Phân tích thái độ của nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù với 5 bài văn mẫu hay nhất sẽ giúp các em cảm nhận rõ thái độ của Huấn Cao trong tác phẩm. Đồng thời sẽ giúp các em trau dồi vốn từ để hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình.
Đề bài: Phân tích thái độ của nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù
Bạn đang xem bài: Phân tích thái độ của nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù
1. Phân tích thái độ của nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù, mẫu số 1:
Chữ người tử tù là một tác phẩm xuất sắc nhất trong tập truyện ngắn Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân. Để hiểu truyện này, thiết tưởng phải nắm được đôi nét về nghệ thuật chơi chữ truyền thống.
Từ xa xưa, ở Trưng Quốc, cũng như ở một số nước lân cận ít nhiều đã từng dùng chữ nho như Nhật Bản, Việt Nam. Trong giới trí thức đều có tập quán chơi chữ. Người có tài viết chữ đẹp rất được kính trọng. Chữ nho là một thứ văn tượng hình, viết bằng bút lông mềm mại, viết chữ mà tựa hồ như vẽ một bức tranh. Và cá tính người viết cũng thể hiện trong nét bút. Người ta thường mua chữ hoặc xin chữ. Người cho chữ hoặc bán chữ viết lên bức tranh.. để chủ nhân làm vật trang trí trong nhà. Chữ phải “vẽ” đẹp đã đành, mà ý nghĩa của chữ cũng phải sâu sắc, hợp tình, hợp cảnh… Đây thực chất là một tác phẩm mỹ thuật của người nghệ sĩ, vừa có tài “vẽ” chữ, vừa có khả năng thấu hiểu ý nghĩa rủa chữ. Bộ môn nghệ thuật này gọi là thư pháp.
Ở Việt Nam, thời phong kiến, Cao Bá Quát được coi là một trong những nghệ sĩ thư pháp đầy tài hoa.
Nguyễn Tuân đã dựa vào nguyên mẫu Cao Bá Quát, một con người có bản lĩnh kiên cường, “lãnh tụ một cuộc khởi nghĩa của nông dân” lại là một bậc tài hoa lỗi lạc chữ viết đẹp, giỏi thơ phú, để xây dựng hình tượng Huấn Cao – một nhân vật khí phách kiên cường, nhân cách cao thượng và rất đỗi tài hoa. Thông qua vẻ đẹp của viên quản ngục, Nguyễn Tuân khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng đối với cái xấu xa thấp hèn.
Huấn Cao trước hết là người hết sức tự trọng, “không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”, “tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. Ấy là một con người sống hiên ngang bất khuất, “chọc trời khuấy nước”, có “hoài bão tung hoành”, “đến cái cảnh chết chém” ông cũng chẳng sợ. Ông khinh bỉ sâu sắc những người đại diện cho quyền lực thống trị. Dưới mắt ông, chúng chỉ là một lũ “tiểu nhân thị oai”. Do đó tuy dưới quyền cai quản của chúng, ông vẫn cố tình tỏ ra khinh bạc. Ông xuất hiện lần đầu tiên trước viên quản ngục bằng hành động vỗ cái gông nặng 7,8 tạ xuống thềm đá tảng, “đánh huỳnh một cái”, và “lãnh đạm”, “không thèm chấp”. Khi nghe lời dọa dẫm của tên áp giải thế rồi, sau khi quản ngục khép nép hỏi Huấn Cao: “ngài có cần gì thêm nữa xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu cấp”. Ông đã trả lời với thái độ đầy khinh bỉ: “người hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn mật điều. Là ngươi đừng đặt chân vào đây”. Theo ông chỉ có “thiên lương” (bản chất tốt đẹp của con người, và tình yêu cái đẹp, cái cao thượng, với tấm lòng “biệt nhỡn, liên tài”) mới là đáng quý. Kiêu sa là thế, nhưng đến khi hiểu được tấm lòng của quản ngục, Huấn Cao chẳng những vui lòng nhận lời cho chữ, mà còn chân thành thốt lên: ta cảm cái lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây là lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ.
Và sau khi cho chữ xong, Huấn Cao còn vỗ về khuyên bảo quản ngục, như người cha khuyên bảo con: “tôi bảo thực đấy, thầy quản nên tìm về quê mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Như vậy theo ông Huấn, cái đẹp không thể chung sống với cái xấu xa thấp hèn và con người chỉ có thể thưởng thức được cái đẹp, nếu như giữ được bản chất trong sáng.
Huấn Cao còn là con người hết sức tài hoa. Ông có “tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp”, chữ ông “đẹp lắm, vuông lắm”, đến nỗi viên quản ngục coi việc xin được chữ của ông là “có một vật báu trên đời”.
Hình tượng Huấn Cao càng trở nên lộng lẫy bởi tư thế hiên ngang đường hoàng đúng là tư thế của người anh hùng. Với bản chất kiên cường, cho dù đã sa cơ thất thế (bị giam giữ chờ ngày ra pháp trường), Huấn Cao vẫn có tư thế ung dung, tự tại của một người “chọc trời khuấy nước” coi khinh cái chết. Trong tù, ông vẫn thản nhiên ăn thịt uống rượu “coi đó là một việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh”. Như vậy, tuy bị giam cầm về thể xác, ông Huấn vẫn hoàn toàn tự do về mặt tinh thần.
Đoạn cho chữ ở cuối truyện có thể coi là đoạn hay nhất, kết tinh nghệ thuật của toàn tác phẩm. Qua đoạn này, hình ảnh ông Huấn Cao càng trở nên uy nghi, lẫm liệt giữa một cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”. Ở đây thủ pháp đối được sử dụng đầy hiệu quả thẩm mĩ: việc cho chữ vốn là một việc thanh cao, một sáng tạo nghệ thuật với lụa trắng, với lụa thơm, với nét chữ tươi tắn lại được tiến hành trong một vùng tối chật hẹp ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián. Kì lạ hơn nữa là sự đối lập giữa hình ảnh kì vĩ của người tù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” chỉ sáng mai sẽ bị giải vào kinh chịu án tử hình đang ung dung phóng chữ tô chữ tài hoa trên tấm lụa bạch như một nghệ sĩ hoàn toàn tự do, tự chủ với hình ảnh so le của thầy thơ lại “run run bưng chậu mực” và hình ảnh viên quản ngục khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ, rồi chấp tay vái người tù, “nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ răng làm cho nghẹn ngào: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh!”. Chính sự đối lập dường như phi lí này đã tạo ra cảnh tượng mà tác giả gọi là “xưa chưa từng có”, trong nhà tù nhưng cái lạ hơn lại là ở chỗ: té ra giữa chốn tù ngục bạo tàn này không phải những kẻ đại diện cho quyền lực thống trị làm chủ. Đây là sự chiến thắng của cải đẹp, cái tài hoa và nhân cách đối với xấu xa nhơ bẩn. Ý nghĩa tư tưởng của thiên truyện là ở đấy. Huấn Cao là một nhân vật siêu phàm thường thấy trong văn học lãng mạn. Ở nhân vật này, chữ “tài” và chữ “tâm” kết hợp hài hòa với nhau. Ông cũng như nhiều nhân vật chính diện của Nguyễn Tuân trong Vang bóng một thời, nhất thiết phải là một con người tài hoa. Song, Huấn Cao còn có vẻ đẹp của một con người đầy khí phách và có trách nhiệm đối với thời cuộc (không phải như nhiều nhân vật khác trong Vang bóng một thời, đành chỉ biết tiêu hao ngày tháng bên chén trà ly rượu đế giải sầu..).
Con người như thế quả là một “thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”, là “cái thuần khiết giữa một đống cặn. Lúc đầu, hai người nghi kị lẫn nhau, nhưng cái đẹp và tình yêu cái đẹp đã làm cho họ hiểu nhau. Bên trong con người công cụ ấy của chính quyền tàn bạo, là một tâm hồn nghệ sĩ. Con người khúm núm trước cái đẹp này, thực ra cũng không thiếu sự dũng cảm ngang tàng. Bằng việc xin chữ người tử tù, ông ta chứng tỏ có thể chết vì nghệ thuật (nếu việc bị bại lộ).
Nhiều người có định kiến Nguyễn Tuân trước cách mạng là một cây bút duy mĩ nghệ thuật vì nghệ thuật. Chữ người tử tù có thể coi là một bằng chứng để bác bỏ định kiến ấy. Qua các nhân vật Huấn Cao và viên quan ngục, ta thấy tác giả không hề đối lập tài với tâm, cái đẹp với thiên lương trong sạch của con người. Huấn Cao tin rằng “một kẻ biết kính mến khí phách, một kẻ biết tiếc, biết trọng người có tài hẳn không phải là kẻ xấu hay vô tình”. Và một khi cái đẹp, cái tài, cái tâm không bị tách rời, thì nghệ thuật cảm hóa con người, dù phải sống trong bùn như viên quản ngục nhưng thật sự yêu cái đẹp thì vẫn không mất khả năng hướng thiện.
******Hết bài 1******
Như vậy chúng tôi đã gợi ý cho các em bài văn mẫu Phân tích thái độ của nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù. Bên cạnh đó, các em có thể tìm đọc bài Phân tích nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù để có những cảm nhận sâu sắc và toàn diện về vẻ đẹp và nhân cách của nhân vật này.
2. Phân tích thái độ của nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù, mẫu số 2:
Chữ người tử tù là truyện ngắn in trong tập Vang bóng một thời, xuất bản năm 1940. Đây là tác phẩm xuất sắc thể hiện rõ nhất quan niệm của Nguyễn Tuân về Cái Đẹp. Huấn Cao, nhân vật chính của truyện là một con người siêu việt, một nhân cách trong sáng. Qua sự thay đổi thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục, người đọc hiểu rõ hơn tâm hồn phong phú, cao quý của con người tài hoa ấy.
Ngay từ đầu tác phẩm, qua cuộc trao đổi giữa viên quản ngục và thầy thơ lại, Nguyễn Tuân đã giới thiệu Huấn Cao như một nhân vật đặc biệt, ông là người văn võ kiêm toàn, có tài viết chữ Hán nhanh và đẹp nổi tiếng khắp tỉnh Sơn. Huấn Cao bị vua quan coi là kẻ cực kì nguy hiểm, dám cầm đầu “quân phiến loạn” chống lại triều đình.
Vừa có khí phách ngang tàng, vừa tài hoa thông tuệ, Huấn Cao quả là một tử tù đặc biệt. Có lẽ do cảm phục tài năng và nghĩa khí của Huấn Cao qua lời đồn đại nên viên quản ngục đã dành cho ông thái độ ưu ái khác thường. Ngày ngày, viên quản ngục sai thầy thơ lại mang rượu thịt xuống buồng giam tử tù cho Huấn Cao. Trước sự biệt đãi đó, thái độ Huấn Cao có những biến đổi khá phức tạp và chính sự thay đổi đó cho chúng ta hiểu rõ hơn về tâm hồn và tính cách của ông.
Những ngày đầu trong ngục tối, thái độ Huấn Cao hoàn toàn dửng dưng và khinh bạc trước sự săn sóc quá đầy đủ ấy: Suốt nửa tháng, ở trong buồng tối, ông Huấn Cao vẫn thấy một người thơ lại gầy gò, đem rượu đến cho mình uống trước giờ ăn bữa cơm tù với một thái độ cực kì lễ phép: Thầy quản chúng tôi có ít quà mọn này biếu ngài dùng cho ấm bụng. Trong buồng đây lạnh lắm… Ông Huấn Cao vẫn thản nhiên nhận rượu thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình, lúc chưa bị giam cầm. Đến khi viên quản ngục đích thân xuống buồng giam, lễ độ, cung kính tôn xưng Huấn Cao là người có nghĩa khí và xin ông cho biết có cần gì thêm thì cứ nói để lo cho chu tất thì Huấn Cao đáp lại một cách trịch thượng: Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây. Đó là thái độ bất cần của một người anh hùng khí phách ngang tàng, không khuất phục trước cường quyền: Ông Huấn đã đợi một trận lôi đình báo thù và những thủ đoạn tàn bạo của quan ngục bị sỉ nhục. Đến cảnh chết chém, ông còn chẳng sợ nữa là những trò tiểu nhân thị oai này.
Nhưng không như ông Huấn Cao nghĩ, viên quản ngục khi nghe xong câu trả lời, y chỉ lễ phép lui ra với một câu: “Xin lĩnh ý”. Và từ hôm ấy, cơm rượu lại vẫn đưa đến đều đều và có phần hậu hơn trước nữa. Ông Huấn càng ngạc nhiên nữa: năm bạn đồng chí của ông cũng đều được biệt đãi như thế cả.
Nhiều khi, ông bận tâm nghĩ đến sự tươm tất của viên quản ngục và cho rằng hẳn là viên quản ngục muốn dò đến những điều bí mật của ta, nhưng không phải, vì ông đã khai hết bên ti Niết cả rồi. Ngoài thái độ khinh bạc, lạnh lùng, ông Huấn Cao còn phải bận tâm nghĩ đến sự tươm tất của quản ngục.
Giữa chốn ngục tù tăm tối, tấm lòng của viên quản ngục được Nguyễn Tuân ví như thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ. Có lẽ, sự dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quản ngục đã làm Huấn Cao động lòng.
Sự hiểu lâm và thái độ khinh bạc của Huấn Cao đối với viên quản ngục mất hẳn trong một tình huống đầy kịch tính: Một buổi chiều lạnh, viên quản ngục tái nhợt người đi sau khi tiếp đọc công văn. Quan Hình bộ Thượng thư trong Kinh bắt giải ông Huấn Cao và các bạn đồng chí của ông vào Kinh. Pháp trường lập ở trong ấy kia. Ngày mai, tinh mơ, sẽ có người đến giải tù đi. Viên quản ngục vốn đã tin được thầy thơ lại, cho lính gọi lên, kể rõ tâm sự mình. Thầy thơ lại cảm động nghe xong chuyện, nói: “Dạ bẩm, ngài cứ yên tâm, đã có tôi”. Rồi chạy ngay xuống phía trại giam ông Huấn, đấm cửa buồng giam, hớt hơ hớt hải kể cho tử tù nghe rõ nỗi lòng viên quản ngục, và ngập ngừng báo luôn cho ông Huấn biết việc về Kinh chịu án tử hình.
Sau khi nghe thầy thơ lại hớt hải bày tỏ ước nguyện tha thiết của quản ngục, Huấn Cao đã thay đổi hẳn thái độ. Lúc này, Huấn Cao mới vỡ lẽ vì sao có những hành động đối xử lạ lùng của thầy trò viên quản ngục và đồng thời nhận ra rằng viên quản ngục là hạng người biết quý Cái Đẹp. Ông Huấn Cao lặng nghĩ một lát rồi mỉm cười: “Về bảo với chủ ngươi, tối nay, lúc nào lính canh trại về nghỉ, thì đem lụa, mực, bút và một bó đuốc xuống đây rồi ta cho chữ.
Chữ thì quý thực. Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà phải ép mình viết câu đối bao giờ. Đời ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân của ta thôi. Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy Quản đây lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đi phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”, ông cảm động thực sự trước viên quản ngục có tấm lòng biệt nhỡn liên tài, biết thưởng thức thú chơi chữ đẹp và trân trọng người sáng tạo ra Cái Đẹp. Trong câu nói của Huấn Cao với thầy thơ lại có chút ân hận và tự trách về sự hiểu lầm trước đó.
Ngay đêm hôm ấy, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã diễn ra ở chốn ngục tù. Đó là cảnh Huấn Cao cho chữ. Cái ẩm ướt, tăm tối của buồng giam tương phản với vẻ trang trọng, thanh cao của những nét chữ đẹp tươi do Huấn Cao viết ra và sự thăng hoa từ tâm hồn của hai kẻ tri âm. Cũng bởi yêu mến tính cách của viên quản ngục nên Huấn Cao đã dành cho ông ta lời khuyên chân thành và thấm thía: Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi… Thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đã… Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi.
Lần này là lần thứ tư và cũng là lần cuối cùng trong đời Huấn Cao cho chữ. Ông tự biết giá trị những chữ do mình viết ra là rất quý. Ba lần trước, ông cho chữ ba người bạn thân. Lần này, ông cho chữ kẻ mà trước đây chỉ ít phút, ông căm ghét và khinh miệt. Vậy điều gì đã xảy ra trong tâm hồn ông, khiến ông đi đến quyết định cho chữ quý? Lòng tự trọng của Huấn Cao đã gặp lòng trân trọng của viên quản ngục. Không phải chỉ là sự hiểu biết mà còn là sự thông cảm, hơn nữa là sự kính trọng đã nâng viên quản ngục lên vị trí của một bậc tri kỉ, một tấm lòng liên tài hiếm có trong thiên hạ. Chính điều đó làm cho Huấn Cao cảm động sâu sắc.
Cảnh ông Huấn Cao cho chữ vừa lạ, vừa đẹp như một ảo ảnh, một ánh hào quang không phải của thế giới này mà của cõi nào trong thần thoại – một cảnh tượng xưa nay chưa từng có: Trong một không khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ. Khói bốc tỏa cay mắt, họ dụi mắt lia lịa. Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực. Thay bút con, đề xong lạc khoản, ông Huấn Cao thở dài, buồn bã đỡ viên quản ngục đứng dậy và đĩnh đạc bảo:
– Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét chữ vuông vắn tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người… Tôi bảo thực đấy: Thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi.
Lửa đóm cháy rừng rực, lửa rụng xuống nền đất ẩm phòng giam, tàn lửa tắt nghe xèo xèo.
Ba người nhìn bức châm, rồi lại nhìn nhau.
Ngục quan cảm động, vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” Lúc trước, ba người chưa hiểu nhau, nhưng trong thời khắc đặc biệt này, họ gặp nhau ở một điểm chung là tấm lòng tha thiết yêu mến và trân trọng Cái Đẹp – Cái Đẹp chữ viết đi đôi với Cái Đẹp tâm hồn.
Sự thay đổi đột ngột trong thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục là hoàn toàn hợp lí, phù hợp với con người và tính cách của ông. Tại sao trước sự biệt đãi của viên quản ngục, Huấn Cao lại thản nhiên đến lạnh lùng? Có lẽ viên quản ngục là người hiểu ông Huấn hơn cả nên không lấy làm oán thù thái độ của ông Huấn. Y cũng thừa hiểu những người chọc trời khuấy nước đến trên đầu người ta cũng còn chẳng biết là có ai nữa, huống chỉ cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù. Bản chất ngang tàng, cứng cỏi của Huấn Cao uy vũ và tiền bạc không sao mua chuộc, lung lạc nổi thì sá gì sự đãi ngộ ít ỏi chốn lao tù! Huấn Cao giữ mình bởi ông chưa hiểu gì về viên quản ngục, ông cảnh giác đề phòng những âm mưu, mánh khóe thâm độc mà ông từng biết. Hơn nữa, giữa Huấn Cao và viên quản ngục có một khoảng cách rất lớn. Đó là khoảng cách giữa một kẻ tử tù và một kẻ đại diện cho cường quyền, bạo lực. Sâu xa hơn là khoảng cách giữa người tài cao đức trọng và kẻ tài thiểu đức sơ trong bậc thang giá trị. Trong hoàn cảnh ấy, thái độ cao ngạo, khinh bạc ban đầu của Huấn Cao là hợp lí. Thái độ ấy không làm cho viên quản ngục nổi giận mà ngược lại, càng khâm phục và kính nể Huấn Cao hơn.
Nếu như Huấn Cao không thay đổi thái độ đối với viên quản ngục thì đến cuối truyện, chắc hẳn vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao không trọn vẹn. Nhưng Nguyễn Tuân đã không làm như vậy mà ông muốn Huấn Cao trở thành biểu tượng của Cái Đẹp toàn thiện toàn mĩ. Khi biết được ước nguyện của viên quản ngục, Huấn Cao đã vô cùng cảm kích. Sự chuyển biến trong thái độ của Huấn Cao cho chúng ta thấy rõ hơn phẩm chất cao thượng của ông. Ngoài tài năng và khí phách hơn người, Huấn Cao còn là một nhân cách lớn, biết nhìn nhận và trân trọng vẻ đẹp tâm hồn, dù vẻ đẹp ấy khuất lấp ở chốn không dành cho nó. Sự thay đổi đột ngột trong thái độ của Huấn Cao là điều dễ hiểu, vì ông đã nhận ra tấm lòng biệt nhỡn liên tài, sự dịu dàng và biết trọng người ngay của viên quản ngục. Mặt khác, Huấn Cao vốn có thiên lương trong sáng, có cái tâm tha thiết với con người, với cuộc đời cho nên sự gặp gỡ, đồng cảm giữa ông và viên quản ngục là điều tất yếu.
Sự thay đổi thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục có một ý nghĩa quan trọng trong tác phẩm. Qua đó, chúng ta hiểu sâu hơn bản chất cao quý của Huấn Cao. Ngoài tài năng, khí phách, Huấn Cao còn có một tâm hồn đẹp, một nhân cách cao quý. Chiều hướng tích cực trong cách nhìn nhận, đánh giá của Huấn Cao cho thấy viên quản ngục cũng là người đáng nể trọng. Đúng như nhận xét của Nguyễn Tuân, viên quản ngục là thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ. Tấm lòng biệt nhỡn liên tài, ý thức bảo vệ, gìn giữ Cái Đẹp như một báu vật ở đời của viên quản ngục quả là hiếm hoi trong xã hội phong kiến suy tàn thời ấy.
Thái độ của Huấn Cao trước sau có khác: trước cao ngạo, lạnh nhạt, sau thân mật, ân cần nhưng vẫn giữ phong thái đĩnh đạc, ung dung, độ lượng của một bậc chính nhân quân tử đối với nét đẹp trong phẩm cách con người, dù là nhỏ nhất, dù ở hoàn cảnh trớ trêu nhất. Thiên truyện chấm dứt bằng lời nói rưng rưng nghẹn ngào nhiều ý nghĩa của viên quản ngục.
Nguyễn Tuân đã thành công khi đặt hai nhân vật Huấn Cao và viên quản ngục cạnh nhau. Hai nhân vật này bổ sung tính cách và soi sáng cho nhau để tôn vinh giá trị trường tồn của Cái Đẹp trong tác phẩm.
Với tập truyện Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân đã đạt được ước nguyện khi tìm về và trân trọng ca ngợi những vẻ đẹp tinh thần truyền thống của dân tộc. Tác phẩm Chữ người tử tù của ông đã để lại dấu ấn không thể phai mờ trong lòng người đọc, trong đó hình tượng Huấn Cao tượng trưng cho vẻ đẹp lí tưởng mà con người tôn thờ và luôn khát khao vươn tới.
Viết Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân có ngụ ý sâu xa gì nữa không? Điều chắc chắn là tác giả muốn nói lên nỗi tiếc nuối khôn nguôi của mình đối với một con người tài giỏi, nghĩa khí, một nhân cách lớn lao ở cái thời đất nước suy vong. Đồng thời, ông cũng kín đáo lồng vào đó nỗi đau chung cho cả dân tộc đang trong vòng nô lệ, tất cả những gì tốt đẹp, tài ba trong đời đều bị lũ thực dân, đế quốc chà đạp, vùi dập một cách bạo tàn.
3. Phân tích thái độ của nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù, mẫu số 3:
Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam từ trước đến nay. Những tác phẩm của ông thường có nhiều thành công lớn về nghệ thuật. Bên cạnh bút pháp lãng mạn, thủ pháp tương phản,… nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng tạo một ấn tượng khó phai mờ, góp phần vào sự thành công của truyện ngắn. Điều đó được thể hiện sinh động qua tâm lí nhân vật chính của thiên truyện – nhân vật Huấn Cao, đặc biệt là diễn biến thái độ của ông đối với nhân vật viên quản ngục.
Huấn Cao là nhân vật được xây dựng với tất cả niềm yêu mến, quý trọng của tác giả. Đó là một người anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất, tài hoa vô song “có tài viết chữ”, văn võ song toàn. Chỉ vì không chịu bị giam cầm trong xã hội nhiều bất công ngang trái mà cùng nhân dân khởi nghĩa chống lại triều đình. Kết cục, ông đành lỡ dở một đời tài hoa anh dũng, bị giam vào chốn ngục tù.
Bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật của mình, tác giả đã xây dựng lên không gian hết sức khác lạ, đó là ngục tù, chính tại chốn ngục từ này là nơi “lí tưởng” để diễn ra cuộc đối đầu giữa hai luồng tư tưởng – hai thế lực thù địch: một bên là những quan lại quản ngục đại diện cho chính quyền phong kiến thối nát, bảo thủ, tàn ác đương thời; một bên là những kẻ “nổi loạn”, những tên “giặc cỏ” – những người anh hùng vì bất mãn cường quyền mà đứng lên khởi nghĩa. Hiểu rõ điều đó hơn ai hết, ban đầu Huấn Cao đã tỏ rõ khí khái tiết nghĩa bằng thái độ coi thường miệt thị viên quản ngục. Nhưng hỡi ôi, sự đời vẫn vốn trái ngang như thế. Thối nát, bảo thủ, tàn ác là từ dùng cho ai kia, nó không hoàn toàn đúng với viên quản ngục tỉnh Sơn, nơi Huấn Cao bị giam.
Xây dựng nhân vật viên quản ngục, người đọc tưởng chừng sẽ được gặp nhân vật trái ngược hoàn toàn với Huấn cao, ngược lạiViên quản ngục lại là một người có tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” rất mến phục, sùng bái tài viết chữ đẹp của Huấn Cao và thực sự là kẻ còn lại chút “thiên lương”. Cùng với hình tượng nhân vật Huấn cao, viên quản ngục hiện lên thật đẹp, thật đáng khâm phục cho con người có tấm lòng cao đẹp. Dẫu ở giữ chốn quan trường hiểm ác, giữ cái sống và cái chết nhưng viên quan ngục vân thức tỉnh được lương tâm của mình.
Sau khi nhận ra điều ấy, Huấn Cao bằng tất cả sự cao đẹp của nhân cách một nhà nho chân chính đã cúi mình xuống, nâng dậy và phủi bụi cho một linh hồn đang trên bờ vực của tội lỗi. Huấn Cao dành những dòng chữ cuối đời mình tặng cho viên quản ngục, dành tiếng nói nhân tình vọng lên từ sâu thẳm tâm hồn khuyên giải viên quản ngục nhắc ông quay về với thiên lương.
Diễn biến thái độ ấy của Huấn Cao là một quá trình biện chứng phức tạp. Lần đầu tiên “ra mắt” những quản ngục tỉnh Sơn, Huấn Cao đã có một thái độ, việc làm đầy thách thức: “rỗ mạnh gông”. Trong cái “rỗ mạnh” rất tự nhiên ấy ẩn chứa một thái độ khinh bạc: gông cùm của các người có là gì? ta rỗ gông đuổi rệp, và các ngươi chẳng khác chi lũ rệp bám đen mặt đất kia. Vào trong nhà giam rồi, thái độ của ông vẫn không hề nhún nhường uốn mình hơn. Trong khi viên quản ngục vì tấm chân tình tội nghiệp mà hết lòng ưu ái cho ông và các bạn đồng chí thì ông luôn luôn ra mặt: “khinh bạc đến điều”. Khi viên quản ngục đến gặp ông trong nhà giam “khép nép” hỏi: “Ngài muốn gì xin cho biết tôi sẽ cố gắng chu cấp” thì lạnh lùng trả lời: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Ông rất ung dung nơi bùn lấy khắc nghiệt ấy, thái độ này tất đã nằm trong toan tính của Huấn Cao: ông càng tỏ ra ung dung bao nhiêu càng tỏ lòng khinh bạc lũ “tiểu lại giữ tù” bấy nhiêu, chúng chằng hề làm ông lo sợ, chúng đang bị mất hết uy quyền.
Có thể nói, thái độ trên đây của Huấn Cao đối với viên quản ngục là một tất yếu. Bởi ông chưa được rõ nỗi trái ngang trong số phận người quản ngục. Trong suy nghĩ của ông lúc này, hắn là đại diện cho cái chính quyền ông thù ghét: hắn là kẻ thù của ông. Mà Huấn Cao, con người ông đâu chỉ tài năng xuất chúng, ông còn tiêu biểu cho nhân cách và khí phách người anh hùng. Ông đã xả thân vì đại nghĩa, cái chết còn coi nhẹ như lông hồng thì sao lại sợ kẻ giữ từ hèn mọn? Ông là con người đầy tự trọng “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình (…) bao giờ”. Câu nói khẳng khái ấy khiến ta nghĩ đến ý thơ thanh cao của Cao Bá Quát “Nhất sinh đê thủ bái hoa mai”, hay cái nhếch mép “Coi khinh nghìn lực sĩ” của Lỗ Tấn hay cái ý niệm sâu xa “Người đàn ông chỉ có thể quỳ trong hai trường hợp: Để uống nước nguồn và để hái hoa”. Với một nhân cách cao khiết như vậy, trong mắt Huấn Cao, ông chỉ coi viên quản ngục là kẻ tiểu nhân lê bước theo cái chính quyền suy mạt ông căm ghét: tất thảy bọn chúng chỉ là kẻ đáng khinh, đáng coi thường mà thôi!
Thái độ này của Huấn Cao càng khiến người đọc cảm phục ông hơn nữa. Không cúi đầu trước ác quyền, tà lực; biết ghét cái ác đến tận cùng, điều đó chỉ có ở những con người có cái tâm rực rỡ như ánh dương, sáng trong nhưnước ngọt đầu nguồn và thanh cao như bông mai đầu núi. Nếu câu chuyện đi theo chiều hướng ấy thì cũng đã rất hay. Nhưng ngòi bút Nguyễn Tuân không muốn tuân theo những thói thường của cuộc sống(ông là một nhà văn đầy cá tính mà!). Viên quản ngục của Nguyễn Tuân thực chất không giống những viên quản ngục thông thường. Ông lại là một tâm hồn nhiều uẩn khúc kì lạ. Hiểu rõ con người ấy, Huấn Cao lại có một thái độ khác hẳn, hoàn toàn ngược lại lúc ban đầu.
Ông đã thấy ân hận vì “biết đâu một người như thầy quản lại có tấm lòng biệt nhỡn liên tài”, vì “thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”. Do đó, dù là một người rất “khoảnh” “trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ” thì nay, những dòng chữ cuối cùng của đời mình ông dành tặng người quản ngục. Chẳng những vậy, ông còn coi người ấy như chỗ tri âm đưa lời khuyên giải. Đoạn văn miêu tả cảnh cho chữ, ban lời trong tác phẩm gây nhiều niềm rung cảm cho người đọc, xứng đáng là một trong những áng văn đẹp nhất của văn học Việt Nam.
Đó quả thực là “Cảnh tượng xưa nay chưa từng thấy”. Nguyễn Tuân đã tập trung bút lực, tài năng, và sự bay bổng vào cảnh này. Viết chữ, cho chữ, chiêm ngưỡng chữ thánh hiền… Cảnh tượng ấy vốn chỉ dẫn ra nơi thư phòng trang nghiêm, trịnh trọng của những người học rộng tài cao. Còn chốn ngục từ kia nơi “buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột phân gián tưởng chỉ là nơi tận đáy cùng xã hội nhơ nhớp tanh hôi”.
Nhưng vào cái đêm khuya thanh vắng trước ngày Huấn Cao về kinh chịu tội, việc cho chữ thiêng liêng đã diễn ta tại nơi mịt mù tăm tối kia. Ở đây, người cho chữ là con nợ rất mực tài hoa, người nhận chữ là viên quản ngục – người mà xã hội vốn chỉ coi là kẻ đi bên lề cuộc đời sinh động cao cả này. Tâm thế người cho chữ – người tù trong sáng bay bổng thanh cao cùng cái đạo chữ thánh hiền mặc thể xác bị giam cầm “cổ đeo gông chân vướng xiềng”. Người quản ngục “run run” khúm núm như đối nhận sự gia ơn của người tử tù.
Đêm sâu thăm thẳm, nhà lao âm u tĩnh mịch giữa đêm đen đặc quánh, sánh lại thứ âm khí tội lỗi, oan khiên tù ngục, bất ngờ rực lên ánh sáng của bó đuốc tẩm dầu đỏ rực bừng lên, “mùi mực tàu” thơm ngát. Ánh sáng của bó đuốc, mùi thơm của mực tàu hay chính là ánh sáng, hương thơm của nhân cách khí phách, của cái thần con chữ thánh hiền, ánh sáng rực rỡ của bó đuốc soi tỏ “ba cái đầu chụm lại” trên vuông lụa trắng tinh “còn nguyên vẹn lần hồ”. Cảnh tượng thiêng liêng và trang trọng quá! Bóng tối không làm tắt đi ngọn đuốc, màn đêm không phủ được màu trắng tinh của lụa, và sự hôi tanh của phân gián phân chuột không ngăn được mùi thực ngào ngạt tỏa lên ướp hương, tẩm vị vào tâm hồn con người.
Cao, tiếng nói của cái đẹp…, tiếng nói khuyên con người về với các Thiện “ở đây lẫn lộn ta khuyên thầy… về quê không ở đây nhem nhuốc” cả tâm hồn nhân phẩm. Và người quản ngục chỉ có thể nghẹn ngào một tiếng “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Vậy là cái Đẹp đã cảm hoá cái xấu, cái ác và nói như Đôtxtôiepki “Cái Đẹp đã cứu vớt nhân thế”. Không gian im lìm tĩnh mịch, nếu có âm thanh vang lên thì đó là tiếng nói của Huấn Lời khuyên chân tình của Huấn Cao “ở đây không phải chốn treo tấm lụa” còn khẳng định một điều: Cái Đẹp không thể sống chung, sống cùng, sống lần lộn với cái ác, cái xấu.
Sau câu nói của Huấn Cao, không gian tĩnh lặng. Tĩnh lặng để cho cái Thiện, cái Đẹp bồi hồi ngân vang… Và khi ấy, Huấn Cao, người quản ngục, từ thế đối lập đã hòa vào nhau chỉ còn niềm tôn kính vô bờ trang trọng với cái Đẹp, cái Thiện của cuộc đời này.
Sự thay đổi trong thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục thực ra không có điều gì bất ngờ và phi li. Bởi thực tế Huấn Cao là người khí phách nhưng viên quản ngục không phải hoàn toàn xấu xa. Huống hồ họ lại gặp nhau nơi lòng yêu mến, tôn sùng cái Đẹp. Vì vậy, ta có thể hiểu con đường họ đi từ thế đối lập đến sự hòa hợp trong sự toả hương của con chữ thiên lương. Không chỉ vậy, trong nhân cách Huấn Cao, ông còn là con người đầy tinh tế, độ lượng, biết trọng người có thiên lương. Ông vì cảm một tấm lòng mà cho chữ kẻ tội đồ của cái Thiện. Nơi tù ngục, lúc cuối đời ông đâu ngờ lại gặp được một tâm hồn tri âm, tri kỉ!
Miêu tả thành công diễn biến thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục, Nguyễn Tuân đã tô đậm vẻ đẹp nhân cách cho nhân vật ông yêu mến. Đó thực là hình mẫu lí tưởng cho một con người tài hoa, khí phách, độ lượng – một biểu tượng hoàn mĩ cho cái Đẹp, cái Thiện. Qua sự đổi thay trong tâm lí nhân vật, nhà văn cũng khẳng định một điều: cái Thiện có thể sinh ra từ cái ác (thiên lương cho người quản ngục được ban tặng chốn ngục tù) nhưng không thể sống chung, sống lẫn lộn cùng cái ác (Huấn Cao từng khinh thường viên quản ngục vì nghĩ nhầm đó là kẻ ác rồi sau đó khuyên ông rời chốn lao tù thì mới bảo toàn được “thiên lương”).
Huấn Cao là một hình tượng văn học hoàn mĩ đẹp đẽ nhất từ trước đến nay trong văn học nước nhà. Nhưng hình tượng ấy không hề cứng nhắc hoặc lí tưởng hóa trong ngòi bút của nhà văn. Ngược lại nó vô cùng sinh động bởi có một diễn biến tâm tư lôgic, biện chứng. Điều đó càng khẳng định thành công của Chữ người tử tù và thêm một lần ngợi ca tài năng có một không hai của tác giả Nguyễn Tuân trong nền văn học Việt Nam vốn hiếm những hình tượng văn học như thế.
Huấn Cao trong chữ người tử tù hiện lên thật đẹp, thật đáng khâm phục. Dù trong hoàn cảnh khó khăn khắc nghiệt, cái chết cận kề nhưng vị anh hùng này vẫn chấp nhận, vẫn anh dũng kiên cường. Hình ảnh của nhân vật như là tấm gương cho thế hệ chúng ta suy nghĩ là làm theo.
4. Phân tích thái độ của nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù, mẫu số 4:
Có thể khẳng định trong nền văn học Việt nam Nguyễn Tuân là một người có tên tuổi lớn: “Nói đến Nguyễn Tuân mà chỉ cần gọi gọn ghẽ là nhà văn theo ý nghĩa thông thường đầy vinh dự của chữ đó e vẫn thấy thiêu thiếu thế nào. Nguyễn Tuân đó là một hiện tượng văn hóa phong cách. Con người ông, phong cách của ông cũng đẹp một cách độc đáo như câu văn ông. Một câu văn một không hai trong nghệ thuật ngôn từ Tiếng Việt” (Phan Huy Chú). Thật vậy, Nguyễn Tuân không chỉ góp một phong cách mà ông còn góp được cho văn học Việt nam những tác phẩm hay. Tiêu biểu trong sáng tác của ông là tác phẩm chữ người tử tù. Đặc biệt qua đó ta thấy được nhân vật Huân Cao không chỉ anh hùng tài giỏi mà ông còn là người rất mực trân trọng thiên lương mà cụ thể ở đây là tấm thiên lương của viên quản ngục.
Truyện kể về nhân vật anh hùng Huấn cao dám một mình đứng lên chống lại triều đình phong kiến. Chính bởi lẽ ấy mà chúng ta thấy được những phẩm chất và tính cách của nhân vật. Huấn Cao là một người không những anh hùng mà lại còn rất có tài nữa mà cái tài ấy chính là tài viết đẹp. Bên cạnh nhân vật Huấn Cao ấy thì ta cũng thấy được một nhân vật cũng đáng quý ấy chính là nhân vật viên quản ngục. Hai người ấy trên lĩnh bình diện xã hội hoàn toàn trái ngược nhau. Thế nhưng họ lại đồng điệu với nhau trong nghệ thuật. Viên quản ngục ấy mến cái tài viết chữ của Huấn Cao có sở nguyện cao quý rằng một ngày kia xin được chữ của Huấn Cao mà treo trong nhà. Cái sở nguyện cao quý cũng như tôn trọng cái đẹp kia phần nào thể hiện được quan niệm của nhà văn về cái đẹp. Có thể nói trong văn Nguyễn Tuân cái đẹp luôn thăng hoa ở mọi lúc mọi nơi mọi hoàn cảnh. Chính cái sở nguyện cao quý của viên quan ngục cũng như sự “ích kỉ” không cho chữ của Huấn Cao đã nói lên điều đó. Không những thế truyện còn mang đến cho chúng ta về vẻ đẹp của cái thiện, cái thiên lương của con người. Tuy nhiên quá trình để cho Huấn Cao thấy được tấm thiên lương của viên quan coi ngục cũng như quá trình để viên quản ngục đạt được sở nguyện cao quý ấy lại là những diễn biến khá dài. Thế nhưng thái độ của Huấn Cao với sự biệt đãi của viên quản ngục như thế nào?. Diễn biến thái độ đó ra sao?.
Trước hết là khi Huấn Cao mới bị bắt và được đưa đến nhà giam nơi quan coi ngục này chịu trách nhiệm cai quản. thế nhưng khi ấy Huấn Cao còn tỏ ra rất lạnh lùng và khinh thường viên quản ngục ấy. Đó là khi ông chưa biết được thiên lương của viên quan coi ngục, ông nghĩ rằng viên quan coi ngục kia cũng cùng một ruộng với triều đình và đều là đáng khinh. Về phía quan coi ngục ngay từ khi biết tin Huấn Cao được giải giam tại đây thì ông vui mừng khi gặn được người mà mình kính trọng nể phục. ông tiếp rượu thịt cho Huấn Cao và cho Huấn Cao vào một nhà giam riêng. Huấn Cao không những không cảm kích mà cho rằng viên quan coi ngục đang có âm mưu gì. Huấn Cao cũng nghĩ đến việc viên quan coi ngục hạ độc mình trong những rượu thịt mang đến nhưng ông không sợ vì khi ông đã xác định vào đây thì cũng sẽ bị chết chỉ là sớm hay muộn thôi. Thế cho nên cứ mang đến thì Huấn Cao lại ăn uống no say. Viên quan coi ngục như ngỏ ý mình, ông quan tâm hỏi han Huấn Cao thì Huấn Cao lại đáp lại bằng những câu nói và ánh mắt khinh bỉ như đuổi viên quan coi ngục ra khỏi mình. Có thể nói trong chính Huấn Cao ông không hề mảy may đến những quan tâm đặc biệt của viên quản ngục một chút nào. Trong cái nhà ngục tối tăm ấy Huấn Cao khinh thường tất cả cái gì là của triều đình phong kiến lạc hậu. Và chính thế mà viên quan coi ngục kia cũng không thể nào mà có thể lọt qua mắt hay làm động lòng của người anh hùng ấy.
Qua đây ta thấy như vậy khi mới đến ngục thì Huấn Cao không có một chút chú ý nào đến những người quanh đây mà cụ thể là viên quan coi ngục. Đó là một thái độ khinh bỉ của Huấn Cao dành cho viên quan ngục. vậy thì khi hiểu ra thì thái độ của Huấn Cao với viên quan kia như thế nào?.
Sau bao lâu Huấn Cao đã làm cho viên quản ngục thấy buồn may thay có thầy thơ lại nói cho Huấn Cao hiểu chứ không thì Huấn Cao sẽ đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ. Chữ Huấn Cao rất quý vì thế ông vốn khoảnh ngoài bạn thân ra thì ông cho ai chữ bao giờ. Thế nhưng khi nghe thầy thơ lại nói về tâm tư nguyện ước của viên quan coi ngục thì Huấn Cao bằng lòng cho ngay. Nghe chuyện mà Huấn Cao không khỏi thốt lên ” Suýt chút nữa thì ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Từ câu nói đó ta có thể thấy thái độ của Huấn Cao với viên quan coi ngục đã khác đi. Huấn Cao không còn khinh bỉ nữa mà còn trân trọng những con người thiên lương như thế.
Khi ông quyết định cho chữ, ba người trong phòng giam với sự đối lập của không gian và cảnh tượng cho chữ vẻ đẹp như thăng hoa. Và cũng chính vì thế mà con người cũng gần nhau hơn. Huấn Cao không còn miệt thị khinh bỉ viên quan coi ngục nữa mà ông lại gần viên quan hơn. Ông dậm tô nét chữ để tặng cho viên quan ngục như chính lời mà ông muốn dành cho viên quan coi ngục. Không những thế khi cho chữ xong thì Huấn Cao còn khuyên viên quan coi ngục nên về quê nếu cứ ở đây thì mất cái thiên lương trong sáng ấy mất. Có thể thấy Huấn Cao đang coi viên quan coi ngục như những người thân, người bạn của mình mà khuyên thật lòng.
Qua đây ta thấy qua những hoàn cảnh khác nhau Huấn Cao biểu thị thái độ của mình với viên quan coi ngục rất rõ. Đó không chỉ là những thái độ mà nó còn thể hiện những ý nghĩa nhất định. Mà tiêu biểu trong những ý nghĩa đó là sự trân trọng thiên lương của người xưa.
5. Phân tích thái độ của nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù, mẫu số 5:
Nguyễn Tuân là người tài hoa hơn người, văn chương của ông cũng từ cái tài hoa đó mà sản sinh ra. Dựa vào một hình tượng có thật của Việt Nam- Cao Bá Quát, Nguyễn Tuân đã tạo dựng được câu chuyện về người tử tù có tên là Huấn Cao – một nhân vật khí phách kiên cường, nhân cách cao thượng và rất đỗi tài hoa. Thông qua vẻ đẹp của viên quản ngục, Nguyễn Tuân khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng đối với cái xấu xa thấp hèn.
Thái độ của Huấn Cao cũng chính là cái nhìn của tác giả về mọi thứ xung quanh cũng là cách đánh giá của tác giả về những chân lí trong cuộc sống, về cái đẹp cái thiện .Huấn Cao trước hết là người hết sức tự trọng, “không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”, “tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. Ông coi chữ là thứ vô cùng quý giá và chữ ấy không phải ai muốn ông đều cho, theo ta nghĩ nếu cho chữ mà không đung người thì chẳng khác gì tự mình làm mất đi giá trị của thứ mình quý trọng bấy lâu. Ông là một con người sống hiên ngang bất khuất, “chọc trời khuấy nước”, có “hoài bão tung hoành”, “đến cái cảnh chết chém” ông cũng chẳng sợ.Huấn Cao đặc biệt khinh bỉ những người đại diện cho quyền lực thống trị. Dưới mắt ông, chúng chỉ là một lũ “tiểu nhân thị oai”.
Vì vậy, tuy dưới quyền cai quản của chúng, ông vẫn cố tình tỏ ra khinh bạc. Xuất hiện trước mặt viên quản ngục khi gõ gông nặng 7,8 tạ ,”đánh huỳnh một cái”, và “lãnh đạm”, “không thèm chấp”. Sau khi quản ngục khép nép hỏi Huấn Cao: “Ngài có cần gì thêm nữa xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu cấp”. Huấn Cao trả lời với một giọng điệu đầy khinh bỉ: “người hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn một điều. Là ngươi đừng đặt chân vào đây”. Ông không muốn không gian xung quanh ông bị chính những cái thấp hèn , những con người chỉ biết cung phụng cho những tầng lớp trong xã hội cũ có thể quấy rầy mình. Tâm hồn ông rất thanh cao nhưng ông cũng là người khẳng khái không sợ uy lực của cái xấu. Kiêu sa là thế, đến khi hiểu được tấm lòng của viên quản ngục , Huấn Cao chẳng những vui lòng nhận lời cho chữ, mà còn chân thành thốt lên: ta cảm cái lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây là lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ.
Không những cho chữ, những lời khuyên răn chân thành của Huấn Cao giành cho viên quản ngục quả là một người có tấm lòng nhân hậu độ lượng: “tôi bảo thực đấy, thầy quản nên tìm về quê mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Ta nhận ra được một triết lí,một triết lí mà cho tới tận bây giờ nó vẫn giữ nguyên giá trị:’cái đẹp không thể chung sống với cái xấu xa thấp hèn và con người chỉ có thể thưởng thức được cái đẹp, nếu như giữ được bản chất trong sáng”. Ý tứ sâu xa của Huấn cao thật hay thật sâu sắc
Huấn Cao còn là con người hết sức tài hoa, đến nỗi viên quản ngục coi việc xin được chữ của ông là “có một vật báu trên đời”. Hình tượng Huấn Cao càng trở nên lộng lẫy bởi tư thế hiên ngang đường hoàng đúng là tư thế của người anh hùng. Với bản chất kiên cường, cho dù đã sa cơ thất thế Huấn Cao vẫn có tư thế ung dung, tự tại của một người “chọc trời khuấy nước” coi khinh cái chết. Khi ở trong tù, ông vẫn thản nhiên ăn thịt uống rượu “coi đó là một việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh”.
Đoạn cho chữ ở cuối truyện có thể coi là đoạn hay nhất, kết tinh nghệ thuật của toàn tác phẩm. Nguyễn Tuân đã sử dụng thủ pháp đối được sử dụng đầy hiệu quả thẩm mĩ: việc cho chữ vốn là một việc thanh cao, một sáng tạo nghệ thuật với lụa trắng, với lụa thơm, với nét chữ tươi tắn lại được tiến hành trong một vùng tối chật hẹp ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián. Hơn thế đó là sự đối lập giữa hình ảnh kì vĩ của người tù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” đang ung dung phóng chữ tô chữ tài hoa trên tấm lụa bạch như một nghệ sĩ hoàn toàn tự do, tự chủ với hình ảnh của thầy thơ lại “run run bưng chậu mực” và hình ảnh viên quản ngục khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ, rồi chấp tay vái người tù, “nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ răng làm cho nghẹn ngào: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh!”.. Đây là sự chiến thắng của cải đẹp, cái tài hoa và nhân cách đối với xấu xa nhơ bẩn. Ý nghĩa tư tưởng của thiên truyện là ở đấy. Ở nhân vật này, chữ “tài” và chữ “tâm” kết hợp hài hòa với nhau. Ông cũng như nhiều nhân vật chính diện của Nguyễn Tuân trong Vang bóng một thời, nhất thiết phải là một con người tài hoa. Song, Huấn Cao còn có vẻ đẹp của một con người đầy khí phách và có trách nhiệm đối với thời cuộc.
Huấn Cao được ví như “thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”, nổi bật lên giữa bao nhiêu thứ hỗn tạp chính là một âm trong trẻo không bao giờ dứt. Bên trong con người công cụ ấy của chính quyền tàn bạo, là một tâm hồn nghệ sĩ.
Tác phẩm “Chữ người tử tù” với hình tượng của Huấn Cao và thái độc của ông, diễn biến tâm lí và tính cách của ông thay đổi thay từng chặng. Qua các nhân vật Huấn Cao và viên quan ngục, ta thấy tác giả không hề đối lập tài với tâm, cái đẹp với thiên lương trong sạch của con người. Tuy trong một hoàn cảnh vô cùng oái oăm, nhưng khi cái đẹp, cái tài, cái tâm không bị tách rời, thì nghệ thuật cảm hóa con người, dù phải sống trong bùn như viên quản ngục nhưng thật sự yêu cái đẹp thì vẫn không mất khả năng hướng thiện.
*****************
Qua bài viết trên, các em cũng đã phần nào nắm được những chi tiết chính cần có trong bài phân tích thái độ của nhân vật Huấn Cao đối với viên quản ngục trong Chữ người tử tù. Tiếp theo, các em nên tìm hiểu bài Phân tích tâm trạng của các nhân vật trong Hạnh phúc của một tang gia, Phân tích quá trình tha hoá và thức tỉnh của Chí Phèo, Phân tích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài,…, để ôn tập kiến thức, học tốt hơn môn Ngữ văn lớp 11.
Đăng bởi: Trường Trung Cấp Nghề Thương Mại Du Lịch Thanh Hoá
Chuyên mục: Giáo Dục
Bản quyền bài viết thuộc Trường Trung Cấp Nghề Thương Mại Du Lịch Thanh Hoá. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: https://tmdl.edu.vn/phan-tich-thai-do-cua-nhan-vat-huan-cao-trong-truyen-ngan-chu-nguoi-tu-tu/
Trang chủ: tmdl.edu.vn
Danh mục bài: Giáo dục