Đề bài: Tìm hiểu bài Việt Bắc, Tố Hữu
Bạn đang xem bài: Tìm hiểu bài Việt Bắc, Tố Hữu
Tìm hiểu bài Việt Bắc, Tố Hữu
Xem thêm: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Bài mẫu: Tìm hiểu bài Việt Bắc, Tố Hữu
A. Mục tiêu bài học:
– Cảm nhận được một thời kì cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, nhất là nghĩa tình gắn bó thắm thiết của những người kháng chiến với Việt Bắc, với nhân dân, đất nước; qua đó thấy rõ: từ tình cảm thủy chung truyền thống của dân tộc, Tố Hữu đã nâng lên thành một tình cảm mới, in đậm nét thời đại, đó là ân tình cách mạng – một cội nguồn sức mạnh quan trọng tạo nên thắng lợi của cách mạng và kháng chiến.
– Nắm vững phương thức diễn tả và tác dụng của bài thơ: nội dung trữ tình chính trị được thể hiện bằng một hình thức nghệ thuật đậm đà tính dân tộc, có sức tác động sâu xa, làm dào dạt thêm tình yêu quê hương đất nước trong tâm hồn mỗi người Việt Nam.
B. Nội dung bài học:
I. Tiểu dẫn:
1. Hoàn cảnh sáng tác:
Việt Bắc là quê hương của cách mạng, là căn cứ địa vững chắc của cuộc kháng chiến, nơi đã che chở, đùm bọc Đảng, Chính phủ trong những năm kháng chiến gian khổ.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được kí kết ( tháng 7 – 1954 ), hòa bình trở lại, miền Bắc nước ta được giải phóng. Một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra.
Tháng 10 – 1954, các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Nhân sự kiện thời sự có tính lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc để ôn lại một thời kì kháng chiến gian khổ mà hào hùng, thể hiện nghĩa tình sâu nặng của những con người kháng chiến đối với nhân dân Việt Bắc, với quê hương Cách mạng. Việt Bắc là tác phẩm xuất sắc của thơ Tố Hữu nói riêng và thơ Việt Nam hiện đại nói chung trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp.
2. Bố cục tác phẩm:
Bài thơ chia làm 2 phần:
– Phần đầu: tái hiện một giai đoạn gian khổ, vẻ vang của cách mạng và kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc nay đã trở thành những kỉ niệm sâu nặng trong lòng người.
– Phần cuối: nói lên sự gắn bó giữa miền ngược và miền xuôi trong một viễn cảnh hòa bình tươi sáng của đất nước và kết thúc bằng lời ngợi ca công ơn của Bác, của Đảng đối với dân tộc.
3. Vị trí đoạn trích:
Đoạn trích gồm phần đầu và một số đoạn tiêu biểu ở phần sau.
II. Đọc văn bản:
Kết cấu của bài thơ:
– Bài thơ kết cấu theo lối đối đáp quen thuộc của ca dao, dân ca. Nhưng ở đây không chỉ là lời hỏi, lời đáp mà còn là sự hô ứng và đồng vọng. Lời đáp không chỉ nhằm giải đáp cho những điều đặt ra của lời hỏi mà còn là sự tán đồng, làm cụ thể và phong phú thêm những ý tình trong lời hỏi, có khi trở thành lời đồng vọng ngân vang những tình cảm thủy chung.
– Đây là lời chia tay, lời chào từ biệt của một người cán bộ để từ biệt Việt Bắc về xuôi. Gọi Việt Bắc là mình – gọi những người thân thiết, yêu quý, gần gũi – nhưng tác giả đã lồng vào đây một tình cảm mới của những người chia tay có tình nghĩa mặn nồng.
– Sáng tạo của tác giả: có khi ta và mình là hai nhân vật kẻ ở, người đi nhưng có khi lại tráo đổi cách xưng hô, biến hóa linh hoạt, chuyển hóa đa nghĩa, vừa là chủ thể, vừa là đối tượng, hòa nhập làm một để gợi không khí ca dao, làm cho tình cảm giữa người ra đi với người ở lại, giữa người cán bộ với người dân Việt Bắc thêm gần gũi, thân mật, tự nhiên, chân tình. Hai đại từ này được Tố Hữu sử dụng rất biến hóa: Mình về mình có nhớ ta( mình: người cán bộ ; ta: người Việt Bắc ), Ta về mình có nhớ ta ( ta: người cán bộ ; mình: người Việt Bắc ), Mình đi mình lại nhớ mình ( mình – hai chữ đầu: người cán bộ ; mình: người Việt Bắc),…
Tác giả đã sử dụng sáng tạo, linh hoạt từ mình, khi chỉ bản thân mình, khi lại chỉ người khác thân thiết như chính mình. Khi lại phân thân, hóa thânđể tâm trạng được bộc lộ đầy đủ hơn trong sự hô ứng, đồng vọng, vang ngân. Nhưng cuối cùng vẫn là khẳng định tình cảm thắm thiết, keo sơn không thể tách rời giữa những người kháng chiến và nhân dân, đất nước.
– Bằng một âm điệu ngọt ngào, êm ái, trở đi trở lại nhịp nhàng như lời ru, bài thơ đưa người đọc vào thế giới tâm tình đằm thắm đầy ân nghĩa. Trong không khí ấy, mọi cảnh vật thiên nhiên và khung cảnh sinh hoạt của con người, cho đến các hoạt động kháng chiến đều đậm đà ý vị tình nghĩa, bao bọc trong ánh hồi quang của hoài niệm với nỗi nhớ thiết tha, tất cả tạo nên một không gian – thời gian tâm tưởng cho bài thơ.
III. Đọc hiểu văn bản:
1. Vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Bắc qua hồi tưởng của tác giả:
a. Vẻ đẹp thiên nhiên, núi rừng Việt Bắc:
– Không gian ở đây là cảnh vật của núi rừng Việt Bắc, có những vẻ đẹp riêng biệt độc đáo khác hẳn với những miền quê khác. Cảnh ấy được tái hiện lên trong nỗi nhớ của người cán bộ đã gắn bó lâu năm với Việt Bắc.
– Vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc hiện lên với những vẻ đẹp đa dạng trong thời gian và không gian khác nhau như sương sớm, nắng chiều, trăng khuya, trong các mùa thay đổi,…
– Cảnh thiên nhiên bốn mùa Việt Bắc:
+ Mùa đông nhớ màu xanh của núi rừng Việt Bắc, nhớ màu đỏ tươicủa hoa chuối như những ngọn lửa thắp sáng rừng xanh:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Màu xanh của rừng, màu đỏ tươi của hoa chuối, màu sáng lấp lánh của nắng ánh từ con dao; màu sắc ấy hòa hợp với nhau, làm nổi bật sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của thiên nhiên Việt Bắc, con người Việt Bắc đang làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời kháng chiến. Tố Hữu đã có một cái nhìn về sức mạnh tinh thần làm chủ tập thể của nhân dân ta do cách mạng và kháng chiến mang lại. Người lao động sản xuất thì hào hùng đứng trên đèo cao ngập nắng và lộng gió.
+ Mùa xuân nhớ hoa mơ nở trằng rừng. Chữ trắng là tính từ chỉ màu sắc được chuyển thành bổ ngữ nở trắng rừng, gợi lên một thế giới hoa mơ bao phủ khắp mọi cánh rừng Việt Bắc màu trắng trong sáng, thanh khiết mênh mông và bao la:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón truốt từng sợi giang
+ Mùa hè với tiếng ve kêu làm nên khúc nhạc rừng, là nhớ màu vàngcủa rừng phách:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Tiếng ve kêu là âm thanh nhưng lại được tác giả cảm nhận bằng sắc màu vàng rực, sóng sánh đổ loang cả rừng phách. Từ đổ diễn tả sự thay đổi luân phiên về thời gian, một chữ đổ rất tài tình. Tiếng ve kêu như trút xuống, đổ xuống thúc giục ngày hè trôi nhanh, làm cho rừng phách thêm vàng.
+ Mùa thu lại nhớ trăng ngàn:
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Người cán bộ kháng chiến về xuôi nhớ vầng trăng Việt Bắc giữa rừng thu, trăng rọi qua tán lá rừng xanh, trăng thanh mát rượi màuhòa bình nên thơ. Câu thơ đã gợi lên sắc màu thanh bình, thơ mộng trong ánh sáng dịu dàng của ánh trăng sáng sau chín năm kháng chiến.
Tác giả đã miêu tả vẻ đẹp tự nhiên của núi rừng Việt Bắc gắn với các mùa cụ thể, mỗi mùa lại có những đặc trưng riêng biệt để tạo nên một bức tranh tứ bình về cảnh sắc thiên nhiên tươi sáng, mơ mộng và gợi cảm của núi rừng Việt Bắc.
– Cảnh còn gắn bó với những kỉ niệm thương nhớ vơi đầy của nhà thơ: những bản làng mờ trong sương sớm, những bếp lửa hồng đêm khuya, những núi rừng sông suối với những cái tên thân thuộc. Tất cả hiện lên lung linh đầy ắp những kỉ niệm của tác giả.
b. Vẻ đẹp con người Việt Bắc:
– Nhận xét chung: cứ một câu lục tả cảnh thì một câu bát tả con người.Như vậy, giữa con người và cảnh vật có mối quan hệ khăng khít, giao hòa.
– Con người được miêu tả là những con người rất bình thường, nhỏ bé, gắn với những công việc lao động cụ thể nhưng rất giàu ý nghĩa:
+ Nhớ người đi nương, đi rẫy dao gài thắt lưng trong thế mạnh mẽ, hào hùng đứng trên đèo cao nắng ánh,… Con dao của người đi nương đi rẫy phản quang nắng ánh rất gợi cảm: Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
+ Nhớ người thợ thủ công đan nón chuốt từng sợi giang. Chuốt nghĩa là làm bóng lên những sợi giang mỏng manh. Có khéo léo, kiên nhẫn, tỉ mỉ mới có thể chuốt từng sợi giang để đan thành những chiếc nón, chiếc mũ phục vụ kháng chiến, để anh bộ đội đi chiến dịch cóánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan. Người đan nón được nhà thơ nói đến tiêu biểu cho vẻ đẹp tài hoa, tính sáng tạo của đồng bào Việt Bắc.
+ Nhớ cô em gái hái măng một mình – mặc dù hái măng một mìnhnhư vậy nhưng vẫn không cảm thấy lẻ loi, vì cô đang lao động giữa khúc nhạc rừng, hái măng để góp phần nuôi quân. Cô gái hái măng là một nét vẽ trẻ trung, yêu đời trong thơ Tố Hữu.
+ Nhớ người mẹ nắng cháy lưng – hình ảnh người mẹ chịu thương chịu khó, lam lũ, vất vả.
+ Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung – Ai là đại từ nhân xưng phiếm chỉ, nhớ ai là nhớ về tất cả, về mọi người dân Việt Bắc giàu tình nghĩa thủy chung, đã hi sinh quên mình cho cách mạng và kháng chiến.
-> Hình ảnh con người được nhà thơ khắc họa có sự đan cài, gắn bó khăng khít với thiên nhiên và hình ảnh con người gắn với những công việc bình thường, cụ thể nhưng họ vẫn là những con người làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời. Bằng những việc làm nhỏ bé ấy, bình thường ấy thì họ đã góp phần tạo nên sự thắng lợi to lớn, vĩ đại của cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc.
– Hình ảnh con người còn gắn với những kỉ niệm nặng nghĩa ân tình ( đây chính là sự lí giải của tác giả về cội nguồn dẫn đến chiến thắng của dân tộc ):
+ Đó là sức mạnh của tình nghĩa thủy chung của những tháng ngày đồng cam cộng khổ:
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Cái đẹp nhất là ở nghĩa tình của con người, ở sự san sẻ, cùng chung mọi gian khổ và niềm vui, cùng ghánh vác nhiệm vụ. Nghĩa tình càng đẹp hơn trong cuộc sống gian nan, thiếu thốn, càng sắt son, thấm thía trong khó khăn thử thách.
+ Đó là cuộc sống gian khổ nhưng vẫn tràn đầy niềm vui và tinh thần lạc quan:
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo
* Tóm lại, đoạn thơ Tố Hữu viết về thiên nhiên và con người Việt Bắc là đoạn thơ tràn đầy tình cảm nhớ nhung, thương mến. Điệp từ nhớ sao, nhớ từng vang lên tạo một âm điệu ngọt ngào, bồi hồi, diễn tả một nỗi nhớ dào dạt, vơi đầy của tác giả khi nói tới cảnh và người Việt Bắc. Cảnh và người gắn bó thân thiết như khắc họa nỗi nhớ riêng biệt về một vùng rừng núi trong kháng chiến với bao nghĩa tình.
2. Khung cảnh Việt Bắc trong kháng chiến:
– Khái quát cảnh Việt Bắc trong những năm kháng chiến, bao trùm âm hưởng sử thi:
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng
Điệp từ núi, rừng kết hợp với thủ pháp nhân hóa Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù như đã tạo nên một bức tường thành vững chắc, sức mạnh đoàn kết giữa con người và thiên nhiên.
– Nỗi nhớ những địa danh cụ thể trong kháng chiến:
Ai về ai có nhớ không ?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị – Hà…
Những địa danh như Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Cao – Lạng, Nhị – Hà,… đều gắn với những chiến công lẫy lừng trong cuộc kháng chiến.
+ Ai về ai có nhớ không ? – câu hỏi phiếm chỉ với đại từ ai, hình như không hỏi riêng một người nào mà là hỏi tất cả những người đã từng gắn bó với Việt Bắc. Một câu hỏi gợi nhiều lưu luyến bâng khuâng, đậm đà tình nghĩa.
+ Điệp từ nhớ: một từ nhớ để hỏi mà có đến năm từ nhớ hô ứng trả lời. Nỗi nhớ bao trùm tất cả, nhớ đèo, nhớ sông, nhớ phố, nhớ những trận đánh đẫm máu, nhớ những chiến công oai hùng của một thời oanh liệt.
Nhớ trận Phủ Thông, đèo Giàng, với những lưỡi mác và ngọn giáo búp đa, anh bộ đội Cụ Hồ trong tư thế dũng sĩ lẫm liệt đã làm cho giặc Pháp bạt vía kinh hồn những năm đầu kháng chiến.Nhớ sông Lô là nhớ chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947:
Tàu giặc đắm sông Lô
Tha hồ mà uống nước
Máu tanh đến bây giờ
Chưa tan mùi bữa trước
( Cá nước )
Nhớ phố Ràng là nhớ trận công kiên chiến có pháo binh tham gia vào cuối năm 1949, đánh dấu bước trưởng thành trong kháng chiến của quân ta, để từ đó tiến lên đánh lớn và thắng lớn trong chiến dịch Biên giới giải phóng Cao Bằng, Lạng Sơn.
Nhớ từ … nhớ sang là nỗi nhớ dạt dào, mênh mông, nhớ tha thiết, bồi hồi.
-> Đoạn thơ như một nỗi nhớ bao trùm, trải rộng với những địa danh Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Cao Lạng, Nhị Hà,… như những trang kí sự chiến trường nối tiếp xuất hiện, để lại bao tự hào trong lòng người đọc về bước đi lên của lịch sử dân tộc trong thời đại Hồ Chí Minh. Có biết bao máu đổ xương rơi, bao chiến sĩ anh hùng ngã xuống mới có thể đưa ra những tên núi, tên sông, tên đèo vào lịch sử, thơ ca dân tộc.
– Tám câu thơ tiếp:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay
Nghìn đên thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
+ Bài thơ tràn đầy âm hưởng anh hùng ca, mang dáng vẻ một sử thi hiện đại, bởi vì chỉ cần phác họa khung cảnh hùng tráng ở Việt Bắc, Tố Hữu đã cho thấy khí thế vô cùng mạnh mẽ, hào hùng của cả một dân tộc đứng lên chiến đấu vì Tổ quốc độc lập, tự do:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Hai câu thơ gợi được không gian rộng lớn ( Những đường Việt Bắc) và thời gian đằng đẵng ( Đêm đêm ) của cuộc kháng chiến vĩ đại, trường kì. Khí thế xung trận được cảm nhận bằng âm thanh rầm rập – từ láy tượng thanh này không chỉ diễn tả được tiếng động mạnh của bước chân mà còn giúp người đọc hình dung được nhịp độ khẩn trương, gấp gáp của một số lượng người đông đảo cùng hành quân về một hướng, tất cả tạo thành một sức mạnh tổng hợp là rung chuyển cả mặt đất. Tác giả đã dùng hình ảnh so sánh cường điệuĐêm đêm rầm rập như là đất rung để nêu bật sức mạnh đại đoàn kết của quân dân ta quyết tâm chiến đấu bảo về độc lập, tự do.
Qua không gian rộng lớn, thời gian đằng đẵng, khí thế hào hùng ở Việt Bắc có thể thấy rõ cuộc kháng chiến chống Pháp là trường kì, gian khổ nhưng dân tộc Việt Nam không nhụt chí, trái lại vẫn vững vàng, kiên cường, chung sức chung lòng đưa cuộc kháng chiến tới thắng lợi.
+ Hai câu tiếp theo miêu tả cụ thể hình ảnh bộ đội ta hành quân ra trận:
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Đó là một hình ảnh vừa hào hùng vừa lãng mạn. Từ láy điệp điệp trùng trùng khắc họa đoàn quân đông đảo bước đi mạnh mẽ nhưnhững đợt sóng dâng trào, đợt này nối tiếp đợt kia tưởng chừng kéo dài đến vô tận. Tuy trang bị vật chất còn thiếu thốn ( chiến sĩ phải độimũ nan đan bằng tre lợp vải ) nhưng đoàn quân điệp điệp trùng trùngchính là hình ảnh tượng trưng cho sự trưởng thành vượt bậc của quân đội ta, của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến. Trong những đêm dài hành quân chiến đấu ấy, ở đầu mũi súng của người lính ngời sáng ánh sao, đó là ánh sao sáng hiện thực trong đêm tối hay là một hình ảnh ẩn dụ: ánh sao của lí tưởng chỉ đường dẫn lối cho người chiến sĩ đánh đuổi kẻ thù bảo vệ độc lập, tự do cho Tổ quốc. Hình ảnh ấy gợi liên tưởng tới hình ảnh đầu súng trăng treo trong bài thơĐồng chí của Chính Hữu. Có điều nếu ánh trăng trong bài Đồng Chílà hình ảnh tượng trưng cho khát vọng hòa bình, cho vẻ đẹp yên ấm của quê hương, thì ánh sao ở bài thơ này lại là biểu tượng của lí tưởng, của niềm lạc quan chiến thắng trong tâm hồn người lính ra trận.
+ Không chỉ có bộ đội ra trận mà nhân dân ta ở bất kì nơi đâu cũng hăng hái góp sức mình vào cuộc kháng chiến. Trên núi rừng Việt Bắc đêm khuya, cùng hành quân với bộ đội là những đoàn dân công phục vụ chiến đấu:
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay
Những bó đuốc đỏ rực soi rọi đường đã làm sáng bừng lên hình ảnh những đoàn dân công tiếp lương tải đạn. Có thể hình dung ở đó đủ cả trẻ già trai gái, họ đến từ nhiều miền quê với đủ mọi phương tiện chuyên chở gồng gánh quyết tâm, kiên cường vượt núi cao đèo dốc đảm bảo sức mạnh vật chất cho bộ đội chiến đấu, chiến thắng. Thành ngữ có câu chân cứng đá mềm, Tố Hữu chuyển thành Bước chân nát đá – hình ảnh cường điệu ấy khẳng định ý chí phi thường, sức mạnh to lớn của nhân dân kháng chiến. Cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến toàn dân, là cuộc chiến tranh toàn nhân dân, nó phát huy cao độ sức mạnh của toàn dân tộc chiến đấu cho sự nghiệp chính nghĩa, vì thế ta nhất định thắng.
+ Hai câu thơ tiếp theo khẳng định niềm lạc quan tin tưởng vững chắc Trường kì kháng chiến nhất định thắng lợi ( câu thơ của Bác trong bài Mừng xuân 1947 ):
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
Ánh đèn pha của ô tô kéo pháo xuyên thủng màn đêm dày đặc nhưng hình ảnh đó cong mang ý nghĩa biểu tượng: ánh sáng ấy sẽ xuyên thủng đêm đen để hướng tới tương lai tươi sáng hơn. Như vậy, đây cũng là một dấu hiệu nữa về sự trưởng thành của quân đội ta, sự trưởng thành ấy là một nhân tố quan trọng quyết định sự thắng lợi. Đáng chú ý là hai câu thơ tạo ra tương quan đối lập giữa bóng tối và ánh sáng: nếu câu trên khắc họa bóng đêm đen tối thăm thẳm gợi kiếp sống nô lệ của cả dân tộc dưới ách độ hộ của kẻ thù thì câu dưới lại bừng lên ánh sáng của niềm tin vào ngày mai chiến thắng huy hoàng, tương lai tốt đẹp. Thực ra trong đoạn thơ trên người ta đều nhận thấy sự đối lập này: Tố Hữu đã sử dụng cả một hệ thống từ chỉ ánh sáng như ánh sao, đỏ đuốc, lửa bay, bật sáng tương phản với một hệ thống chỉ bóng tối như đêm đêm, nghìn đêm, thăm thẳm – với xu thế ánh sáng lấn át bóng tối dường như tác giả có dụng ý nêu bật xu thế của dân tộc ta trước mọi kẻ thù hắc ám, đồng thời khẳng định những ngày tươi sáng, hạnh phúc nhất định sẽ tới với dân tộc ta.
->Tóm lại, đoạn thơ trên vừa đậm chất sử thi hào hùng vừa giàu tính lãng mạn tượng trưng đã diễn tả thành công khí thế kháng chiến ở Việt Bắc. Qua đó, Tố Hữu khắc họa sâu sắc hình ảnh dân tộc Việt Nam anh hùng trong cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì, đầy gian khổ hi sinh nhưng nhất định thắng lợi. Vì vậy, dân tộc ấy đã vượt qua biết bao thiếu thốn, gian khổ, hi sinh để lập nên những kì tích, những chiến công: Phủ Thông, đèo Giang, sông Lô, phố Ràng, Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên,…
– Bốn câu tiếp:
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Bốn câu thơ trên diễn tả niềm vui chiến thắng giòn giã, dồn dập gắn với những địa danh nổi tiếng với những chiến công lấy lừng và thể hiện được tâm trạng náo nức của nhà thơ khi nói về những chiến công oanh liệt. Những từ như vui, vui về, vui từ, vui lên diễn tả niềm vui ngập tràn trong nhà thơ.
3. Niềm hi vọng về tương lai của tác giả:
Đoạn thơ mang âm hưởng tươi vui, rộn rã, tràn đầy hi vọng và niềm tin:
Ngày mai rộn rã sơn khê
Ngược xuôi tàu chạy, bốn bề lưới giăng.
Than Phấn Mễ, thiếc Cao Bằng
Phố phường như nấm như măng giữa trời
Mái trường ngói mới đỏ tươi
Chợ vui trăm nẻo về khơi nguồn hàng
Muối Thái Bình ngược Hà Giang
Cày bừa Đông Xuất, mía đường tỉnh Thanh
Ai về mua vại Hương Canh
Ai lên mình gửi cho anh với nàng
Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng
Vải tơ Nam Định, lụa hàng Hà Đông
Áo em thêu chỉ biếc hồng
Mùa xuân ngày hội lùng tùng thêm tươi
– Đoạn thơ trên đã mở ra một viễn cảnh mơ ước với bức tranh mang tênNgày mai… Nét chủ đạo trong bức tranh ấy là Việt Bắc sẽ nối liền với miền xuôi và miền ngược – nơi núi rừng hoang vu, heo hút.
– Tố Hữu cũng mơ ước về một Việt Bắc có giao thông thuận tiện, điện tới mọi nhà, khoáng sản quý được khai thác, phố phường, trường học đua nhau mọc lên, chợ phiên đày ắp hàng hóa của mọi miền đất nước,… Những gì là mơ ước của một thời sẽ hiển hiện rạng rỡ giữa cuộc đời.
Tóm lại, đoạn thơ trên giống như một gạch nối: không có những ngày kháng chiến đầy gian khổ mà hào hùng với tinh thần anh dũng quyết chiến quyết thắng của toàn dân tộc thì ước mơ về ngày mai tươi đẹp ấy không bao giờ trở thành hiện thực. Hơn thế, Tố Hữu còn nói lên niềm mong muốn đền đáp ân nghĩa: những con người thủy chung son sắt, hi sinh tất cả cho cách mạng và kháng chiến xứng đáng được hưởng một cuộc sống hạnh phúc, tươi đẹp. Cuộc sống ngày mai hạnh phúc, ấm no là cái đích hướng tới, là lí tưởng cao đẹp, là một nguồn sức mạnh to lớn của những người kháng chiến.
4. Hình tượng của Bác Hồ trong nỗi nhớ của người dân Việt Bắc:
– Trong những ngày kháng chiến gian lao, Việt Bắc là nơi có Cụ Hồ sáng soi, có trung ương, Chính phủ luận bàn việc công. Để khẳng định niềm tin yêu của cả nước với Việt Bắc, Tố Hữu lại dùng những vần thơ rất mộc mạc, giản dị mà thắm thiết nghĩa tình:
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Như vậy, Bác được ví như người cầm lái vĩ đại đã đưa con thuyền cách mạng và kháng chiến đến bến bờ chiến thắng, người sẽ tiếp tục soi đường chỉ lối cho nhân dân ta tới ngày mai ánh sáng chan hòa.
– Hình ảnh của Bác Hồ được khắc họa cuối tác phẩm đã thể hiện nỗi nhớ, lòng kính yêu, tình lưu luyến của đồng bào các dân tộc đối với Bác khi Người từ chiến khu Việt Bắc trở lại Thủ đô Hà Nội sau hơn ba ngàn ngày khói lửa:
Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người
Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải, đẹp tươi lạ thường !
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước lên đèo
Người đi, rừng núi trông theo bóng Người
+ Hai chữ thưa giùm là cách nói đậm đà của dân gian. Vì xa cách nên phải thưa giùm, gửi lời yêu thương, kính nhớ không nguôi nhớ Người. Nhớ không nguôi là nhớ da diết, nhớ day dứt triền miên. Kể từ ngày Người ở nước ngoài trở về Pắc Pó, Cao Bằng đến ngày Thủ đô hoàn toàn giải phóng ( 1941 – 1954 ), Bác đã sống và hoạt động giữa núi rừng Việt Bắc ( Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng ). Bác về lại Thủ đô nên đồng bào Việt Bắc mới có nỗi nhớ ấy:
Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người
Chữ nhớ là cảm xúc chủ đạo, thấm sâu vào trong lòng người, tỏa rộng ra trong không gian, thời gian và đã in đậm trên từng vần thơ của Tố Hữu.
+ Người đã về xuôi nhưng ta vẫn nhớ không nguôi. Nhớ cặp mắtsáng ngời của Bác, nhớ chiếc áo nâu dân dã, nhớ chiếc túi vải mà Người vẫn mặc, vẫn mang theo bên mình khi đi công tác, khi đi chiến dịch:
Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải, đẹp tươi lạ thường !
Các hoán dụ nghệ thuật ( mắt, áo nâu, túi vải ) tượng trưng cho sự thông minh tài trí, đời sống giản dị của Bác Hồ kính yêu. Chữ sáng ngời, đẹp tươi lạ thường đã gợi lên vẻ đẹp trí tuệ, cái thần thái và cốt cách của Bác, một con người xuất chúng đã kết tinh những tinh hoa văn hóa cổ kim đông tây. Bức truyền thần Hồ Chí Minh như được vẽ bằng màu sắc và ánh sáng tuyệt đẹp. Tố Hữu đã nhiều lần nói đến chiếc áo nâu của lãnh tụ. Một đời sống giản dị đáng yêu vô cùng:
Bác Hồ đó, chiếc áo nâu giản dị
Màu quê hương bền bỉ đậm đà
( Sáng tháng Năm )
Mong manh áo vải hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn
( Bác ơi ! )
Và đôi mắt Bác Hồ, đôi mắt ấm áp tình thương, đôi mắt lạc quan yêu đời, đôi mắt của niềm tin dạt dào:
Bác Hồ đó, là lòng ta yên tĩnh
Ôi người cha, đôi mắt mẹ hiền sao !
(…) Không gì vui bằng mắt Bác Hồ cười
Quên tuổi già, tươi mãi tuổi đôi mươi
( Sáng tháng Năm )
+ Bốn câu thơ tiếp theo thể hiện một nét đẹp, một phẩm chất cao quý của lãnh tụ, đó là phong thái ung dung tự tại của một người chiến sĩ cách mạng vĩ đại:
Nhớ người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ khi Người bước lên đèo
Người đi, rừng núi trông theo bóng Người
Bức chân dung Bác được vẽ bằng những nét vẽ động và sự phối sắc tài tình. Bác xuất hiện trên yên ngựa, trên đường suối reo với phong thái ung dung, với tư thế đĩnh đạc bước lên đèo. Cái nền của bức tranh rất đẹp: có màu trắng nhạt của tinh sương, có màu lóng lánh trong xanh của suối reo, có màu đất đỏ của con con đèo và có màu xanh của núi rừng Việt Bắc. Núi rừng được nhân hóa để nói lên thật cảm động tình lưu luyến của đồng bào Việt Bắc đối với Bác Hồ kính yêu: Người đi rừng núi trông theo bóng Người.
Trong nỗi nhớ của người dân Việt Bắc, hình tượng Bác Hồ hiện lên đẹp như ông Tiên trong truyện cổ tích mà lại bình dị, thân quen, Người luôn luôn lo toan những công việc hệ trọng cho đất nước mà không tất bật, vội vàng, Người đi tới đâu núi rừng cũng hân hoan chào đón, bóng Người đã khuất xa nhưng hình ảnh của Người lại càng thêm ngời sáng trong tâm hồn mỗi người.
* Tóm lại, bằng tất cả sự thương yêu trìu mến xen lẫn với sự kính trọng, nhà thơ đã khắc họa sinh động hình tượng Bác Hồ trong nỗi nhớ của người dân Việt Bắc: tài trí thông minh, giản dị, ung dung tự tại,… Điệp ngữ nhớđược kết hợp với các từ ngữ biểu cảm khác như: không nguôi nhớ Người,trông theo bóng Người đã diễn tả một cách thật cảm động mối quan hệ thân thiết tốt đẹp giữa lãnh tụ với nhân dân, giữa Bác với đồng bào Việt Bắc. Ngòi bút Tố Hữu rất giàu có khi nói về lãnh tụ: Bác, Người, ông Cụ,… đây là một cách nói vừa thành kính trang trọng, vừa dân dã binh dị.
5. Nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm – bài thơ đậm đà tính dân tộc:
– Thể thơ lục bát là thể thơ quen thuộc của dân tộc đã được sử dụng thành công kết hợp vơi kết cấu đối đáp thường thấy trong ca dao, dân ca truyền thống được dùng một cách sáng tạo để diễn tả nội dung tình cảm phong phú về quê hương, con người, Tổ quốc và Cách mạng.
– Cặp đại từ nhân xưng mình – ta với sự biến hóa linh hoạt và những sắc thái ngữ nghĩa, biểu cảm phong phú vốn có của nó được khai thác rất hiệu quả. Cấu tứ của bài thơ là cấu tứ ca dao với hai nhân vật trữ tình là ta vàmình, người ra đi và người ở lại hát đối đáp với nhau. Trong cuộc hát đối đáp chia tay lịch sử này, người ở lại lên tiếng trước, nhớ về một thời xa hơn, thời đấu tranh gian khổ trước Cách mạng, sau đó người ra đi nối tiếp nhớ lại kỉ niệm thời chín năm kháng chiến.
– Những biện pháp tu từ ( nhân hóa, ẩn dụ, tượng trưng,… ) quen thuộc với cách cảm, cách nghĩ của quần chúng được dùng nhuần nhuyễn.
– Nhà thơ rất chú ý sử dụng kiểu tiểu đối của ca dao, chẳng có những có tác dụng nhấn mạnh ý mà còn tạo ra nhịp thơ uyển chuyển, cân xứng, hài hòa, làm cho lời thơ dễ nhớ, dễ thuộc, thấm sâu vào tâm tư:
Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng / mang mai để già
…
Chiếu Nga Sơn / gạch Bát Tràng
Vải tơ Nam Định / lụa hàng Hà Đông
– Về ngôn ngữ thơ, Tố Hữu chú ý sử dụng lời ăn tiếng nói của nhân dân rất giản dị, mộc mạc nhưng cũng rất sinh động để tái hiện lại một thời cách mạng và kháng chiến đầy gian khổ mà dạt dào tình nghĩa.
+ Đó là thứ ngôn ngữ rất giàu hình ảnh, cụ thể:
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
…
Nắng trưa rực sáng sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
+ Đó cũng là thứ ngôn ngữ rất giàu nhạc điệu:
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa
…
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
– Đặc biệt, thơ Tố Hữu sử dụng rất nhuần nhuyễn phép trùng điệp của ngôn ngữ dân gian:
Mình về, mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
…
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai
…
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
…
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa
Tất cả tạo ra một giọng điệu trữ tình nghe thiết tha, êm ái, ngọt ngào như âm hưởng lời ru, đưa ta vào thế giới của kỉ niệm và tình nghĩa thủy chung.
IV. Ghi nhớ:
– Nội dung:
Bài thơ ca ngợi con người và cuộc sống ở chiến khu Việt Bắc trong thời kì cách mạng và trong kháng chiến chống Pháp gian khổ, hào hùng. Bài thơ còn thể hiện tình nghĩa thủy chung giữa người cách mạng và người dân Việt Bắc, là khúc hát tâm tình chung của những con người trong kháng chiến. Đồng thời, bài thơ còn là bức tranh thiên nhiên Việt Bắc tươi sáng, là bản hùng ca về chiến thắng vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Pháp của toàn thể nhân dân ta.
– Nghệ thuật:
Việt Bắc cũng rất tiêu biểu cho giọng thơ tâm tình ngọt ngào, thiết tha của Tố Hữu và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc của ông, trong đó nổi bật là cách sử dụng thể thơ lục bát, kết cấu đối đáp thường thấy trong ca dao kết hợp với những biện pháp tu từ và ngôn ngữ mang đậm khuynh hướng sử thi và sắc thái dân gian.
Như vậy chúng tôi đã gợi ý Tìm hiểu bài Việt Bắc bài tiếp theo, các em chuẩn bị cho phần Hoàn cảnh ra đời bài thơ Việt Bắc và cùng với phần Bức tranh Việt Bắc ra quân là một bức tranh hùng tráng, tràn đầy khí thế chiến thắng của quân dân ta để có thể hiểu rõ hơn về nội dung này.
Trong chương trình học Ngữ Văn 12 phần Viết một bài văn ngắn nêu lên những suy nghĩ của mình về nạn bạo lực học đường đang thường xuyên xảy ra hôm nay là một nội dung quan trọng các em cần chú ý chuẩn bị trước.
Tìm hiểu chi tiết nội dung phần Cảm nhận về hai đoạn trích trong bài thơ Việt Bắc và Tây Tiến để học tốt môn Ngữ Văn 12 hơn.
Bản quyền bài viết thuộc Trường Trung Cấp Nghề Thương Mại Du Lịch Thanh Hoá. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: https://tmdl.edu.vn/tim-hieu-bai-viet-bac-to-huu/
Trang chủ: tmdl.edu.vn
Danh mục bài: Giáo dục