Văn Học

Top 4 mẫu cảm nhận về bài thơ Ngắm trăng siêu hay

Cảm nhận của em về bài thơ Ngắm trăng

Cảm nhận bài Ngắm trăng

Cảm nhận của em về bài thơ Ngắm trăng – Nhằm giúp các bạn học sinh có thêm kiến thức khi làm bài cảm nhận bài Ngắn trăng, Tmdl.edu.vn xin chia sẻ bài văn mẫu cảm nhận về bài thơ Ngắm trăng hay và chi tiết. Mời các bạn cùng tham khảo.

Bạn đang xem bài: Top 4 mẫu cảm nhận về bài thơ Ngắm trăng siêu hay

1. Dàn ý cảm nhận bài thơ Ngắm trăng

A. Mở bài:

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm

– Khái quát giá trị bài thơ

B. Thân bài:

1. Nguồn gốc xuất xứ

– Trích trong tập “Nhật kí trong tù” được sáng tác vào năm 1942, khi Bác đang bị giam giữ ở nhà tù Tưởng Giới Thạch, Trung Quốc.

– Tập “Nhật kí trong tù” nói chung và bài thơ “Ngắm trăng” nói riêng đã thể hiện tâm hồn thi nhân cao đẹp, ý chí kiên cường của một chiến sĩ cách mạng, cùng nghệ thuật thi ca đặc sắc.

2. Cảm nhận về nội dung

* Bài thơ “Ngắm trăng” thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu trăng, và tâm hồn thi nhân lãng mạn, cao đẹp của Hồ Chí Minh

– Hoàn cảnh ngắm trăng đặc biệt: “Ngục trung vô tửu diệc vô hoa” (Trong tù không rượu cũng không hoa)

+ Người xưa uống rượu, thưởng hoa, ngắm trăng, đối thơ, còn Bác ngắm trăng trong ngục tù, nơi ấy không có “tửu”, không có “hoa”, mà chỉ có xiềng xích và bóng tối.

– Tình yêu thiên nhiên, cái “cảm” đối với vẻ đẹp của thiên nhiên:

+ Qua song sắt nhà tù, Bác vẫn cảm nhận được vẻ đẹp tuyệt vời của thiên nhiên, của ánh trăng. Xiềng xích nhà tù chỉ có thể trói được thân thể Bác chứ không thể ngăn được tâm hồn thi nhân bay đến với thiên nhiên rộng lớn.

+ Hai câu thơ 3, 4 đối nhau: Mỗi câu thơ chia làm 3, 1 bên là “nhân” (chỉ thi nhân), 1 bên là “nguyệt” (trăng), và ở giữa là song sắt nhà tù. Cấu trúc đối này đã vẽ ra hoàn cảnh thực tại (song sắt nhà tù chia rẽ người và trăng), nhưng chính từ đó, người đọc lại thấy nổi bật lên đó là sự giao thoa, sự hòa quyện giữa thi nhân với ánh trăng, với thiên nhiên trong mọi hoàn cảnh, Qua đó thể hiện tình bạn tri âm tri kỉ đầy xúc động giữa nhà thơ với trăng.

* Bài thơ “Ngắm trăng” còn thể hiện ý chí, nghị lực kiên cường của người chiến sĩ cách mạng.

– Trong cảnh ngục tù tối tắm, Bác Hồ vẫn thể hiện được ý chí, nghị lực phi thường. phong thái ung dung, tự tại, không vướng bận vật chất. bác vẫn ngắm trăng, vẫn hòa mình vào thiên nhiên dù tay chân đang bị kìm kẹp bởi xiềng bởi xích

– Hình ảnh Bác hướng về ánh trăng qua song sắt nhà tù đã cho thấy dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, Bác vẫn luôn đau đáu hướng về bầu trời tự do, về tương lai tươi sáng của đất nước. Ánh trăng ấy hay chính là ánh sáng hi vọng mãnh liệt của một người chiến sĩ cách mạng một lòng muốn giải phóng dân tộc.

3. Cảm nhận về nghệ thuật

– Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt ngắn gọn, súc tích, bộc lộ trực tiếp tâm trạng của nhận vật trữ tình.

– Nghệ thuật đối được sử dụng tinh tế, thể hiện giá trị tư tưởng của bài thơ.

C. Kết bài:

– Cảm nhận chung về bài thơ

– Liên hệ: Nhà phê bình Hoài Thanh đã có nhận xét vô cùng chính xác: “Thơ Bác đầy trăng”.

2. Sơ đồ tư duy cảm nhận bài Ngắm trăng

so do tu duy cam nhan ve bai tho ngam trang ho chi minh

3. Cảm nhận bài thơ Ngắm trăng – Mẫu 1

Trăng – người bạn tâm giao, người bạn tri kỉ muôn đời của Bác. Trăng đồng hành cùng Bác trong tất cả mọi chặng đường hoạt động cách mạng. Và trong những năm tháng gian lao ấy, ta sao có thể quên sự giao hòa giữa Người và ánh trăng khi ở nhà lao Trung Quốc. Vẻ đẹp của thiên nhiên mà nổi bật hơn cả là vẻ đẹp của con người đã được thể hiện đầy đủ qua bài thơ Ngắm trăng.

Trăng vốn là một thi đề lớn trong sáng tác của Bác, có thể kể đến như Cảnh khuya:

Tiếng hát trong như tiếng hát xa

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa

Hay bài thơ Nguyên tiêu:

Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên

Xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên

Yên ba thâm xứ đàm quân sự

Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền

Người ta vẫn thường dành những phút nhàn rỗi, thảnh thơi để bên chén trà thơm, chiếc kẹo ngọt mà thưởng thức ánh trăng, ngẫm chuyện mình và ngẫm chuyện đời. Còn đối với Bác, nào cần thảnh thơi, nào cần khung cảnh hoàn mĩ, chỉ cần một tình yêu, một lòng say mê thì dù có là hoàn cảnh đề lao tàn nhẫn, Người vẫn có thể mở rộng tâm hồn mình mà thưởng thức ánh trăng:

Ngục trung vô tửu diệc vô hoa
Đối thử lương tiêu nại nhược hà

Hiện thực khắc nghiệt được dựng lên một cách chân thực và đầy đủ nhất, không rượu cũng chẳng hoa. Điều kiện cơ sở để ngắm trăng chẳng phải là quá thiếu thốn đó sao. Nhưng trước cảnh đẹp khiến con người ta nao lòng thổn thức sao có thể dừng lại được. Câu hỏi tu từ “biết làm thế nào” (nại nhược hà) vừa là sự băn khoăn, trăn trở chưa biết làm sao, vừa là sự hứng khởi, hào hứng khi được gặp lại người bạn tri âm. Bởi vậy, trong câu thơ dồn nén cả hai dòng cảm xúc, vừa ưu tư vừa vui sướng, hạnh phúc.

Và đẹp nhất chính là cuộc vượt thoát giữa người và trăng, để tạo nên sự giao hòa tuyệt đối giữa hai người bạn:

Nhân hướng song tiền khan minh nguyệt
Nguyệt tong song khích khan thi gia

Hai câu thơ này có thể coi là đỉnh cao của nghệ thuật đối, đối giữa hai câu, đối trong một câu vô cùng chỉnh. Nhân đối với nguyệt, nguyệt đối với thi gia, kết hợp với điệp từ khán cho thấy sự giao hòa tuyệt đối giữa con người và thiên nhiên. Trong hoàn cảnh tù ngục tối tăm, bị tra tấn, phải di chuyển liên tục ở nhiều nơi, nhưng không vì thế mà Bác mất đi tình yêu thiên nhiên, lòng đắm say trước khung cảnh đẹp, đặc biệt là ánh trăng. Hai gương mặt trong sáng, toàn bích trăng và nhà thơ không thể bị những song sắt lạnh giá ngăn cản, họ vẫn vượt thoát khỏi khung cảnh khắc nghiệt đó để giao hòa cùng nhau. Đây có thể coi là hai câu thơ đẹp đẽ, độc đáo nhất trong bài thơ. Tư thế ngắm trăng của Bác đã cho thấy tình yêu trăng, và một tâm hồn thanh cao, rộng mở vời tình yêu thiên nhiên và khát vọng tự do tha thiết. Đúng như những gì mà Bác đã viết ở đầu của tập Nhật kí Trong tù:

Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao.

Ngắm trăng là bài thơ tứ tuyệt hay và đặc sắc nhất của Bác trong tập thơ Nhật kí trong tù. Tác phẩm với lối ngôn ngữ cô đọng, hàm súc, giàu ý nghĩa, cùng nghệ thuật đối tài tình vừa cho thấy tình yêu thiên nhiên của Bác vừa cho thấy tấm lòng yêu tự do, và hết sức ung dung, tự tại trong hoàn cảnh tù ngục.

4. Cảm nhận bài thơ Ngắm trăng – Mẫu 2

Nhà văn Hoài Thanh có nói: “Thơ Bác đầy trăng”. Thật vậy, Bác đã viết nhiều bài thơ trăng. Trong số đó, bài “Ngắm trăng” là bài thơ tuyệt tác, mang phong vị Đường thi, được nhiều người ưa thích.

Nguyên tác bằng chữ Hán, đây là bản dịch bài thơ:

“Trong tù không rượu cũng không hoa

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ.

Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”.

Bài thơ rút trong “Nhật kí trong tù”; tập nhật kí bằng thơ được viết trong một hoàn cảnh đọa đày đau khổ, từ tháng 8 -1942 đến tháng 9 -1943 khi Bác Hồ bị bọn Tưởng Giới Thạch bắt giam một cách vô cớ. Bài thơ ghi lại một cảnh ngắm trăng trong nhà tù, qua đó nói lên một tình yêu trăng, yêu thiên nhiên tha thiết.

Hai câu thơ đầu ẩn chứa một nụ cười thoáng hiện. Đang sống trong nghịch cảnh, và đó cũng là sự thật “Trong tù không rượu cũng không hoa” thế mà Bác vẫn thấy lòng mình bối rối, vô cùng xúc động khi vầng trăng xuất hiện trước cửa ngục đêm nay. Ánh trăng mang đến cho thi nhân bao cảm xúc, bồi hồi.

Trăng, hoa, rượu là ba thú vui tao nhã của khách tài tử văn chương. Đêm nay trong tù, Bác thiếu hẳn rượu và hoa, nhưng tâm hồn Bác vẫn dạt dào trước vẻ đẹp hữu tình của thiên nhiên. Câu thơ bình dị mà dồi dào cảm xúc. Bác vừa băn khoăn, vừa bối rối tự hỏi mình trước nghịch cảnh: Tâm hồn thì thơ mộng mà chân tay lại bị cùm trói, trăng đẹp thế mà chẳng có rượu, có hoa để thưởng trăng?

“Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ”.

Sự tự ý thức về cảnh ngộ đã tạo cho tư thế ngắm trăng của người tù một ý nghĩa sâu sắc hơn các cuộc ngắm trăng, thưởng trăng thường tình. Qua song sắt nhà tù, Bác ngắm vầng trăng đẹp. Người tù ngắm trăng với tất cả tình yêu trăng, với một tâm thế “vượt ngục” đích thực? Song sắt nhà tù không thể nào giam hãm được tinh thần người tù có bản lĩnh phi thường như Bác:

“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ”…

Từ phòng giam tăm tối, Bác hướng tới vầng trăng, nhìn về ánh sáng, tâm hồn thêm thư thái. Song sắt nhà tù tỉnh Quảng Tây không thể nào ngăn cách được người tù và vầng trăng! Máu và bạo lực không thể nào dìm được chân lí, vì người tù là một thi nhân, một chiến sĩ vĩ đại tuy “thân thể ở trong lao” nhưng “tinh thần ở ngoài lao”.

Câu thứ tư nói về vầng trăng. Trăng có nét mặt, có ánh mắt và tâm tư. Trăng được nhân hóa như một người bạn tri âm, tri kỉ từ viễn xứ đến chốn ngục tù tăm tối thăm Bác. Trăng ái ngại nhìn Bác, cảm động không nói nên lời, Trăng và Bác tri ngộ “đối diện đàm tâm”, cảm thông nhau qua ánh mắt. Hai câu 3 và 4 được cấu trúc đăng đối tạo nên sự cân xứng hài hòa giữa người và trăng, giữa ngôn từ, hình ảnh và ý thơ:

“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”.

Ta thấy: “Nhân, Nguyệt” rồi lại “Nguyệt, Thi gia” ở hai đầu câu thơ và cái song sắt nhà tù chắn ở giữa. Trăng và người tù tâm sự với nhau qua cái song sắt nhà tù đáng sợ ấy. Khoảnh khắc giao cảm giữa thiên nhiên và con người xuất hiện một sự hóa thân kì diệu: “Tù nhân” đã biến thành thi gia. Lời thơ đẹp đầy ý vị. Nó biểu hiện một tư thế ngắm trăng hiếm thấy. Tư thế ấy chính là phong thái ung dung, tự tại, lạc quan yêu đời, yêu tự do. “Ngắm trăng” là một bài thơ trữ tình đặc sắc. Bài thơ không hề có một chữ “thép” nào mà vẫn sáng ngời chất “thép”. Trong gian khổ tù đày, tâm hồn Bác vẫn có những giây phút thảnh thơi, tự do ngắm trăng, thưởng trăng.

Bác không chỉ ngắm trăng trong tù. Bác còn có biết bao vần thơ đặc sắc nói về trăng và niềm vui ngắm trăng: Ngắm trăng trung thu, ngắm trăng ngàn Việt Bắc, đi thuyền ngắm trăng… Tuổi thơ của Bác đầy trăng: “Trăng vào cửa sổ đòi thơ…”, “… Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền…”, “Sao đưa thuyền chạy, thuyền chờ trăng lên…”. Trăng tròn, trăng sáng… xuất hiện trong thơ Bác vì Bác là một nhà thơ giàu tình yêu thiên nhiên, vì Bác là một chiến sĩ giàu tình yêu đất nước quê hương. Bác đã tô điểm cho nền thi ca dân tộc một số bài thơ trăng đẹp.

Đọc bài thơ tứ tuyệt “Ngắm trăng” này, ta được thưởng thức một thi phẩm mang vẻ đẹp cổ kính, hoa lệ. Bác đã kế thừa thơ ca dân tộc, những bài ca dao nói về trăng làng quê thôn dã, trăng thanh nơi Côn Sơn của Nguyễn Trãi; trăng thề nguyền, trăng chia li, trăng đoàn tụ, trăng Truyện Kiều; “Song thưa để mặc bóng trăng vào”… của Tam Nguyên Yên Đổ…

Uống rượu, ngắm trăng là cái thú thanh cao của các tao nhân mặc khách xưa, nay – “Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén” (Nguyễn Trãi). Ngắm trăng, thưởng trăng đối với Bác Hồ là một nét đẹp của tâm hồn rất yêu đời và khát khao tự do. Tự do cho con người. Tự do để tận hưởng mọi vẻ đẹp thiên nhiên của quê hương xứ sở. Đó là cảm nhận của nhiều người khi đọc bài thơ “Ngắm trăng” của Hồ Chí Minh.

5. Cảm nhận bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí Minh – Mẫu 3

Trăng – một đề tài vô cùng quen thuộc trong thi ca, đề tài ấy luôn là nguồn cảm hứng bất tận của các thi nhân. Chúng ta không quên Lý Bạch với “Ngẩng đầu ngắm trăng sáng/ Cúi đầu nhớ cố hương”, rồi một Hàn Mặc Tử với “Ai mua trăng tôi bán trăng cho?” Tất cả họ đều mang một nỗi niềm sâu sắc, một tình yêu mãnh liệt với trăng. Hồ Chí Minh của chúng ta cũng vậy. Trăng với Người là tri kỉ, là chiến hữu suốt mỗi chặng đường. Và trong thời gian bị bắt giam ở nhà tù của Tưởng Giới Thạch, Người đã viết nên tác phẩm “Ngắm trăng” – một trong những tác phẩm viết về trăng hay nhất của Người.

Bài thơ “Vọng nguyệt – Ngắm trăng” nằm trong tập “Nhật kí trong tù”, được Người viết vào giai đoạn 1942 – 1943, khi đang bị cầm tù trong nhà lao Tưởng Giới Thạch. Tập thơ ấy không chỉ ghi lại những gian khổ Người trải qua mà còn ghi lại cả hình ảnh một thi nhân với tấm lòng yêu thiên nhiên đầy mãnh liệt nữa. Và “Vọng nguyệt – Ngắm trăng” chính là một minh chứng rõ ràng nhất cho điều đó. Nó vừa là bức tranh hiện thực chốn lao tù, vừa là tình yêu thiên nhiên, vừa chứa đựng tinh thần lạc quan, yêu đời của Bác ở trong đó:

“Ngục trung vô tửu diệc vô hoa

Đối thử lương tiêu nại nhược hà

Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt

Nguyệt tòng song khích khán thi gia”

Dịch thơ:

(Trong tù không rượu cũng không hoa

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ

Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ)

Mở đầu bài thơ, mở ra trước mắt độc giả là một không gian thật chật hẹp, nhỏ bé, hơn nữa lại vô cùng thiếu thốn:

“Ngục trung vô tửu diệc vô hoa
Đối thử lương tiêu nại nhược hà”

Dịch thơ:

(Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ)

Xưa nay, thi nhân ngắm trăng bao giờ cũng ngắm trăng trong không gian thoáng đãng, rộng rãi, không chỉ thế, bên cạnh còn có cả rượu cả hoa để thưởng cùng. Như Lý Bạch trong bài thơ “Nguyệt hạ độc chước kì” đã viết thế này:

“Trong đám hoa với một bình rượu
Uống một mình không có ai làm bạn
Nâng ly mời với trăng sáng”

Không gian ngắm trăng của Lý Bạch vừa cao rộng, thoải mái, đẹp đẽ, vừa thi vị biết bao, có rượu, có hoa, lại có vầng trăng làm bạn tâm tình cùng. Vậy mà Hồ Chí Minh thì hoàn toàn đối ngược, một không gian chật hẹp trong ngục tù, lại chẳng “tửu”, chẳng “hoa”, thật là quá thiếu thốn. “Ngục trung” đọc lên ta thấy được hoàn cảnh tù đày kìm kẹp Người, không cho Người có được tự do. Hơn thế, điệp từ “vô” được lặp lại liên tiếp trong cùng một câu thơ, phải chăng để nhấn mạnh sự thiếu thốn mọi bề, chỉ có xiềng xích, gông cùm là sẵn có?

Cứ tưởng trong hoàn cảnh ấy sẽ chẳng có tâm trí mà ngắm trọn vầng trăng đẹp đẽ ngoài kia, ấy vậy mà trước ánh trăng đang chiếu rọi bên ngoài kia, Người vẫn thật xúc động mà nói lên hoàn cảnh của mình. Hoàn cảnh ngắm trăng của Người thật đặc biệt, thế nhưng điều đó chẳng làm tâm hồn Người khỏi xúc động trước vẻ đẹp của vầng trăng vĩnh cửu kia. Tâm hồn nhạy cảm của một thi nhân trong Bác đang bị rung động thật mạnh bởi cái đẹp của vầng trăng kia. Người bối rối, xúc động, không biết nên làm sao “nại nhược hà”. Vầng trăng tròn lơ lửng giữa không trung, tự do giữa bầu trời cao rộng. Điều đó dường như đã làm dấy lên một niềm khao khát tự do thật mạnh mẽ trong Người, thôi thúc được thoát ra, được hòa mình vào cùng thiên nhiên ấy.

Trong hoàn cảnh thiếu thốn ấy, nghịch cảnh ấy, tâm hồn Bác đã vượt ra khỏi chốn lao tù chật hẹp để bay lên làm bạn cùng vầng trăng trên cao. Trong những giờ phút nguy nan, căng thẳng nhất của cuộc đời, Bác vẫn để cho tâm hồn mình tìm về với thiên nhiên, tìm về với những chốn bình yên nhất của cuộc sống. Đó chắc hẳn cũng là một phương thức để tạo ra sự thư thái Người dùng để cân bằng lại cuộc sống vốn nhiều lo toan của mình. Cuộc sống trong ngục từ khốn khó là thế, thân xác bị tù đày là vậy, nhưng những lời thơ của Bác vẫn bay bổng trong không gian, “vượt lao tù” đến với thế giới rộng lớn, tự tại ngoài kia.

Bằng tâm hồn yêu thiên nhiên tha thiết, cái nhìn đầy tinh tế, Hồ Chí Minh đã vẽ lên cho chúng ta thấy một không gian thật cao rộng của bầu trời với ánh trăng sáng đang chiếu rọi ngoài kia. Ngắm trăng với Bác không chỉ là một thú chơi tao nhã mà còn là biểu hiện của một tâm hồn thiết tha yêu thiên nhiên, yêu trăng như bạn hiền. Người ở trong ngục mà vẫn ung dung ngồi ngắm trăng thì quả thật tâm hồn ấy, ý chí ấy thật lạc quan, thật mạnh mẽ biết bao.

Bước sang hai câu thơ sau, vẫn với cái phong thái ung dung như một nhà hiền triết, Người tả lại việc ngắm trăng của mình thật chân thực đến khó tin:

“Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt
Nguyệt tòng song khích khán thi gia”

Dịch thơ:

(Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ)

Phải nói, từ cổ chí kim đến nay, chẳng có mấy ai lại có một hoàn cảnh ngắm trăng kì lạ như Bác. Đang bị giam trong ngục tù, vậy mà tâm trí vẫn chỉ hướng theo ánh trăng sáng tỏ bầu trời kia, ung dung trước những khó khăn đang gặp phải trước mắt. Đọc hai câu thơ cuối, người đọc nhận ra ba nhân vật trung tâm của bức tranh tả cảnh của Hồ Chí Minh: người, trăng và cái song sắt của nhà tù.

Trong nguyên tác của Người, Người đã khéo léo lồng vào trong từng câu chữ dụng ý của mình. Người để hình ảnh con người xuất hiện trước tiên, đến song sắt rồi đến ánh trăng, đến câu kết thì lại đảo ngược lại. Hai người bạn tri kỉ của nhau nhưng lại cách nhau một cái song sắt nhà tù. Ngoài kia là ánh trăng rực rỡ đang mời gọi người thi nhân, vậy mà thi nhân chỉ có thể lặng im đứng ngắm nhìn. Thế nhưng ngẫm lại mới thấy cái nhìn lặng im ấy thật tha thiết, nồng nàn biết bao.

Với một phép nhân hóa tài tình, Hồ Chí Minh đã biến vầng trăng kia trở thành một con người thực thụ. Con người “trăng” ấy cũng đang đối diện ngắm lại thi nhân của chúng ta. Ở đây cái đẹp, chủ thể trong câu thơ đã bị đảo ngược lại. Thi nhân giờ đây mới là chủ thể, là cái đẹp đang tỏa sáng trong ngục tù khiến vầng trăng phải ngước nhìn. Câu thơ này, Hồ Chí Minh đặc biệt sử dụng từ “tòng – nhòm” để gợi tả lên cái nhìn của vầng trăng. Cái nhìn ấy có vẻ như còn đang nghi ngại, xót xa cho hoàn cảnh của người thi nhân trong ngục.

Hai câu thơ cuối, chúng ta thấy hòa quyện trong đó chất lãng mạn cùng với chất hiện thực và cả chất chiến sĩ hòa quyện cùng thì nhân. Một thi nhân, một chiến sĩ Cách mạng ở lao tù mà vẫn điềm tĩnh ngắm nhìn vầng trăng qua khe cửa sổ, đó là biểu hiện của một tâm hồn lạc quan, một ý chí mạnh mẽ trước cuộc đời. Mở đầu bằng “ngục trung” nhưng kết lại lại là “thi gia”, ở đây chẳng có một tù nhân trong ngục nào cả. Vậy mới thấy tuy thân xác Bác có rơi vào tăm tối, nơi lao tù chật hẹp thì tâm hồn Người vẫn tự do yêu đời, yêu thiên nhiên, bay bổng cùng thiên nhiên.

Bài thơ khép lại nhưng đọng lại trong chúng ta vẫn là hình ảnh đẹp đẽ vô cùng của người tù Cách mạng Hồ Chí Minh. Dù trong chốn ngục tù tối tăm, Người vẫn luôn có cách để ánh sáng chiếu rọi vào đó, để khẳng định một tâm hồn tràn ngập tình yêu cuộc đời, thiên nhiên.

Hồ Chí Minh qua “Vọng Nguyệt” đã cho chúng ta một bài học về nhân sinh trong cuộc sống. Đó là dù trong hoàn cảnh nào cũng luôn lạc quan, yêu đời, vượt lên trên hoàn cảnh. Ngay trong ngục tù, Người vẫn có thể ngắm trăng, thưởng trăng, tâm hồn ấy thật lạc quan biết mấy. Đó là tâm hồn tràn ngập tự do, tràn ngập tình yêu đời, lạc quan về cuộc sống, vượt mọi hoàn cảnh để tìm đến với tự do, đúng như tinh thần mà tiêu để của tập thơ “Nhật kí trong tù” đề cập đến.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Văn học – Tài liệu của Tmdl.edu.vn.

Trang chủ: tmdl.edu.vn
Danh mục bài: Văn Học

Lương Sinh

Lương Sinh là một tác giả đầy nhiệt huyết trong lĩnh vực giáo dục, ngoại ngữ và kiến thức. Với hơn 10 năm kinh nghiệm làm việc trong ngành, cô đã tích lũy được rất nhiều kiến thức và kỹ năng quan trọng. Với tình yêu với ngôn ngữ và mong muốn chia sẻ kiến thức, Lương Sinh đã quyết định sáng lập blog tmdl.edu.vn. Trang web này không chỉ là nơi chia sẻ những kinh nghiệm và kiến thức cá nhân của cô, mà còn là một nguồn thông tin hữu ích cho những người quan tâm đến giáo dục, kiến thức và ngoại ngữ. Đặc biệt là tiếng Anh và tiếng Trung Quốc.
Back to top button