Sóng tượng trưng cho nỗi nhớ. Sóng nhớ bờ. Một nỗi nhớ chiếm kín cả không gian, chiếm đầy tâm hồn: “Lòng em nhớ đến anh. Cả trong mơ còn thức”. Sóng còn là tượng trưng của lòng chung thủy: “Con nào chẳng tới bờ, Dù muôn vời cách trở”. Cũng như lòng em: “Nơi nào em cũng nghĩ, Hướng về anh – một phương”.

Con sóng, hình tượng trung tâm của bài thơ đã thể hiện nỗi khát khao, niềm đam mê tình yêu, cái vĩnh hằng, vô biên, nỗi bí ẩn, sự mãnh liệt và lòng chung thủy đối với tình yêu cùng niềm mong muốn sông chân thật, hết mình trọn vẹn vì tình yêu: Làm sao được tan ra, Thành trăm con sóng nhỏ, Giữa biển lớn tình yêu, Để ngàn năm còn vỗ”.

Sóng trong bài thơ không chỉ là sóng theo nghĩa đen, mà còn là sự vận động của tâm hồn con người. Người con gái trong bài thơ cũng như con sóng vậy. Họ khao khát tình yêu, một tình yêu mạnh mẽ, rộng lớn, đằm thắm, thiết tha, một tình yêu tự nhiên, rất bình thường, rất đời vậy. Tình yêu ấy cũng thật rõ ràng và giản dị: con sóng khát khao tới bờ, như em mong có anh, Và chính tình yêu mãnh liệt và giản dị ấy lại là dấu hiệu của một tình yêu vĩnh hằng, muôn thuở của những trái tim đầy mong muốn yêu thương.

Xuân Quỳnh là nhà thơ của tình yêu. Hồn thơ của Xuân Quỳnh luôn tự bộc lộ khát vọng, những say đắm rạo rực, những suy tư day đứt, trăn trở của lòng mình trong tình yêu. Có thể thấy rõ đặc điểm cửa Xuân Quỳnh qua bài thơ Sóng. Người đọc yêu và thuộc thơ của Xuân Quỳnh có lẽ vì họ tìm thấy nhiều nỗi niềm tha thiết, nhiều ước vọng trong sáng, nhiều niềm vui và khổ đau của tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh. Mà điều đó chỉ có ở những nhà thơ biết và dám giữ lấy cái riêng của mình, và bằng cách đó tạo nên sự cách tân, sự phong phú cho thơ, nhất là thơ tình yêu.

Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng – Mẫu 13

Tình yêu là đề tài muôn thuở của thơ ca, mỗi tác giả khác nhau lại có những cách thức, cách thể hiện riêng, làm phong phú hơn nữa đề tài này. Xuân Quỳnh cũng đóng góp vào thơ ca Việt Nam nhiều tác phẩm về đề tài tình yêu, nhưng nổi bật hơn cả là “Sóng”. Với hai hình tượng sóng đôi, sóng và em đan kết, hòa quyện với nhau đã nói lên tâm hồn, cảm xúc đa dạng của người phụ nữ khi yêu và những khát khao hết sức nhân văn, cao cả.

Bài thơ được đặt nhan đề là Sóng, nhưng sóng không đơn thuần là một hình ảnh thực mà nó còn là biểu tượng của những làn sóng trong tâm hồn người phụ nữ khi yêu. Trong bài thơ có hai hình tượng nghệ thuật luôn tồn tại song song với nhau, là hình tượng sóng và hình tượng em. Sóng chính là ẩn dụ cho nỗi lòng, cho những cung bậc cảm xúc của người con gái khi yêu. Sóng và em tưởng tách bạch, riêng rẽ mà thực chất lại hòa quyện với nhau không ngờ.

Mở đầu bài thơ là những làn sóng vừa khẽ khàng vừa dữ dội xuất hiện

Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể

Hai câu thơ đầu sử dụng hàng loạt các tình từ mang tính chất đối lập nhau: dữ dội đối lập với dịu êm, ồn ào đối lập với lặng lẽ. Đây là những trạng thái khác nhau của con sóng, khi dữ dội, ầm ầm khi dịu êm, âm thanh khi cuồng nộ, ồn ào, khi lặng lặng lẽ lắng đọng. Cả hai câu thơ đều sử dụng quan hệ từ và đã giúp làm nổi bật sự biến chuyển không ngừng của những lớp sóng theo trình tự thời gian. Nhưng đằng sau hình ảnh sóng đó chính là tâm hồn của người con gái khi yêu, họ cũng như những làn sóng khi sôi nổi mạnh ẽ, khi lại dịu dàng, âm thầm. Và hai trạng thái này cũng có sự biến chuyển không ngừng, luôn luôn chuyển hóa cho nhau, khiến cho tình yêu trở nên đa màu sắc và cung bậc cảm xúc hơn. Khổ thơ thứ hai, là sự cụ thể hóa nỗi khát khao mãnh liệt trong tình yêu đôi lứa: “Ôi con sóng ngày xưa/ Và ngày sau vẫn thế/ Nỗi khát vọng tình yêu/ Bồi hồi trong ngực trẻ”. Cách Xuân Quỳnh sử dụng từ ngữ thật hay và chính xác, “ngày xưa” “ngày sau” cách nói khái quát, bao hàm muôn đời, muôn thế hệ, tình yêu vẫn luôn là cung bậc cảm xúc đẹp đẽ và rạo rực nhất trong tâm hồn của những người trẻ tuổi.

Không thể ở mãi trong không gian nhỏ bé, chật hẹp, “em” tìm cách vượt thoát đến không gian rộng lớn, từ sông sóng tìm ra tận “bể”. Hai không gian tương phản nhau, một nhỏ bé – sống, một to lớn – bể, để nói lên khát khao yêu đương mãnh liệt của người con gái. Họ không rụt rè, sợ hãi mà khi yêu họ sẵn sàng từ bỏ sự ích kỉ, nhưng e lệ để hướng đến một tình yêu lớn lao và tìm đ sự đồng điệu với tâm hồn của mình yêu.Skip Ad

Cắt nghĩa tình yêu là khát khao của thi nhân muôn đời, nhưng mấy ai có thể cắt nghĩa nổi, Xuân Diệu cũng đã từng bất lực mà nói rằng: “làm sao cắt nghĩa được tình yêu?”. Xuân Quỳnh cũng mang trong mình khát khao, cắt nghĩa, lí giải tình yêu. Đến đây sóng không còn là đối tượng để cảm nhận mà là đối tượng để chiêm nghiệm suy tư:

“Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên ?

Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”

Trước không gian mênh mông của muôn trùng sóng bể, người con gái thật nhỏ bé, đang trăn trở, suy tư về tình yêu đôi lứa. Cô gái băn khoăn với câu hỏi sóng bắt đầu từ đâu và tìm ra câu trả lời, sóng có từ những cơn gió; nhưng với câu hỏi thứ hai “khi nào ta yêu nhau” dường như người con gái bất lực không thể tìm ra câu trả lời. Điều này như một lời khẳng định sự thiêng liêng, huyền bí của tình yêu, không thể cắt nghĩa, cũng không thể lí giải.

Ở khổ thơ tiếp theo nỗi nhớ như làn sóng ào ạt ùa về: “Con sóng dưới lòng sâu/ Con sóng trên mặt nước/ Ôi con sóng nhớ bờ/ Ngày đêm không ngủ được/ Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức”. Những con sóng ào ạt xô bờ dù nằm sâu trong lòng đại dương, hay hiện hiện trên mặt nước, chúng đều có một quy luật chung là xô vào bờ. Và chính từ những con sóng của tự nhiên đó, Xuân Quỳnh liên tưởng đến sóng ở trong lòng người con gái khi yêu. Nỗi nhớ tha thiết, khắc khoải, “ngày đêm không ngủ được” thời gian đằng đẵng, nối tiếp nhau dường như không có điểm đích. Và đắc sặc nhất là cách diễn tả nỗi nhớ: “Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức”. Nỗi nhớ dường như được đẩy lên thêm một bậc cảm xúc nữa, nó không chỉ đong đếm bằng thời gian, mà còn bằng tâm khảm, tồn tại như một lẽ dĩ nhiên trong tiềm thức người con gái khi yêu, bởi vậy nó vẫn khắc khoải trong từng giấc ngủ của nhân vật trữ tình.

Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương

Trong tình yêu không tránh khỏi những chòng chành, khó khăn, sự xa xôi cách trở về không gian địa lí, nhưng không vì thế mà người con gái dễ dàng từ bỏ. Dù xuôi về bắc hay ngược về nam, người con gái vẫn sắt son, một lòng hướng về người mình yêu thương. Đây là lời khẳng định của tấm lòng thủy chung sắt son, quyết không thay đổi trước sự đổi thay của cuộc đời. Đồng thời cũng thể hiện một niềm tin mãnh liệt, tha thiết: “Ở ngoài kia đại dương/ Trăm ngàn con sóng đó/ Con nào chẳng tới bờ/ Dù muôn vàn cách trở”. Dù có muôn vàn khó khăn, bão táp nhưng khi yêu, con người có thể vượt mọi khó khăn, và chắc chắn sẽ tìm được bến bờ hạnh phúc.

“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa

Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”.

Những suy tư trăn trở về cuộc đời, chính là những phút lo âu của Xuân quỳnh về cái hữu hạn của đời người trước cái vô cùng của nhiên nhiên vũ trụ. Bởi vậy kết lại bài thơ là lời khẳng định sống tận hiến, hết mình với tình yêu. Khát vọng được tan ra, hòa nhập là khát vọng thật đẹp đẽ, cao cả. Nhưng cũng cần phải hiểu “tan ra” ở đây không đồng nghĩa với sự biến mất, mà là sự hòa quyện, dâng hiến cho tình yêu tận cùng, bỏ đi những ích kỉ cá nhân, hướng đến một tình yêu cao đẹp.

Những câu thơ cuối cùng của tác phẩm, lằn sâu kí ức nơi người đọc bởi một tình yêu chân thành, sẵn sàng dâng hiến để có được tình yêu bất tử với vũ trụ. Với sự kết hợp hài hòa hai hình tượng sóng và em Xuân Quỳnh đã đem đến cho người đọc một tuyệt tác về tình yêu và cách ứng xử nhân văn trong tình yêu.

Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng – Mẫu 14

Xuân Quỳnh nhà thơ của tình yêu và hạnh phúc đời thường. Những vần thơ của bà rất dung dị, nhưng lại diễn tả chính xác những cung bậc tình cảm, cảm xúc của người con gái khi yêu, khi có gia đình. Đó là nỗi băn khoăn, thắc thỏm, là tình yêu da diết, bùng cháy. Trong các thi phẩm của mình, ngày từ khi mới ra đời Sóng đã gây được tiếng vang lớn, với hình tượng sóng, tác giả đã góp phần thể hiện khát khao tình yêu mãnh liệt, bền bỉ của mỗi con người.

Sóng xuất hiện ngay từ nhan đề của tác phẩm. Sóng ở đây không chỉ là những lớp sóng ào ạt của biển khơi, mà con là sóng lòng trong tâm hồn con người, có lẽ đây mới là lớp sóng mà Xuân Quỳnh muốn hướng đến. Đọc cả chiều dài tác phẩm ta có thể thấy, sóng tồn tại hai lớp nghĩa song song, sóng biển và sóng là những khát vọng tình yêu, hạnh phúc của “em”.

Mở đầu bài thơ là những lớp sóng vừa dữ dội, vừa êm dịu đan cài vào nhau:

“Dữ dội và dịu êm
ồn ào và lặng lẽ

Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”

“Dữ dội” và “dịu êm”, “ồn ào” và “lặng lẽ” hàng loạt các trạng thái trái ngược nhau được diễn tả chỉ trong hai câu thơ. Đây trước hết là hình ảnh của những con sóng thật, khi dữ dội, mạnh mẽ khi lại êm đềm. Nhưng nếu chỉ có vậy, thì hình tượng sóng lại trở nên quá tầm thường. Đằng sau lớp nghĩa tả thực đó chính là những cung bậc cảm xúc của người con gái khi yêu, khi nồng nàn, tha thiết, cuồng nhiệt, có khi lại dịu dàng, êm đềm, lặng lẽ.

Người con gái không chịu bó mình trong không gian nhỏ hẹp mà vươn mình ra biển lớn để có thể lí giải mọi điều mình thắc mắc. Hành trình ấy chính là hành trình khám phá để tự hiểu mình hơn, để có thể hiểu được những khát vọng cháy bỏng đang tồn tại trong bản thân: “Nỗi khát vọng tình yêu/ Bồi hồi trong ngực trẻ”.

Giữa muôn trùng sóng biển, người con gái nghĩ về chuyện tình yêu của mình và tự hỏi: “Sóng bắt đầu từ gió/ Gió bắt đầu từ đâu/ Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau”. Nếu như sóng có thể truy nguyên được nguồn gốc, sóng bắt đầu từ những cơn gió, nhưng tình yêu em dành cho em không thể cắt nghĩa, lí giải. Xuân Diệu cũng đã từng tìm cách cắt nghĩa tình yêu: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu/ Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều/ Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt/ Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu…”. Nhưng dường như cả hai thi sĩ đều bất lực trước hành trình cắt nghĩa lí giải đó. Tình yêu là thế vừa thực, vừa hư, vừa trong tay mà phút chốc đã xã tầm với.

Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức

Đoạn thơ được Xuân Quỳnh vận dụng linh hoạt các biện pháp điệp từ, nhân hóa “sóng nhớ bờ” “ngày đêm không ở được” đã diễn tả nỗi nhớ da diết, cồn cào, mãnh liệt, có sức lan tỏa rộng trong không gian của làn sóng cũng là nỗi lòng của người con gái khi yêu. Để rồi câu thơ tiếp theo, nỗi nhớ ấy không bộc bạch qua hình ảnh ẩn dụ nữa mà chính bằng lời thổ lộ của người con gái: “Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức”. Cụm từ “cả trong mơ còn thức” thực tế là vô lí, nhưng lại là logic hợp lí trong tình yêu.

Ông cha ta đã từng nói rằng, yêu nhau “tam tứ núi cũng trèo, ngũ lục sông cũng lội, thất bát đèo cùng qua”. Có tình yêu sẽ đem lại sức mạnh cho con người vượt qua mọi khó khăn, thử thách, dù muôn vàn cách trở như phương Bắc, phương Nam cũng không thể chia tách được tình yêu đôi lứa: “Dẫu xuôi về phương Bắc/ Dẫu ngược về phương Nam/ Nơi nào em cũng nghĩ/ Hướng về anh một phương”. Và như để khẳng định thêm về tình yêu thủy chung, về hạnh phúc tất yếu của lứa đôi, Xuân Quỳnh lại tiếp tục mượn hình tượng sóng:

“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó|
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”

Trong hai khổ thơ cuối cùng, tác giả đã sử dụng sóng để nói lên những khát vọng của mình trong tình yêu: “Cuộc đời tuy dài thế/…/ Để ngàn năm còn vỗ”. Cuộc đời tuy dài rộng, tuy nhiều thăng trầm, biến đổi nhưng tình yêu nhất định sẽ còn lại mãi, và ai cũng sẽ tìm được bến bờ hạnh phúc của mình. Cấu trúc “Tuy…vẫn…” “Dẫu …vẫn” như một lần nữa khẳng định chân lí đó của Xuân Quỳnh. Khép lại bài thơ là nguyện ước chân thành của trái tim tha thiếu yêu đương, muốn được tan ra, muốn được tận hiến cho tình yêu. Tan ra ở đây không có nghĩa là mất đi mà là hòa nhập trọn vẹn trong tình yêu, và sống vững bền với tình yêu đó. Đây là mơ ước hết sức nhân văn, cao cả.

Với hình tượng sóng giàu giá trị biểu đạt, đã cho thấy sự sáng tạo của Xuân Quỳnh, tài năng nghệ thuật của bà. Thông qua hình tượng này, tác giả giãi bày một cách trọn vẹn tình yêu mạnh mẽ, táo bạo của người con gái khi yêu. Không còn là cái e ấp, rụt rè của những người con gái trong ca dao, mà là một trái tim mãnh liệt, khát khao và dám cống hiến trong tình yêu. Hình tượng sóng đã góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm.

Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng – Mẫu 15

Khi nhắc đến nhà thơ Xuân Quỳnh, người đọc sẽ nghĩ đến một nhà thơ của tình yêu. “Sóng” được coi là một trong những bài thơ tình hay nhất của chị. Khi viết bài thơ này, Xuân Quỳnh đã xây dựng hình ảnh “sóng” và “em” mang nhiều ý nghĩa.

Hình tượng “sóng” và “em” có lúc phân đôi để soi chiếu, từ đó cho thấy sự tương đồng, có lúc lại hoà nhập vào nhau để tạo nên sự âm vang, cộng hưởng. Trong tình yêu có thật nhiều cung bậc: khi lặng lẽ dịu êm, hiền hòa, êm dịu:

“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ”

Hai trạng thái đối lập này cùng tồn tại trong một thể thống nhất là “sóng”. Cách miêu tả những trạng thái bất thường của sóng gợi lên những khát vọng tình yêu trong tâm hồn đầy bí ẩn của người con gái, khi bồng bộn, sôi nổi, khi kín đáo sâu sắc, vừa đắm say vừa tỉnh táo, vừa nồng nàn, vừa âm thầm, vừa mãnh liệt vừa ngàn lần yếu mềm. Điểm gặp gỡ đồng điệu và kì lạ giữa sóng và nhân vật trữ tình “em” cho thấy “sóng” chính là ẩn dụ của “em”, của khát vọng tình yêu nhiều thao thức nhưng hạnh phúc vô bờ.

Sóng tự ngàn năm vẫn từ sông ra bể, từ giới hạn chật hẹp tới không gian rộng lớn. Nếu như “sông” không thể hiểu nổi mình, “sóng” sẵn sàng tìm ra biển lớn:

“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”

Con sóng tìm đến biển, đến đại dương là để tự hiểu mình. Còn em “khát khao” được đến bên anh, đến với một tình yêu đẹp để hiểu rõ hơn về tâm hồn em về con người đích thực của em.

Và rồi đứng trước muôn trùng sóng bể, em băn khoăn về nguồn gốc của tình yêu:

“Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?

Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”

Người phụ nữ trong tình yêu luôn trăn trở, suy nghĩ. Điệp từ “em nghĩ” đã cho thấy điều đó. “Em” khi đứng trước đại dương mênh mông, em nghĩ đến anh đầu tiên rồi mới nghĩ về biển lớn. Và em cũng tự hỏi lòng mình rằng sóng bắt nguồn từ nơi nào. Câu hỏi được đặt ra đã tự có được câu trả lời cho riêng mình: sóng bắt đầu từ những cơn gió – một cách lý giải rất thực tế. Nhưng nỗi băn khoăn vẫn không dừng lại: “Gió bắt đầu từ đâu?” thì lại không có câu trả lời. Cũng giống như tình yêu bắt nguồn từ lúc nào. Còn ông hoàng thơ tình Xuân Diệu lại từng bộc lộ:

“Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có khó gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu”

(Vì sao?)

Nếu “sóng” nhớ đến “bờ” thì “em” nhớ đến “anh”. Dù ở không gian “dưới lòng sâu” hay “trên mặt nước”, dù “ngày” hay “đêm” thì con sóng vẫn nhớ “đến bờ” mà thao thức bồn chồn đến nỗi “không ngủ được”. Xuân Quỳnh đã lấy không gian và thời gian để đo đếm nỗi nhớ trong tình yêu. Nhưng nào ai có thể đong đếm hết được nỗi nhớ? Nếu con sóng nhớ đến bờ có thể bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Thì nỗi nhớ của “em” lại vượt qua mọi khoảng cách về không gian, thời gian. Nếu sóng nhớ đến bờ thì em cũng nhớ đến anh. Nỗi nhớ ấy luôn thường trực trong tâm trí của “em”. Ngay đến trong giấc mơ cũng chẳng thể nào ngừng được. Ca dao đã từng diễn tả nỗi nhớ của những người yêu nhau:

“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi,
Như đứng đống lửa như ngồi đống than?”

Nỗi nhớ trong tình yêu đã không còn xa lạ gì, nhưng cách diễn tả của Xuân Quỳnh lại thật đặc biệt.

Đặc biệt nhất là ở khổ thơ cuối cùng:

“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàm năm còn vỗ”

Câu hỏi tu từ “Làm sao” mở đầu khổ thơ như một lời tự vấn. Sóng khát khao được tan ra để hòa vào biển lớn. Cũng giống như em khát khao được sống trọn vẹn với tình yêu. à Người phụ nữ khi yêu cũng vô cùng mãnh liệt, họ ước mong được sống trọn vẹn với từng khoảnh khắc trong tình yêu. Ở đây, Xuân Quỳnh sử dụng từ “tan ra” thể hiện nét dịu dàng của người phụ nữ, khác hẳn với cái mạnh mẽ của Xuân Diệu:

“Đã hôn rồi, hôn lại
Cho đến mãi muôn đời
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt…

Cũng có khi ào ạt
Như nghiến nát bờ em
Là lúc triều yêu mến
Ngập bến của ngày đêm”

(Biển)

Nhưng Xuân Diệu còn có ngày thôi “dào dạt”. Còn Xuân Quỳnh thì vẫn “ngàn năm còn vỗ”. Hai câu thơ cuối cùng là lời khẳng định của nhà thơ. Tình yêu của “em” sẽ tồn tại vĩnh cửu, cũng như con sóng kia đến “ngàn năm” vẫn còn vỗ.

“Sóng” và “em”, tuy hai nhưng là một, thể hiện những cảm nhận thật tình tế của Xuân Quỳnh trong tình yêu.

Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng – Mẫu 16

Xuân Quỳnh là nhà thơ của tình yêu. Các tác phẩm của chị chủ yếu viết về tình yêu với những khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường. Trong đó, “Sóng” có lẽ là bài thơ hay nhất khi nhà thơ đã xây dựng được hai hình tượng đẹp “sóng” và “em”.

Xuân Quỳnh đã xây dựng hình tượng “sóng” và “em” có lúc phân đôi để soi chiếu, từ đó cho thấy sự tương đồng, có lúc lại hoà nhập vào nhau để tạo nên sự âm vang, cộng hưởng.

Trước hết là bản tính và khát vọng của “sóng” và “em”. Hình tượng “sóng” đã khơi gợi một hồn thơ phong phú, hồn nhiên, sôi nổi và thông qua đó, Xuân Quỳnh đã có một cách nói rất hay để diễn tả tâm trạng của người con gái khi đang yêu hay đang mong chờ tình yêu. Trạng thái của con sóng cũng là tâm trạng khi yêu, là khát vọng to lớn, mạnh mẽ về một tình yêu chân thành. Hành trình của sóng từ sông ra đại dương, nó cũng dâng trào và cuồn cuộn như chính tình cảm của những cô gái đang yêu cũng nồng nàn với những nỗi nhớ, nhưng cũng có lúc nỗi nhớ nỗi khát khao ấy lại biến thành một con sóng tình, cuộn xô trong lòng họ:

“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”

Sóng thật mạnh mẽ, chủ động. Sóng muốn tìm tới một nơi mênh mông dạt dào, có đến nơi biển rộng trời cao sóng mới được vẫy vùng, mới thực sự tìm thấy mình trong sức sống mạnh mẽ với những khát khao to lớn. Nó sẵn sàng bỏ đi những thứ không thuộc về nó để đến với những nơi mà tiếng gọi của tình yêu ập tới. Sóng – biểu tượng của tình yêu, chính vì vậy miêu tả sóng biến hoá là cũng để nói lên cái phức tạp, đa dạng, khó hiểu của tình yêu.

Tiếp đến là những nỗi niềm của “em” và “sóng” về tình yêu. Để tìm đến với tình yêu đích thực, sóng tìm đến với biển lớn, sóng tìm đến với những nơi thuộc về nó. Con sóng tìm đến biển, đến đại dương là để tự hiểu mình. Em “khát khao” được đến bên anh, đến với một tình yêu đẹp để hiểu rõ hơn về tâm hồn em về con người đích thực của em. Những câu hỏi của “Em” dường như chỉ để nhấn mạnh “khi nào ta yêu nhau” mà thôi.

“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”

Đặc biệt, câu thơ “Khi nào ta yêu nhau” đã diễn tả đúng nỗi niềm của những con người đang sống trong tình yêu đẹp. Tình yêu chân thành tha thiết, nhớ bồi hồi triền miên và nó không bao giờ mất đi trong những con tim đang thổn thức. Nỗi nhớ ấy day dứt, choán đầy cả không gian, thấm trong chiều sâu, bề rộng, trải trong chiều dài thời gian:

“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”

Không chỉ vậy, đó còn là nỗi nhớ, sự thủy chung của “sóng” và “em”. Thật tự nhiên và thơ mộng, con sóng nhớ bờ nên ngày đêm sóng vỗ, sóng thao thức với thời gian và đại dương. Cũng giống như bến đợi thuyền, thuyền nhớ bến, lúc nào lòng người con gái cũng bồi hồi nhớ thương:

“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”

Tới đây tác giả không mượn hình tượng sóng nữa mà nói luôn là “Lòng em nhớ tới anh/Cả trong mơ còn thức”. Tình yêu là thế, sức mạnh tình yêu lại có một ma lực tới vậy. “Còn thức” tức là lúc nào em cũng nhìn thấy rõ hình bóng anh, ánh mắt anh. Tình yêu của người con gái thật mãnh liệt, nồng nàn. Sóng xa vời cách trở vẫn tìm được tới bờ, cũng như anh và em sẽ vượt qua mọi khó khăn để đến với nhau, để sống trong hạnh phúc trọn vẹn của lứa đôi:

“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng nhỏ
Con nào cũng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”

Người con gái đã bày tỏ lòng mình một cách chân thành, say đắm, thắm thiết. Chân thật và thuỷ chung là đặc tính của tình yêu:

“Dẫu xuôi về phương Bắc

Hướng về anh một phương”

Không những thế hình ảnh sóng còn cho ta thấy “lòng hướng về một phương” của người con gái” chỉ hướng về “phương anh”. Sự thủy chung son sắt của người con gái, khát vọng được sống hết mình trong một tình yêu đẹp, sắt son thuỷ chung. Con sóng đó cuối cùng lại nói hộ tác giả nỗi khát khao được sống trọn vẹn trong tình yêu mãi mãi không cách rời.

Cuối cùng, đó là khát vọng tình yêu vĩnh cửu của em, muốn được như con sóng tan hòa vào biển lớn: Sóng muốn hòa mình vào biển lớn cũng giống như em muốn hòa vào anh để thành một. Tình yêu lứa đôi đẹp đẽ, nồng nàn như trăm ngàn con sóng nhỏ giữa đại dương mênh mông, muốn được hòa nhịp vào biển lớn của tình yêu:

“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”

Với hình ảnh “sóng” và “em”, Xuân Quỳnh đã giúp người đọc hiểu rõ hơn tâm hồn của những người người phụ nữ đang yêu.

Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng – Mẫu 17

Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ nữ khá nổi tiếng, xuất hiện trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Xuân Quỳnh có một giọng thơ rất duyên, vừa đằm thắm, vừa dịu dàng như chính tính cách của chị.

Đề tài tình yêu luôn thu hút nhiều thi nhân. Tất cả là để tìm câu trả lời cho tình yêu là gì và tình yêu bắt đầu từ đâu. Với Xuân Diệu: Làm sao định nghĩa được Tình yêu… Xuân Quỳnh đến với thơ tình là để bày tỏ niềm khao khát về một tình yêu lý tưởng, lại vừa hướng tới một hạnh phúc đời thường giản dị và thiết thực. Hình tượng “sóng” trong bài thơ đã thể hiện thật sinh động và hấp dẫn tâm trạng của người con gái đang yêu, bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu.

Phân tích hình tượng sóng để cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu:

* Hình tượng “sóng” và “em”:

Những khổ thơ đầu tiên nhân vật trữ tình đang đối diện với sóng, cảm nhận về sóng, tìm thấy mối liên hệ giữa sóng và khát vọng tình yêu.

– Hình tượng sóng ở khổ thơ đầu mang ý nghĩa tượng trưng cho tính khí và bản lĩnh của người phụ nữ. Con sóng là hiện thân của các đối cực dữ dội – dịu êm – ồn ào – lặng lẽ. Con sóng trung thực và thẳng thắn: khi sóng không hiểu nổi mình thì con sóng tìm đến biển, đến chân trời thoáng rộng, tự do.

– Con sóng cũng tượng trưng cho khát vọng tình yêu nuôn đời của tuổi trẻ. Con sóng ngàn đời nay vẫn thế, cứ đập vỗ vô hồi vô hạn. Tình yêu cũng vậy, luôn đồng nghĩa với tuổi trẻ. Tất cả chúng tồn tại vĩnh hằng trên mặt đất này.

– Đứng trước sóng biển trùng trùng lớp lớp – nhân vật trữ tình (em) cảm nhận về nguồn gốc bí ẩn của tình yêu với hai câu hỏi: Sóng bắt đầu từ gió – gió bắt đầu từ đâu? khi nào ta yêu nhau?

Không ai có thể trả lời cặn kẽ được câu hỏi này.

Đó chính là nỗi bí ẩn của tình yêu và cũng vì càng bí ẩn nên càng say đắm, hấp dẫn hơn.

– Khi con người đối diện trước thiên nhiên rộng lớn như biển khơi rất dễ sinh ra cảm giác nhỏ nhoi, bất lực, thậm chí rơi vào cảm giác hư vô. Nhưng với tâm hồn nữ tính mang khát vọng tình yêu mãnh liệt thì Xuân Quỳnh hướng tất cả vào tình yêu trần thế.

* Hình tượng “sóng” và “em” bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ:

– Sóng tượng trưng cho nỗi nhớ của người phụ nữ khi yêu, nhớ mọi nơi (không gian) lòng sâu, mặt nước, nhớ mọi lúc (thời gian) “Ngày đêm không ngủ được”, cũng như thế em nhớ anh đến nỗi “cả trong mơ còn thức”. Nghe qua có vẻ mơ hồ, vô lý. Nhưng không, em lúc nào cũng nhớ đến anh, trong mơ, khi thức, khi ngủ, khi tỉnh, khi mơ. Nhớ chính là biểu hiện của tình yêu, khi hết nhớ, cũng là lúc tình yêu chấm dứt.

– Nhà thơ tiếp tục một cách nói rất lạ: “Dẫu xuôi về phương bắc – Dẫu ngược về phương nam”. Đây là cách nói ngược với cách nói thông thường (ngược bắc xuôi nam). Nhà thơ cố ý lạ hóa ngôn từ để gây ấn tượng. Sự tinh tế nằm ngay trong cái nghịch lí của tình yêu.

Hơn nữa, đối với em, đâu chỉ có hai phương bắc và nam, mà còn có thêm một phương anh nữa, phương này là phương của tình yêu đôi lứa, là không gian của tương tư.

– Cũng như Sóng, dù muôn vàn cách trở rồi cuối cùng cũng đến được bờ, “Em” ở đây, trên hành trình đi tìm hạnh phúc, cho dù gặp lắm chông gai, trắc trở, nhưng tin tưởng rồi “Em” cũng sẽ tới đến bến bờ hạnh phúc.

– Cuộc đời tuy dài rộng, biển tuy vô tận bao la, nhưng tình yêu vẫn được cảm nhận thật cụ thể trong từng ngày tháng. Sống trong tình yêu con người không bao giờ cảm thấy hư vô mà cuộc đời luôn mới mẻ, đầy ý nghĩa.

– Cũng như sóng giữa biển lớn tình yêu. Em cũng muốn có được một tình yêu lớn lao, bất tử. “Em” nhân vật trữ tình ở đây bỗng vụt lớn để sánh ngang với biển cả. Quả là một nỗi khao khát lớn lao và cảm động.

Quả thật, hình tượng sóng của bài thơ đã thể hiện vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu vừa tha thiết say đắm, vừa duyên dáng, nồng nàn mà vô cùng trong sáng cao đẹp của tình yêu đôi lứa muôn đời.

* Nét đặc sắc về nghệ thuật:

– Sự liên tưởng hợp lí, tự nhiên giữa đặc điểm của sóng và đặc điểm của người con gái đang yêu. Sự liên tưởng này tạo nên hai hình tượng song song, nhưng hai mà một.

– Câu thơ năm chữ với những câu ngắn, đều nhau, tạo nên một ý niệm về hình thể của các con sóng, như con sóng dâng trào nhưng có khi chậm rãi nhẹ nhàng như lúc sóng êm biển lặng.

– Nhịp điệu của các câu thơ thật đa dạng, mô phỏng cái đa dạng của nhịp sóng : 2/3 (dữ dội và dịu êm – Ồn ào và lặng lẽ). 1/2/2 (sông không hiểu nỗi mình – sóng tìm ra tận bể), 3/1/1 (Em nghĩ về anh, em), 3/2 (Em nghĩ về biển lớn – từ nơi nào sóng lên),…

– Các cặp câu đối xứng xuất hiện liên tiếp, câu sau thừa tiếp câu trước, tựa như những đợt sóng xô bờ, sóng tiếp sóng dào dạt.

– Âm điệu của bài thơ với nhiều sắc điệu đa dạng, phong phú, tạo nên vẻ tự nhiên cho bài thơ.

– Ngoài ra còn phải kể đến tính chất nữ tính trong cách diễn đạt của Xuân Quỳnh, trong cách nhìn sóng của chị: thật dịu dàng đằm thắm nhưng cũng thật dữ dội.

Sóng là hình ảnh ẩn dụ của tâm trạng người con gái đang yêu, là sự hóa thân, phân thân của cái “tôi” trữ tình của nhà thơ. Cùng với hình tượng “Sóng”, không thể không xem xét nó trong mối tương quan với “Em”.

– Hình tượng sóng trước hết được gợi ra từ âm hưởng dào dạt, nhịp nhàng của bài thơ. Đó là nhịp của những con sóng trên biển cả liên tiếp, triền miên, vô hồi, vô hạn. Đó là âm điệu của một nỗi lòng đang tràn ngập, đang khát khao tình yêu vô hạn, đang rung lên đồng điệu, hòa nhập với sóng biển.

– Qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã diễn tả vừa cụ thể vừa sinh động nhiều trạng thái, tâm trạng với những cung bậc tình cảm khác nhau trong trái tim của người phụ nữ đang rạo rực khao khát yêu đương. Mỗi trạng thái tâm hồn cụ thể của người con gái đang yêu đều có thể tìm thấy sự tương đồng của nó với một khía cạnh, một đặc tính nào đó của sóng.

Qua bài thơ Sóng, ta có thể cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu. Người phụ nữ ấy mạnh bạo, chủ động bày tỏ những khát khao yêu đương mãnh liệt và những rung động rạo rực trong lòng mình. Người phụ nữ ấy thủy chung, nhưng không còn nhẫn nhục cam chịu nữa. Nếu “sóng không hiểu nổi mình” thì sóng dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp đó để “tìm ra tận bể”, đến cái cao rộng, bao dung..Đó là những nét mới mẻ ” hiện đại” trong tình yêu.

Tâm hồn người phụ nữ đó khao khát, không yên lặng. “Vì tình yêu muôn thuở – có bao giờ đứng yên” (Thuyền và Biển). Nhưng đó cũng là một tâm hồn thật trong sáng, thủy chung vô hạn. Quan niệm tình yêu như vậy rất gần gũi với mọi người và có gốc rễ trong tâm thức dân tộc.

**********************

Trên đây là 17 bài văn mẫu phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng hay chọn lọc. Hy vọng sẽ là tài liệu hữu ích phụ vụ các em trong quá trình làm bài và hoàn thành tốt bài phân tích theo giọng văn của mình.

Đăng bởi: Trường Trung Cấp Nghề Thương Mại Du Lịch Thanh Hoá

Chuyên mục: Giáo Dục

Bản quyền bài viết thuộc Trường Trung Cấp Nghề Thương Mại Du Lịch Thanh Hoá. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: https://tmdl.edu.vn/phan-tich-hinh-tuong-song-trong-bai-tho-song/

Trang chủ: tmdl.edu.vn
Danh mục bài: Giáo dục

Lương Sinh

Lương Sinh là một tác giả đầy nhiệt huyết trong lĩnh vực giáo dục, ngoại ngữ và kiến thức. Với hơn 10 năm kinh nghiệm làm việc trong ngành, cô đã tích lũy được rất nhiều kiến thức và kỹ năng quan trọng. Với tình yêu với ngôn ngữ và mong muốn chia sẻ kiến thức, Lương Sinh đã quyết định sáng lập blog tmdl.edu.vn. Trang web này không chỉ là nơi chia sẻ những kinh nghiệm và kiến thức cá nhân của cô, mà còn là một nguồn thông tin hữu ích cho những người quan tâm đến giáo dục, kiến thức và ngoại ngữ. Đặc biệt là tiếng Anh và tiếng Trung Quốc.
Back to top button