Văn Học

Top 3 bài suy nghĩ về bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt

Cảm nhận về bài thơ Bếp lửa ngắn gọn

Nêu suy nghĩ về bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt

Bếp lửa là một bài thơ hay của nhà thơ Bằng Việt viết về tình cảm bà cháu. Qua bài thơ tác giả đã  thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn đối với người bà của mình. Trong bài viết này Tmdl.edu.vn xin chia sẻ đến bạn đọc một số bài văn mẫu suy nghĩ về bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt, cảm nhận về bài thơ Bếp lửa ngắn gọn để cùng cảm nhận về những kỷ niệm đẹp tuổi thơ bên người bà đáng kính.

Bạn đang xem bài: Top 3 bài suy nghĩ về bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt

1. Suy nghĩ về bài thơ Bếp lửa – mẫu 1

Trong cuộc đời mỗi con người chúng ta có thể quên đi nhiều điều, nhưng ký ức tuổi thơ thì khó có thể phai nhạt. Vì nó là cái nôi, cái nguồn cội của sự trưởng thành. Đối với Bằng Việt cũng vậy và tuổi thơ ông là những, kỷ niệm thơ gắn liền với hình ảnh người bà thân thương và bếp lửa nồng đượm. Tất cả kỷ niệm thời thơ ấu thậtấy đc tác giảlàm sống dậy trong bài thơ “Bếp lửa”.

Bài thơ ra đời năm 1963, khi ấy nhà thơ đang học tập và sinh sống ở nước bạn Liên Xô. Trong nước, cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc đang dần đến hồi cam go. Nhớ về Tổ quốc trong những ngày tháng ấy, Bằng Việt gửi trọn niềm thương nỗi nhớ cho người bà tần tảo, vất vả mà giàu tình yêu thương của mình.

“Bếp lửa” là lời tâm tình của đứa cháu hiếu thảo đang ở nơi xa gửi về người bà yêu quý ở quê nhà. Lời tâm tình được dệt bằng biết bao kỉ niệm tuổi thơ, mỗi kỉ niệm được bao bọc trong một nỗi nhớ thương vừa trào dâng vừa sâu lắng. Cả bài thơ là một dòng tâm trạng, một dòng hồi ức. Những thương nhớ cứ xô đẩy trật tự sắp đặt, cảm xúc cứ lấy quyền dẫn dắt ý tứ. Cho nên các khổ, các đoạn thơ dài ngắn không đều. Bài thơ gồm hai giọng tự sự và giọng trữ tình thấm đượm vào mỗi ki niệm, mỗi đoạn thơ. Nhưng đọc toàn bài, thấy giọng cảm thương, nhớ nhung da diết cứ muốn trào dâng, lấn át tất cả. Mạch tự sự mờ đi, lẩn mình vào mạch cảm xúc.

Các sự việc trong bài thơ được kể tiếp nối thành chuỗi, tạo thành mạch chuyện nào đó trong bài thơ. Bằng Việt kể không nhiều, nhưng khá rành rọt. Nhớ từng thời điểm, rành rõ từng quãng thời gian, từng cảnh ngộ gia đình trong những biến động chung của đất nước: lên bốn tuổi, tám năm ròng, năm giặc đốt làng, mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ khi cháu đã đi xa… Lần theo nhừng mốc thời gian ấy, các sự kiện được kể cứ tiếp nối tạo thành một cốt truyện cho cuộc chuyện trò trong tâm tưởng với bà…

Bài thơ mở đầu bằng những hình ảnh thơ đầy ám ảnh:

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”.

Ngọn lửa “chờn vờn sương sớm” là ngọn lửa thực trong lòng bếp lửa được nhen lên trong mỗi sớm mai. Còn ngọn lửa “ấp iu nồng đượm” là ngọn lửa của yêu thương mà bà dành cho cháu. Bởi vậy nên nhắc đến bếp lửa là nhắc đến bà với bao tình thương và nỗi nhớ.

Là cuộc đời đầy vất vả nhọc nhằn không chỉ nuôi con mà còn thay con nuôi cháu:

“Đó là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy”.

Ngọn lửa “chờn vờn sương sớm” là ngọn lửa thực trong lòng bếp bập bùng nhen lên mỗi sớm mai. Nhưng ngọn lửa “ấp iu nồng đượm” đã là ngọn lửa của tình bà chăm sóc cưu mang. Theo trình tự thơ, ngọn lửa cứ chập chờn, bập bùng, hình tượng thơ cứ tò dần, tỏ dần. Bên bếp lửa là dáng hình bà qua nắng mưa, năm tháng.

Kể từ đó, hình ảnh bếp lửa cứ cháy trong kỉ niệm của tình bà cháu. Qua những năm tháng đói khổ. Qua những năm tháng chiến tranh. Cháu bắt đầu nhớ mùi khói từ khi lên bốn. Thì cũng là năm “đói kém” (1945). “Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy” bố bươn trải đưa gia đình qua khỏi thì đói kém mà cứ chìm đi trong kí ức. Trong kí ức chỉ còn lưu lại những gì khốn khổ thương tâm: “đói mòn, đói mỏi, khô rạc ngựa gầy, khói hun nhèm mắt cháu”… Bởi thế mùi khói từ những năm đầu đời qua mấy chục năm ròng, vẫn cứ nguyên trong ki ức.

Nhà thơ nhắc lại những năm tháng khủng khiếp của nạn đói 1945.Vậy mà bà đã già cả, ốm yếu lại một tay nuôi dạy cháu. Cái đói, cái chết rình mò nhưng bà vẫn dành tất cả yêu thương mang đến cho cháu những bữa ăn nhọc nhằn.

Cảm nhận về nỗi vất vả của thời thơ ấu. “Mùi khói” có thể nói nhà thơ đã chọn đc mội chi tiết thật chính xác, vừa miêu tả chân thực cuộc sống tuổi thơ, vừa biểu hiện những tình cảm da diết, bâng khuâng, xót xa, thương mến. Hình ảnh “khói hun nhèm mắt” cũng gợi cho ta nghĩ đến sự cay cực, vất vả tô đậm nỗi niềm thổn thức của tác giả. Bài thơ có sức truyền cảm mạnh mẽ nhờ những chi tiết, ngôn từ chân thật. giản dị như thế. Cái bếp lửa kỷ niệm của nhà thơ chỉ mới khơi lên, thoang thoảng mùi khói, mờ mờ sắc khói … mà đã đầy ắp những hình ảnh hiện thưc, thấm đậm biết bao nghĩa tình sâu nặng.

Cơ cực lên đến tận cùng khi:

“Giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Làng xóm bốn bên trở về lầm lụi”.

Nhưng ngay cả khi ấy, khi mà mọi vật đã trở thành phê tích, hoang tàn, sự sống đã bị triệt tiêu thì ở bà vẫn ánh lên những tia lửa cùa tin yêu:

“Rồi sớm rồi chiều bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”.

Thời thế có thăng trầm biến chuyển thì lòng bà vẫn như ngọn lửa, trước sau vẫn bùng lên trong bếp nhỏ “chứa niềm tin dai dẳng” vào cuộc đời. Nuôi cháu ăn, bà còn “dạy cháu làm, chăm cháu học” không muôn để cái đói, cái nghèo vùi dập đời sống văn hóa, tinh thần của cháu. Đó là tư tưởng vô cùng tiến bộ hiếm thấy ở những người mà tuổi tác đã như bà. Điều đặc biệt là bà đã âm thầm đón nhận gian khó và lại một mình chịu đựng những nhọc nhằn, không muốn những cực nhọc cùa bản thân làm con cái lo lắng:

“Bố ở chiến khu bố còn việc bố

Mày có viết thư chớ kể này kể nọ

Cứ bảo rằng nhà vẫn được bình yên”.

Hình ảnh bà hiện lên chẳng những ấm áp yêu thương mà còn đầy cao cả, vị tha và giàu đức hi sinh. Đó phải chăng là tấm lòng muôn thuở của những người bà, người mẹ trên mảnh đất Việt Nam này?

Suốt những phần đầu của bài thơ, nhà thơ vừa kể, vừa tỏ lòng thương nhớ, ngợi ca, biết ơn công lao của bà. Và đến đây, ông đúc kết lại về sự kì lạ và linh thiêng của hình ảnh bếp lửa và cũng là của bà:

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

Những gì bị thiêu cháy trong ngọn lửa chiến tranh dã man, kì lạ thay, lại được hồi sinh trong ngọn lửa của bà. Cứ thế cuộc đời bà cháu được chở che, duy trì qua bao năm tháng. Cứ thế sự sống muôn đời được giữ gìn nuôi dưỡng, trường tồn. Chính ngọn lửa của lòng bà đã nhen lên ngọn lửa bền bỉ trong bếp lửa kia. Vừa kể lại, vừa tỏ lòng thương nhớ, biết ơn, vừa suy tư. Mấy chục năm đã trôi qua, “niềm tin dai dẳng” trong bà chưa bao giờ lụi tắt, để đến tận bây giờ “bà vẫn giữ thói quen dậy sớm”. Bà vẫn tiếp tục nhóm lên ngọn lửa của yêu thương, của sẻ chia ấm áp, của bầu trời tuổi thơ đẹp đẽ trong cháu.

Những ân tình của bà theo cháu suốt cả cuộc đời. Để giờ đây:

“Giờ cháu đã đi xa

Có ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

Nhưng chẳng lúc nào quên nhắc nhở

Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?…”

Giờ đây, tác giả đã sống xa xứ, đã trưởng thành, đã rời xa vòng tay người bà. Giờ đây cháu ấy đã được mở rộng tầm mắt để nhìn thấy “khói trăm tàu”, “lửa trăm nhà”, “niềm vui trăm ngả”. Cuộc sống đầy đủ vật chất hơn, nhưng vẫn không nguôi ngoai tình cảm nhớ thương bà. Tình cảm ấy đã trở thành thường trực trong tâm hồn tác giả.

Tình bà cháu trong “Bếp lửa” của Bằng Việt là tình cảm thiêng liêng cảm động. Bà dành cho cháu những hi sinh thầm lặng của phần đời mong manh còn lại. Bà là mái ấm chở che, bao bọc tuổi thơ dại khờ, yếu đuối của cháu trước những mất mát, đau thương của cuộc sống. Và người cháu, những năm tháng cháu đi trong đời là những năm tháng cháu nhớ đến bà với lòng tin yêu và biết ơn sâu sắc. Ngọn lửa bà trao cho cháu luôn được cháu giữ vẹn nguyên để trở thành ngọn lửa trường tồn, bất diệt.

2. Suy nghĩ về bài thơ Bếp lửa – mẫu 2

Có rất nhiều tình cảm như tình yêu đôi lứa, tình phụ tử, tình mẫu tử,… đã được đưa vào những bài văn những áng thơ tình tứ chất chứa đầy tình cảm. Nhưng với Bằng Việt thì ông lại viết về tình bà cháu nồng đượm, đằm thắm trong bài “Bếp lửa” thật là xúc động biết bao nhiêu.

“Bếp lửa” từ lâu đã được đánh giá chính là một bài thơ của nỗi nhớ về một bếp lửa tuổi thơ, mà như cũng đã nhớ rành rọt, nhớ ngọn ngành. Nhà thơ đã thật khéo léo và như cũng đã thổi bùng lên một bếp lửa ấp iu nồng đượm đếb rạo rực nhất là trong kí ức để hiện lên tình bà cháu đẹp như trong truyện cổ tích xa xưa vậy.

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Dễ dàng có thể nhận thấy được chính trong thơ văn, còn có tình bà cháu nào cảm động hơn thế cơ chứ? Ta như thấy được chính tình bà cháu như một dòng sông, dòng sông êm đềm và trong vắt, đó cũng chính còn có được một dòng sông chở đầy kỉ niệm có thể kể ra như đó là một bếp lửa và một làn sương sớm, tiếng tu hú và giọng kể chuyện của bà.

Rồi lại có những ngày đói khổ làm nhòa mắt đứa cháu còn bé… Và ta dường như cũng đã thấy được lại có những kỉ niệm này xin để nguyên khôi, không dám lược bớt đó chính là những câu thơ chan chứa:

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!

Qủa thực chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu, nhà thơ Bằng Việt đã nói thế, chúng ta cũng thấy cay sống mũi. Tất cả những kỉ niệm chất chứa kia dường như cũng đã lơ đãng trôi theo một nhạc điệu tâm tình âm ỉ, và cũng lại thật thầm thì, triền miên như nỗi nhớ. Ta như cũng đã thấy được cả dòng sông êm đềm và trong vắt vẫn âm thầm chảy. Con người mỗi chúng ta được dạo trên chiếc thuyền thơ với một tay lái khoan thai biết bao nhiêu, và cũng thật đang say mê với những kỉ niệm thì thấy biển cả hiện ra trước mắt của người cháu khi nghĩ và nhớ về người bà thân yêu của mình.

Thế rồi ta như thấy được đó cũng còn chính là dòng sông của tình bà cháu đã để vào biển cả của tình yêu nước. Thế rồi ta như thấy được biển yên sóng lặng thổi, nhưng cũng bát ngát sâu thẳm.

Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh

Bố ở chiến khu bố còn việc bố

Mày có viết thư chở kể này kể nọ

Cứ bào ở nhà vẫn được bình yên!

Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen…

Thực sự khi ta đọc mấy câu thơ chẳng có gì là kĩ xảo, xem kỹ ra nó cũng lại chẳng có gì là gọt tỉa gì cả. Mà những câu thơ dường như cũng lại thật là giản dị như lời tâm tình khiến ta như được nghe chính lời bà thủ thỉ, nó cũng như có một thứ gió lạ kì lay động tâm hồn ta mãi. Thực sự thì ngay đứa cháu có nghĩa có tình đã biết đã quý điều bà thường cất giấu kín đáo trong rương trong hòm. Người đọc chúng ta dường như cũng đã thấu hiểu hơn được cũng chính ánh sáng của những thứ của quý đó đã từng rọi vào tâm hồn thơ bé của đứa cháu Ngọ lửa dường như cũng đã thật khéo léo như cũng đã nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ. Ta dường như cũng đã thấy được chính nhịp thơ trở nên xôn xao như sự sống sinh sôi, như cây nón xòe lá, như chim non vỗ cánh.

Rồi đứa cháu lớn vụt lên, bay bổng:

Cho đến bây gườ thì người cháu đã đi xa. Nơi cháu đi lại có được ngọn khói trăm tàu Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả”. Nhưng dường như người cháy vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:

– Sớm mai này bà nhôm bếp lên chưa?

Sau biết bao nhiêu năm tháng sống ở nước ngoài, giữa ngọn khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả, thế rồi ngay cả ở giữa những hoa mĩ dễ hấp dẫn lòng người, nhưng nhà thơ tỏ ra không bị choáng ngợp. Có thể nói, dường như chính tình cảm chủ đạo chi phối tâm hồn tác giả được xem chính là những hình ảnh thân yêu quen thuộc của quê hương đất nước, thực sự đã từ lâu gắn bó với tuổi thơ. Có lẽ chính vì thế nhà thơ đã nhớ về bà – người bà rất đỗi kính yêu của mình. Và tình cảm của người cháu với bà như thực sự đó chính tấm lòng chân thật, thiết tha như nhắn nhớ “sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”

Thông qua tác phẩm “Bếp lửa” thì cũng chính từ tình bà cháu đẹp như trong truyện cổ tích, bài thơ gợi lên những yêu thương đầu tiên. Ta dường như cũng đã thấy được ở đó có những suy nghĩ đầu tiên về cuộc đời, về đất nước… Với chính những cảm xúc tinh tế, chân thật và dường như nó cũng thật là đượm buồn của nhà thơ làm trỗi dậy trong kí ức người đọc. Đó có thể thấy được đó cũng chính là những kỉ niệm về cuộc sống gia đình về truyền thống tình nghĩa của dân tộc Việt Nam ta.

3. Suy nghĩ về bài thơ bếp lửa – mẫu 3

Chắc hẳn ai trong mỗi chúng ta đều không thể quên bài thơ đã lắng sâu trong tâm hồn tuổi thơ mỗi người đó chính là: Bếp lửa của nhà thơ Bằng Việt. Bài thơ đã cho ta thấy tình yêu quê hương, đất nước chan hòa với biết bao kỷ niệm tuổi thơ vô cùng thiết tha về người bà kính yêu, người bà đôn hậu, tần tảo sớm khuya đã sáng bừng lên như một ngọn lửa thần kỳ và thiêng liêng.

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!

Bài thơ mở đầu với hình ảnh bếp lửa- một hình ảnh rất đỗi thân quen gần gũi với cuộc sống ở làng quê Việt Nam. Bếp lửa đã gắn liền kí ức với thời thơ ấu của người cháu những năm tháng khi còn ở với bà. Hình ảnh bếp lửa nồng đượm khiến cho người đọc cảm nhận được hơi ấm. Đặc biệt từ “ấp iu” dường như là một sáng tạo mới mẻ của nhà thơ. Đó không phải là một từ láy, một từ ghép đơn thuần mà là sự kết hợp và biến thể của hai từ “ấp ủ” và “nâng niu”. “Ấp iu” gợi đến bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng chi chút của người nhóm bếp đó là bà. Ngày qua ngày, bà nhóm lên những ngon lửa, những hơi ấm- một công việc rất đỗi quen thuộc. Từ hình ảnh bếp lửa “ấp iu” theo chiều liên tưởng tự nhiên chúng ta suy nghĩ đến người nhóm lửa, nhóm bếp. Để rồi từ đó chúng ta nhìn thấy được, cảm nhận được nỗi nhớ, tình thương với bà của đứa cháu đang ở xa: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. “Biết mấy nắng mưa” là một cách nói ẩn dụ gợi ra phần nào cuộc đời vất vả lo toan của bà. Bà vì cháu mà hi sinh, vì cháu mà thắp lên những ngọn lửa ấm áp, cho cháu hơi ấm, cho cháu cái ăn, cái mặc.

Hình ảnh bếp lửa tiếp tục khơi dòng ký ức – Đó là những kỉ niệm buồn khó quên đối với người cháu:

Lên bốn tuổi, cháu đã quen mùi khói

Năm ấy,là năm đói mòn, đói mỏi

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến bây giờ sống mũi còn cay!

Hình ảnh những năm tháng chiến tranh chống Pháp gian khổ được hiện về qua thành ngữ “đói mòn, đói mỏi”- chắc hẳn mỗi chúng ta đều không thể quên được trong lịch sử đã có một nạn đói kinh khủng đã xảy ra đã để lại hậu quả hơn hai triệu đồng bào của ta bị chết đói. Hình ảnh con ngựa gầy rạc khiến cho ta liên tưởng tới người bố đánh xe ngựa cũng như chính chú ngựa này. Nạn đói đeo đẳng khiến con người ta mệt mỏi, kiệt sức.Nhưng ấn tượng sâu đậm nhất vẫn là kỉ niệm về “mùi khói”, về “khói hun” làm “nhèm mắt cháu”. một cảnh đời nghèo khổ gắn liền với bếp lửa gia đình trước cách mạng. Vần thơ là những tiếng lòng của cháu về thời thơ ấu đầy gian khổ, rất chân thật và cảm động. Để rồi khi đã lớn, đã trưởng thành thi khi cháu “nghĩ lại đến giờ” vẫn cảm thấy “sống mũi còn cay!”.

Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!

Mẹ cùng cha công tác bận không về,

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?

Tám năm trường kì, gian khổ cháu được ở cùng bà, cùng bà nhóm lên những bếp lửa của tình yêu thương. Bà không chỉ đảm nhiệm vai trò của một người bà mà còn đảm nhiệm trọng trách của một người cha, một người mẹ để nuôi dạy, chăm sóc cháu khi ba mẹ đi công tác xa. Những từ ngữ “bà bảo cháu nghe”, “bà dạy cháu làm”, “bà chăm cháu học” đã cho ta thấy được tình cảm gắn bó, quấn quýt giữa hai bà cháu. Bà luôn dành cho cháu một tình yêu thương vô bờ bến, một tấm lòng đôn hậu. Nên vì vậy dù đang ở phương xa cháu không lúc nào không nhớ về bà, không lúc nào không “ nghĩ thương bà khó nhọc”. Người cháu mang nặng trong trái tim mình tình thương dành cho bà và sự biết ơn về tình cảm của bà.

Miên man theo dòng cảm xúc hồi tưởng, hình ảnh bà càng hiện lên rõ nét, cụ thể với những phẩm chất cao quý. Dù bị giặc đốt nhà nhưng bà vẫn bình tĩnh,vững lòng trước mọi thử thách, khó khăn khốc liệt của chiến tranh. Bà luôn là một hậu phương vững chắc của những người ở tiền tuyến đang làm nhiệm vụ:

Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:

“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,

Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

Lời dặn trực tiếp của bà khi cháu viết thư cho bố không chỉ giúp ta hình dung giọng nói, tiếng nói, tình cảm và suy nghĩ của bà mà còn làm sáng lên phẩm chất của người bà, người mẹ Việt Nam yêu nước, đầy lòng hy sinh, kiên trì nhóm lửa,giữ lửa. Từ hình ảnh “bếp lửa”, người cháu nghĩ về “ngọn lửa”:

Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…

Ngọn lửa ấy như chính cảm tình cảm của bà, tình cảm ấy luôn được thắp lên ấp nóng và có sức mạnh mãnh liệt. Ngọn lửa do chính tay bà nhóm lên mỗi sớm mai cũng chính là nhóm lên niềm yêu thương, bà luôn đặt niềm tin vào cháu, mong cháu có thể tự tin bước trên đường một cách vững vàng nhất. Những dòng thơ cuối là những suy ngẫm, những tình mãnh liệt nhất cháu dành cho bà. Dù không được ở bên bà nhưng trái tim của cháu luôn dõi theo hình bóng của bà. Cháu đã thực hiện được niềm tin bà dành cho cháu, cháu đã đi khắp nơi, gặp gỡ nhiều thứ nhưng vẫn không khi nào thôi nhắc nhở mình: “Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?”.

Bài thơ Bếp lửa đã mang cho mỗi chúng ta những cung bậc cảm xúc rất ngọt ngào thấm đẫm về giá trị tình cảm gia đình, tình bà cháu. Nhà thơ Bằng Việt đã rất thành công khi xây dựng hình tượng “ bếp lửa” để viết về tình cảm bà cháu mãnh liệt, nồng ấm. Không ai có thể sống mà thiếu vắng đi tình cảm thiêng liêng ấy.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Văn học – Tài liệu của Tmdl.edu.vn.

Bạn có thể tải về tập tin thích hợp cho bạn tại các liên kết dưới đây.

Trang chủ: tmdl.edu.vn
Danh mục bài: Văn Học

Lương Sinh

Lương Sinh là một tác giả đầy nhiệt huyết trong lĩnh vực giáo dục, ngoại ngữ và kiến thức. Với hơn 10 năm kinh nghiệm làm việc trong ngành, cô đã tích lũy được rất nhiều kiến thức và kỹ năng quan trọng. Với tình yêu với ngôn ngữ và mong muốn chia sẻ kiến thức, Lương Sinh đã quyết định sáng lập blog tmdl.edu.vn. Trang web này không chỉ là nơi chia sẻ những kinh nghiệm và kiến thức cá nhân của cô, mà còn là một nguồn thông tin hữu ích cho những người quan tâm đến giáo dục, kiến thức và ngoại ngữ. Đặc biệt là tiếng Anh và tiếng Trung Quốc.
Back to top button