Cảm nhận 14 câu giữa bài Trao duyên
Cảm nhận 14 câu giữa đoạn trích Trao Duyên để thấy được nỗi đau đớn về tình yêu Kim – Kiều bị chia cắt và tổng kết lại số phận ngang trái, chuân chuyên của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Sau đây là các bài văn mẫu cảm nhận 14 câu giữa bài Trao Duyên hay và chi tiết, mời các bạn cùng tham khảo.
1. Cảm nhận 14 câu giữa đoạn Trao Duyên – mẫu 1
Cảm nhận 14 câu giữa đoạn trích Trao Duyên – Có lẽ, đoạn trích “Trao duyên” trong tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du không đơn thuần chỉ dừng lại ở việc trao duyên nữa. Mười bốn câu thơ trong đoạn trích “Trao duyên” là tất thảy nỗi đau đớn về tình yêu Kim – Kiều bị chia cắt và tổng kết lại số phận ngang trái, chuân chuyên của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa.
Bạn đang xem bài: Top 3 bài cảm nhận 14 câu giữa đoạn trích Trao duyên siêu hay
Nguyễn Du (1765 -1820) được coi là một đại thi hào của nền văn học dân tộc Việt Nam. Nguyễ Du tên chữ là Tố Như, hiệu Thanh Hiên, sinh ra và lớn lên tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Tỉnh Hà Tĩnh. Ông là con một gia đình phong kiến quý tộc nhưng sống giữa một thời kì lịch sử đầy biến động. Trải qua hơn chục năm sống gian khổ ở nhiều vùng quê khác nhau, ông có cơ hội chứng kiến tất thảy những bất công ngang trái của cuộc đời nhất là người phụ nữ “tài hoa bạc mệnh” trong xã hội cũ. Căm phẫn trước chế độ, thương thay cho thân phận người phụ nữ, tin yêu vào phẩm chất con người… Nguyễn Du đã truyền tải những điều đó trong cùng một tác phẩm “Truyện Kiều”.
Đoạn trích “Trao duyên” trích từ tác phẩm “Truyện Kiều” nói tới việc Thúy Kiều nhờ cậy em gái là Thúy Vân giúp mình tiếp nối mối duyên nồng với Kim Trọng để thay nàng đền đáp tình yêu nặng của nàng.
Mười bốn câu thơ sau đây tái hiện đầy đủ bi kịch tan vỡ của tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng cùng nỗi đau tột cùng về số phận bi thương của đời Kiều. Qua đó, người đọc thấy được tư tưởng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du và niềm ca ngợi khát vọng hạnh phúc của con người:
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót thương mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”
Sau khi cậy nhờ Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng, Kiều trao lại cho em kỉ vật tình yêu:
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung”
“Chiếc vành” và “tờ mây” là hai kỉ vật minh chứng tình yêu và cũng là lời thề ước giữa Kim Trọng và Thúy Kiều. Kỉ vật của một mối tình đẹp mà Kiều không nỡ rời xa nay đành lòng gửi gắm tất cả lại cho Thúy Vân.
Đồ vật có thể cho, tặng nhưng tình cảm đâu phải là thứ nói cho là cho, nhất là tình yêu. Cái “chung” trong tình yêu ở đây nó phá vỡ tính quy luật của tình yêu đôi lứa. Tình yêu chỉ thực sự thiêng liêng, vĩnh cửu khi nó là của riêng Thúy Kiều với Kim Trọng. Tình yêu vốn không cho phép có người thứ ba. Một khi có người thứ ba, sự thiêng liêng sẽ bắt đầu đổ vỡ. Nguyễn Du có lẽ đang oán, oán cái chế độ xã hội tàn bạo, cổ hủ, nhiễu nhương khiến cho tình yêu thiêng liêng phải tan vỡ.
Từ đây những kỉ vật Kiều trao lại cho Vân sẽ chỉ còn là vật làm tin để Vân nhớ đến Kiều. Kiều nhắc nhở Vân những lúc em hạnh phúc bên người yêu thì đừng bao giờ quên chị:
“Dù em nên vợ nên chồng
Xót thương mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”
Nỗi đau như đọng lại trong lời thơ “Dù em nên vợ nên chồng”. Nhìn người mình yêu nên vợ nên chồng với người khác đau xót biết nhường nào. Hơn nữa, tuy nguyện vọng của Kiều thành hiện thực, nhưng nàng vẫn đặt ra những giả thuyết tương lai như có điều gì đó vẫn chưa ổn, chưa yên. Kiều tự coi mình là kẻ “mệnh bạc” để người khác phải xót xa, thương hại.
Bốn câu thơ tiếp theo là dự cảm về cái chết mà Kiều đã chuẩn bị sẵn tinh thần để đón nhận:
“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”
Phải nghiệt ngã đến thế nào mà một người mới tuổi xuân xanh cứ ám ảnh hoài về cái chết. Kiều đã mất hết niềm yêu sống trong hiện tại. Kiều chỉ nghĩ tới tương lai và trông chờ vào lòng thương của kẻ khác. Khi Vân hạnh phúc hãy nhớ tới linh hồn của Kiều mà đốt nén hương, chơi bản nhạc tặng Kiều. Nếu có ngọn gió vật vờ nơi lá cây, ngọn cỏ hãy nhớ tới Kiều.
“Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai”
Với Kiều, duyên tình có lẽ đã hết, kỉ vật tình yêu cũng đã trao tay, nhưng tâm hồn của nàng vẫn sẽ mãi ghi nhớ lời thề với chàng Kim. Kiều ví mình như thân của liễu, như cành trúc cành mai tuy mỏng manh nhưng thanh cao. Kiều không quản “nát thân”, “đền nghì” vẫn sẽ ghi tạc ơn tình đậm sâu của Kim Trọng.
Kiều dặn dò Vân:
“Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”
“Dạ đài” là nơi âm phủ tăm tối. Kiều tự cho rằng mình sẽ thuộc về chốn âm ti địa ngục. Nhưng dù có “cách mặt khuất lời” tức là sẽ không thể thấy hay nghe được tiếng nói của nhau, thì Vân hãy cứ rảy chén nước “thác oan” cho Kiều. Từ “thác oan” cho thấy Kiều vẫn có gì đó như là ấm ức, oan uổng lắm nên sau khi chết hồn oan không tan, không được siêu thoát. Đó cũng là nỗi ấm ức của chính tác giả khi muốn lên tiếng đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho người phụ nữ xưa.
Đoạn trích “Trao duyên” là tình yêu và cũng là số phận bi kịch của Kiều. Nguyễn Du đã thành công trong việc miêu tả nội tâm của nhân vật. Tuy tác phẩm đã ra đời cách nay mấy trăm năm nhưng câu chuyện về thân phận và vẻ đẹp người phụ nữ vẫn là nỗi nhức nhối trong xã hội cả trước và nay.
2. Cảm nhận trao duyên 14 câu giữa – mẫu 2
Mở bài cảm nhận 14 câu giữa bài Trao duyên
Nguyễn Du được mệnh danh là đại thi hào của dân tộc, ông đã từng sống gian khổ ở nhiều vùng quê khác nhau nên đã chứng kiến những bất công của cuộc đời và có tấm lòng thương cảm đặc biệt với những người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. Sau khi đi sứ sang Trung Quốc, Nguyễn Du đã sáng tạo kiệt tác ”Truyện Kiều”. Đoạn trích “Trao Duyên” trong Truyện kiều là một đoạn trích thể hiện cảnh tan vỡ, dang dở tình duyên của Thúy Kiều và Kim Trọng.
Thân bài cảm nhận 14 câu giữa bài Trao duyên
Biến cố xảy đến bất ngờ khi đoạn tình cảm giữa Kim và Kiều đang độ nồng thắm. Lại thêm không có Kim Trọng ở cùng, Kiều đã rơi vào hoàn cảnh bế tắc. Sau khi thu xếp việc bán mình để cứu cha và em xong xuôi, ngày mai nàng sẽ phải theo Mã Giám Sinh rời đi. Sau khi đã lo liệu cho gia đình thì nằng mới nghĩ đến đoạn tình cảm của mình và Kim Trọng nên cuối cùng, nàng đã tìm cách thuyết phục và trao duyên cho em. Thúy Vân vì cảm thông, đã nhận lấy những kỷ vật giữa chị và chàng Kim:
”Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”
Thúy Kiều từ từ trao lại những kỷ vật tình yêu với Kim Trọng là “chiếc vành”, ”bức tờ mây” rồi đến ”phím đàn”, ”mảnh hương nguyền” cho Thúy Vân. Kiều đưa từng món một. Mỗi vật đều gắn với một kỷ niệm, mang một ý nghĩa của mối tình giữa hai người. Với Vân, có thế đó chỉ là những vật vô tri, nhưng với Kiều mỗi kỷ vật là cả một vùng trời ký ức, là lời thề nguyền gắn bó trăm năm… gắn liền với những ngày đẹp nhất đời Kiều. Khi đã đưa tất cả lại cho Thúy Vân, nàng còn dặn với ”Duyên này thì giữ vật này của chung”.
”Duyên này” là duyên giữa người em Thúy Vân và Kim Trọng, chứ phần của Kiều coi như đã hết. Những kỷ vật này thì em hãy coi là ”của chung” bởi còn là một phần là của chị. Nàng tiếc nuối, đau đớn khi phải chia sẻ cho người khác. Cảnh ngộ trớ trêu bắt Kiều phải ”lỗi lời thề” nhưng trong đáy lòng nàng đâu dễ dàng nguôi đi được lời thề xưa và đoạn tuyệt tình cũ.
Cứ tưởng rằng ”duyên” đã trao là lòng nhẹ bẫng không còn vướng bận, nhưng ai ngờ trong tâm hồn Kiều lại chứa đựng bao nhiêu sự giằng xé, cố níu kéo trong đau đớn. Lý trí bắt buộc Kiều phải dứt tình với Kim Trọng nhưng tình cảm của nàng lại không thể tuân theo một cách dễ dàng. Nỗi đau như càng dâng lên ở câu thơ “dù em nên vợ nên chồng” – Kiều tự thấy đáng thương bản thân, cảm thấy mình là người mệnh bạc để người khác phải xót xa thương hại.
”Mất người còn chút của tin” nàng chỉ có thể trao duyên còn tâm tình nàng vẫn không thể trao, nàng đau đớn đến nỗi nghĩ tới cái chết. Nàng vừa dùng dằng, vừa gửi gắm tất cả lại cho Thúy Vân rồi tâm trạng mâu thuẫn thật sự trong lòng nàng mới bùng lên mạnh mẽ nửa muốn trao, nửa muốn giữ. Mất bao công sức để thuyết phục Thúy Vân nhưng chính lúc em mình chấp nhận cũng là lúc Kiều bắt đầu chơi vơi cố níu tình yêu lại với mình. Sau đó Kiều để mặc cho cảm xúc trong lòng tuôn tràn.
Điều đặc biệt nằm ở chữ ”giữ” và ”của chung”. ”Giữ” không phải là trao hẳn mà chỉ là đưa cho em ”giữ” hộ. Còn chữ ”của chung” lại thể hiện tâm lý của Kiều không đành lòng trao tất cả lại cho Thúy Vân. Điều đó chứng tỏ tình yêu của nàng và Kim Trọng thật nồng nàn, sâu sắc. Tuy nhiên, Kiều vẫn trao duyên cho em, khẳng định nàng đã đặt hạnh phúc của người yêu lên trên hết. Đoạn thơ là một tiếng nghẹn ngào chứa đầy tâm trạng của nàng khi ấy, làm người đọc cảm thấy đau lòng.
Quá đắng cay cho số phận của mình, thấy rõ là mình mệnh bạc, tất cả chỉ còn là quá khứ, Thúy Kiều nghĩ đến một tương lai mù mịt, đau thương khi mình đã chết. Hơn lúc nào hết, ý nghĩ đó cứ hiện ra và rõ nét dần.
”Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai”
Đoạn thơ như một lời chiêu hồn buồn thăm thẳm, một hơi thở khác hẳn với lúc bắt đầu Trao duyên. Đây vẫn là những lời tâm sự của nàng với chàng Kim mà sao lời lẽ lại trở nên xa lắng, mù mịt, phảng phất ma mị như từ cõi bên kia vọng về đến thế. Hàng loạt từ nói về cõi chết: cùng với âm điệu chập chờn, hư ảo, thời điểm không xác định ”mai sau”, ”bao giờ”, không khí linh thiêng ”đốt lò hương”, ”so tơ phím”, hình ảnh phất phơ, ma mị ”ngọn cỏ lá cây”, ”hiu hiu gió”,… Kiều bắt đầu cảm nhận rõ hơn về những bi kịch mà mình sắp trải qua. Nàng cảm thấy bản thân thật đáng thương.
Nàng tưởng tượng đến cảnh tượng hạnh phúc của Trọng – Vân, còn mình chỉ là linh hồn ”xương trắng quê người”, bất hạnh nhưng vẫn ”mang nặng lời thề”, vẫn mong muốn được theo làn gió nhẹ ”hiu hiu” trên ”ngọn cỏ lá cây” để trở về cõi trần gặp lại người thương yêu. Duyên tình của Kiều đã hết, kỷ vật tình yêu cũng đã trao cho Vân, nhưng hồn của nàng vẫn chưa dứt nổi Kim Trọng. Thế mới biết nàng thủy chung đến mức nào. Nàng cô đơn, tuyệt vọng và dự cảm được tương lai đầy bất hạnh của chính mình. Nghĩ đến đấy, Thúy Kiều tha thiết:
”Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”
Lo cho người khác đã xong xuôi, nàng mới tự nhìn lại mình mà tủi thân. ”Dạ Đài” là nơi âm phủ, trong cảnh ngộ ”cách mặt khuất lời” hồn Thúy Kiều vẫn khao khát nhận được sự cảm thông, nên chỉ xin Trọng một ”chén nước” để tẩy oan. Chứng tỏ Thúy Kiều vẫn khao khát được trở về cõi trần thế để chứng minh cho ty bất diệt của mình. Nàng đau khổ, sợ hãi trước tương lai mù mịt…Thế mới thật sự là giằng xé tâm can.
Kết bài cảm nhận về 14 câu giữa bài Trao duyên
Dưới ngòi bút tài hoa tuyệt thế của Nguyễn Du, Thúy Kiều hiện lên rất rõ là một cô gái vị tha và giàu lòng yêu thương nhưng vô cùng nhạy cảm. Qua nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật và thông qua lời đối thoại và độc thoại, nỗi đau và tâm hồn của Kiều càng được thể hiện tinh tế, sinh động, sâu sắc và đầy tâm trạng của Thúy Kiều.
Đoạn trích là những bức tranh về bi kịch tình yêu bậc nhất trong Truyện Kiều. Qua đó, bộc lộ phẩm chất cao đẹp của Thúy Kiều trong tình yêu. Trước sự tan vỡ của tình yêu, nàng làm tất cả những gì có thể làm được để người mình yêu được hạnh phúc và chịu hết đau đớn về phần mình. Đoạn trích đã thể hiện được tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du: nỗi cảm thông sâu sắc đối với bất hạnh của con người trong xã hội xưa.
3. Cảm nhận 14 câu giữa bài Trao duyên – mẫu 3
Cảm nhận về 14 câu giữa đoạn trích Trao Duyên – Truyện Kiều được xem là một thiên truyện nói về nỗi đau của con người trong chế độ đầy rẫy những bất công. Là tác phẩm có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Là tác phẩm đạt đến trình độ mẫu mực cổ điển mà tiêu biểu đó là nghệ thuật tả người, khắc họa tâm lý nhân vật tinh tế, sâu sắc. Để minh chứng cho điều đó chúng ta có thể tìm hiểu ở 14 câu giữa của đoạn trích Trao Duyên.
Đoạn trích thuộc đoạn mở đầu cho cuộc đời lưu lạc đầy rẫy những khổ đau, ngang trái mà Thúy Kiều phải chịu đựng. Sinh ra trong một gia đình khá giả nhưng cha và em trai bị hàm oan và bị bắt giam. Thúy Kiều đành phải bán mình cho Mã Giám Sinh để cứu cha và em trai. Trước đó Kiều đã có hẹn ước với Kim Trọng, nay đành phải “trao duyên” này cho em là Thúy Vân. Đoạn trích Trao Duyên chính là đoạn nói về việc Thúy Kiều nhờ cậy em trả nghĩa cho chàng Kim. Nhan đề Trao Duyên nhưng không phải việc trao giữa nam và nữ có tình cảm với nhau như ta từng bắt gặp trong ca dao. Ở đây Trao Duyên là gửi tình, gửi duyên cho người khác, người sẽ tiếp nối duyên phận, mối tình dở dang của mình.
Sau khi cậy nhờ em cũng như nhớ lại mối tình của mình với chàng Kim thì mười bốn câu thơ giữa bài tái hiện bi kịch tình yêu tan vỡ của mình:
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót thương mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”
Sau khi nhờ cậy và biết rằng em thuận lòng và để tăng thêm sự dứt khoát cũng như nắm chắc quyết định dứt tình với chàng Kim thì Thúy Kiều đã giao ra kỷ vật đó là “chiếc thoa” với “bức tờ mây”. Nếu nói trao duyên, trao tình cảm thì nghe còn trừu tượng, chưa có cơ sở, nhưng khi đưa ra tất cả những tín vật thì chắn hẳn lúc này Thúy Kiều vô cùng đau đớn. Có thể nói khi nhìn người mình yêu sánh đôi với kẻ khác đã đau đớn mà chính mình chặt đứt tơ duyên, đem trao duyên này cho người khác thì càng đau xót đến nhường nào. Trao kỷ vật cũng nhằm để cho Thúy Vân nhớ đến mình, nàng tự coi mình là “mệnh bạc” để người khác xót xa thay cho thân phận mình. Kiều còn tưởng tượng ra cảnh sau này em mình và chàng Kim:
“Dù em nên vợ nên chồng,
Xót thương mệnh bạc ắt lòng chẳng quên”
Kiều tự coi bản thân chuyến này như đã chết, đánh mất bản thân, mất đi tơ duyên ngày nào thì sống trên đời cũng chẳng còn nghĩa lý gì. Kiều chỉ mong rằng Thúy Vân còn giữ kỷ vật cũng như về người chị “mệnh bạc” này”. Chút níu giữ đó là vật làm tin nay cũng trao đi rồi, còn”phím đàn” ở lại như để mỗi khi ai đó đánh lên sẽ nhớ tới nàng. Bốn câu thơ tiếp theo chính là những dự cảm về cái chết mà Kiều đã sẵn sàng đón nhận:
“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”
Cả một đoạn thơ dài đều là những ảm ảnh về cái chết chứ không phải ở bốn câu thơ trên. Chắc hẳn Thúy Kiều đã mất niềm tin vào tương lai phía trước, đứng trước sự nghiệt ngã ở đời thì nàng không trông mong khi mình đi rồi sẽ tìm được hạnh phúc, sẽ được ấm êm. Một người đương tuổi xuân phơi phới nhưng luôn canh cánh về cái chết. Nàng chỉ mong ước duy nhất đó là mai sau Thúy Vân hãy nhớ tới linh hồn của mình để nàng đỡ lẻ loi, hiu quạnh. Khi đàn, khi đốt hương hay khi trông ra ngọn cỏ thì hãy nhớ đến người chị này. Kiều mất niềm tin vào cuộc sống, cho dù chết cũng chỉ biết nương nhờ cỏ cây, vật vờ nơi lá cây ngọn cỏ chứ chẳng biết bám víu vào đâu.
Duyên tình đã hết, dù cho có chết đi và mọi người có thể quên lãng nhưng nàng vẫn mang những tâm tư, tình cảm đi theo:
“Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền ghì trúc mai”
Lời thề, lời hẹn ước mặc dù đã được trao cho em thay mình trả nhưng không có nghĩa là cô đã hoàn toàn trút bỏ, lãng quên. Thậm chí kể cả khi đã chết thì vẫn “mang nặng lời thề”. Nàng tự ví mình như “bồ liễu”, “trúc mai” tuy mảnh mai, yếu đuối nhưng lại thanh cao. Mong muốn được rửa oan khuất khi bị tước mất quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc.
Tóm lại đoạn trích Trao Duyên đã nói lên bi kịch tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng. Đây cũng là đoạn thơ đặc sắc khi Nguyễn Du đã khắc họa thành công tâm lý, miêu tả nội tâm nhân vật. Qua đó phản ánh bi kịch của người phụ nữ trong xã hội xưa.
Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Văn học – Tài liệu của Tmdl.edu.vn.
Trang chủ: tmdl.edu.vn
Danh mục bài: Văn Học