Cảm nhận về thời gian trong Vội vàng
Phân tích quan niệm về thời gian trong Vội vàng của Xuân Diệu
Vội vàng là một tác phẩm xuất sắc của nhà thơ Xuân Diệu về thời gian, về tuổi xuân, về tình yêu đời, yêu cuộc sống. Cách nhìn nhận về thời gian của tác giả cũng rất tinh tế, độc đáo, nhạy cảm đặc biệt là ở khổ 2 Vội vàng. Trong bài viết này Tmdl.edu.vn xin chia sẻ đến các bạn dàn ý phân tích quan niệm về thời gian trong Vội vàng kèm theo các bài văn mẫu cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu qua bài thơ Vội vàng.
Bạn đang xem bài: Top 5 bài phân tích quan niệm về thời gian trong Vội vàng
1. Dàn ý phân tích quan niệm về thời gian trong Vội vàng
Mở bài
– Giới thiệu khái quát về tác giả Xuân Diệu và bài thơ Vội vàng
– Dẫn dắt, giới thiệu phần thứ 2 của bài thơ.
Thân bài
– Quan niệm về thời gian có nhiều cách nói. Xuân Diệu cũng có một cách nói rất riêng của nhà thơ: tương phản đối lập để chỉ ra một đời người chỉ có một tuổi xuân; tuổi trẻ một đi không trở lại.
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất
=> Giọng thơ sôi nổi như nước tự mạch nguồn tuôn ra. Một hệ thống tương phản đối lập: “tới” – “qua”, “non” – “già”, “hết” – “mất”, “rộng” – “chật”, “tuần hoàn” – bất phục hoàn, vô hạn – hữu hạn – để khẳng định một chân lý tuổi xuân một đi không trở lại, phải biết trân quý và giữ gìn.
– Cách nhìn nhận về thời gian cũng rất tinh tế, độc đáo, nhạy cảm. Và mối tương giao mầu nhiệm của cảnh vật, của tạo vật hình như mang theo nỗi buồn chia phôi hoặc tiễn biệt, hờn vì xa cách, sợ vì phai tàn sắp sửa.
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.
– Cũng là gió, là chim… nhưng gió thì thào vì hờn, chim bỗng ngừng hót, ngừng rao vì sợ! Câu hỏi tu từ xuất hiện cũng làm nổi bật nghịch lý giữa mùa xuân – tuổi trẻ và thời gian:
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
– Câu cảm thán với cách ngắt nhịp biến hóa làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn, vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khuâng:
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…
Kết bài:
– Khái quát lại vấn đề
2. Phân tích sự cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu qua bài Vội vàng
Vội vàng là một trong những bài thơ đặc sắc nhất trong tập Thơ thơ (1938). Vượt qua dòng chảy thời gian hơn 60 năm rồi, mà những ý tưởng mới mẻ về thời gian, về tuổi xuân, về tình yêu đời, yêu cuộc sống cùng với một giọng thơ nồng nhiệt đắm say vẫn lôi cuốn chúng ta một cách kì lạ. Đây là đoạn thơ trích trong phần 2 bài Vội vàng nói lên sự cảm nhận về thời gian của thi sĩ Xuân Diệu:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi.
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt …
Hai câu thơ đầu đoạn, với cách ngắt, nhịp 3/5, đọc lên ta cảm thấy cái nhún nhảy của mùa xuân, của thời gian:
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
Các từ ngữ: “đương tới” với “đương qua”, “còn non” với “sẽ già” tương ứng, đối lập nhau, diễn tả mùa xuân và thời gian vận động không ngừng. Bước đi của mùa xuân, dòng chảy của thời gian là mải miết, vô tận. Trong hiện tại “đang tới” đã có màu ly biệt “đương qua”. Chữ “đang” chuyển thành chữ “đương” mộ: cách nói điệu đà, rất thơ. Trong dáng vẻ “còn non” hôm nay đã báo hiệu một tương lai “sẽ già”. Cách cảm nhận của thi sĩ về thời gian và mùa xuân là tinh tế và biểu cảm. Đó là một ý tưởng rất tiến bộ. Cũng chữ “non” và chữ “già” ấy, ông có những các cảm nhận rất độc đáo bằng một tâm hồn lãng mạng với cặp mắt xanh non.
Tình yêu đến, tình yêu đi, ai biết
Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt…
(…) Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ!
Em, em ơi! Tình non sắp già rồi…
(Giục giã)
Và ông cũng nhìn thấy sự vật phát triển và đổi thay không ngừng. Mùa xuân thời gian và sự sống thật vô cùng kỳ diệu:
Mấy hôm trước còn hoa
Mới thơm đây ngào ngạt
Thoáng như một nghi ngờ
Trái đã liền có thật
(Quả sấu non trên cao)
Bảy câu thơ tiếp theo nói lên nghịch lý giữa tuổi trẻ, đời người với thời gian và vũ trụ. Và đó cũng là bi kịch của con người, đời người. Khi “xuân hết”, tuổi trẻ đi qua “nghĩa là tôi cũng mất”. Mất ý vị cuộc đời. Tuổi trẻ đáng yêu biết bao! Mỗi người chỉ có một thời son trẻ. Cũng như thời gian trôi qua, tuổi trẻ một đi không trở lại:
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất
“Lượng trời cứ chật” mà “lòng tôi rộng”, muốn trường sinh bất tử, muốn trẻ mãi không già. Quy luật của sự sống thật vô cùng nghiệt ngã: “Không cho dài thời trẻ của nhân gian”. “Hảo hoa vô bách nhật – Nhân thọ vô bách tuế” (Nguyễn Du). “Mỗi năm một tuổi như đuổi xuân đi…” (Tục ngữ). Một lần nữa thi sĩ lại đặt ngôn ngữ trong thế tương phản giữa “rộng” với “chật”, để nói lên cái nghịch lý của đời người. Cũng là một cách cảm nhận thời gian rất thực.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Xuân của bốn mùa thì tuần hoàn (xuân khứ, xuân lai, xuân bất tận) nhưng đời người chỉ có một thời thanh xuân. Tuổi trẻ “chẳng hai lần thắm lại”. Vũ trụ đất trời thì vĩnh hằng, vô hạn, trái lại đời người thì hữu hạn. Kiếp nhân sinh nhiều bi kịch. Ai cũng muốn trẻ mãi không già, ai cùng muốn được sống mãi với tuổi xanh, tuổi hoa niên. Tiếng thơ cất lên như một lời than tiếc nuối:
…Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời
“Tiếc cả đất trời” vì không được trẻ mãi để tận hưởng mọi cái đẹp của thiên nhiên và cuộc đời. Đó là lòng yêu đời và ham sống, khao khát được sống hết mình với tuổi trẻ:
Mười chín tuổi, hỡi những nàng má ngọc
Ríu rít chim, là tuổi ước mơ hoa!
Hãi chàng trai kiều diễm mãi vui ca.
Mười chín tuổi! Chẳng hai lần hoa nở!
(Đẹp – Xuân Diệu)
“Tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại” cùng như “Mười chín tuổi! Chẳng hai lần hoa nở”, đó là bi kịch của người đời, xưa và nay. Có ham sống và yêu đời mới cảm nhận sâu sắc bi kịch ấy. Vì thế không được vung phí thời gian và tuổi trẻ.
Hai câu thơ cuối dào dạt cảm xúc. Nhà thơ xúc động lắng nghe bước đi của thời gian, tiếng “than thầm tiễn biệt” của sông núi, của cảnh vật. Xuân Diệu rất nhạy cảm với thời gian trôi đi qua “mùi”, “vị” của năm tháng “chia phôi” trong dòng chảy vô tận. Một cách cảm nhận thời gian rất thơ, rất tinh tế:
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi.
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt
Đoạn thơ trên đây cho thấy vẻ đẹp trong thơ Xuân Diệu: sự trau chuốt về ngôn từ, sự tinh tế trong cảm xúc biểu hiện. Một quan niệm nhân sinh rất tiến bộ về thời gian, về mùa xuân và tuổi trẻ. Cái tôi cá nhân trữ tình được khẳng định. Ham sống và yêu đời; sống hết mình, sông trong tình vêu – đó là những ý tưởng rất đẹp, vẻ đẹp của một hồn thơ lãng mạn – “vội vàng” không nghĩa là sống gấp như ai đó đã nói.
3. Cảm nhận về quan niệm thời gian của Vội vàng
Xuân Diệu được biết đến với một hồn thơ phóng khoáng, đắm say mãnh liệt với tính yêu, với cuộc đời. Ông cũng được coi là nhà thơ có cảm, thức đặc biệt về thời gian. Dấu ấn cảm thức về thời gian cũng được ông thể hiện rõ qua các sáng tác của mình, đặc biệt là trong bài thơ “Vội vàng”.
Thời gian trong vũ trụ thì muôn đời vẫn thế, chỉ có quan niệm của con người về thời gian là thay đổi. Sự đổi thay do trình độ nhận thức khoa học, ý thức triết học, ý thức thẩm mỹ của mỗi thời mỗi khác. Trong bải thơ, Xuân Diệu đưa ra quan niệm mới về thời gian: Cách thức trình bày của Xuân Diệu là chống đối, tranh cãi lại quan niệm xưa kia, đồng thời bộc bạch quan niệm của mình bằng một cảm xúc sôi nổi, cuồng nhiệt, nghĩa là bằng một dạng thức triết học đã được thấm nhuần cảm xúc, giọng điệu chính của đoạn thơ là giọng tranh luận, biện bác, nhịp điệu rất sôi nổi, khẩn trương. Đoạn thơ có những câu thơ đẫy mĩ cảm về cảnh sắc thiên nhiên, trong đó chứa đựng những cảm nhận về thời gian. Quan niệm cũ về thời gian mà Xuân Diệu muốn chống đối là thời gian tuần hoàn, nghĩa là thời gian được hình dung như một vòng tròn liên tục tái diễn, hết một vòng lại quay về điểm xuất phát, cứ trở đi rồi trở lại. Mà vòng tuần hoàn thì những thời khắc, thời đoạn của nó có ra đi rồi cũng sẽ quay trở về. Quan niệm xuất phát từ cái nhìn tĩnh, có phần siêu hình lấy sinh mệnh vũ trụ làm thước đo thời gian, Xuân Diệu coi thời gian như một dòng chảy xuôi chiều, một đi không trở lại. Vì thể một khoảnh khắc một khi đã trôi qua là mất đi vĩnh viễn. Quan niệm này xuất phát từ cái nhìn đậm chất biện chứng về vũ trụ, về thời gian”
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”
Xuân Diệu đã lấy sinh mệnh cá thể làm thước đo thời gian, tức là lấy quỹ thời gian hữu hạn trong sinh mệnh cá thể ra để đo đếm thời gian vũ trụ, thậm chí lấy quãng ngắn nhất, giàu ý nghĩa nhất trong sinh mệnh của con người để làm thước đo cho thời gian:
“Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm cho rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên băng khuâng tôi tiếc cả đất trời”
Vì thế, cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu là cảm nhận đầy mất mát. Mỗi khoảnh khắc trôi quan là một sự mất mát, đó chính là một phần đời trong sinh mệnh cá thể.
Hai câu thơ thể hiện rất rõ cách cảm nhận tinh vi về thời gian của Xuân Diệu:
“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn tham thầm tiễn biệt”
Mỗi khoảnh khắc như một cuộc chia lìa, một mất mát, và dòng thời gian được nhìn như một chuỗi vô tận của mất mát, chia phôi. Và đó đây, khắp sông núi vẫn là lời than thầm tiễn biệt thời gian, mà sâu xa hơn, sự vật tự nhiên đang tiễn biệt cuộc đời của chính nó, những phần đời của sinh mệnh mình đang ra đi không thể nào cưỡng lại được. Nó tạo nên sự trôi chảy không ngừng, tạo nên sự phôi phai, phai tàn trong từng cá thể”
“Cơn gió xinh…
….ngả chiều hôm”
Cách cảm nhận về thời gian như vậy xét cho cùng là xuất phát từ ý thức sâu xa về giá trị của sự sống, cá thể mỗi khoảng khắc trong đời sống cá thể đều vô cùng quý giá. Nó quý giá chính vì khi mất đi là mất đi vĩnh viễn, quan niệm ấy khiến cho con người biết quý những giây phút của đời mình, và biết làm cho mỗi khoảnh khắc cuộc đời mình tràn đầy ý nghĩa. Có như thế mới là biết sống, và đây mới là cơ sở sâu xa của thái độ sống vội vàng.
Toàn bộ quan niệm về thời gian của Xuân Diệu đã thể hiện sự tích cực rất đáng trân trọng trong tư tưởng của ông. Cảm thức đặc biệt về thời gian của nhà thơ mở ra một cách sống “vội vàng”, nhưng đó là cách sống trọn vẹn cho những gì tươi đẹp nhất.
4. Quan niệm về thời gian của Xuân Diệu trong bài thơ Vội vàng
Cùng với sự chuyển vần của không gian vũ trụ là sự trôi chảy của thời gian. Thực tế, thời gian tự nhiên, thời gian khách quan muôn đời vẫn thế.
Nhưng quan niệm về thời gian, sự cảm nhận về thời gian thì mỗi thời đại, mỗi cá nhân môi khác. Vậy nên mới có sự không đồng nhất trong quan niệm về thời gian của Xuân Diệu với các thi nhân xưa.
Trong thơ ca cổ điển, nhiều thi nhân từng than thở về sự ngắn ngủi của kiếp người. Họ gọi thời gian là áng phù vân, là bóng cầu qua cửa sổ. Nhưng do xuất phát từ cái nhìn tĩnh, có phần siêu hình, lấy sinh mệnh vũ trụ để làm thước đo thời gian nên nhiều nhà thơ trung đại quan niệm thời gian là tuần hoàn, vĩnh cửu. Nghĩa là thời gian được hình dung như một vòng tròn liên tục tái diễn, hết một vòng quay lại về điểm xuất phát, cứ trở đi rồi trở lại mãi mãi. Mà đã là vòng tuần hoàn thì những thời khắc, thời đoạn của nó có ra đi rồi cũng sẽ quay trở về:
Xuân thứ bách hòa lạc
Xuân đáo bạch hoa khai.
(Xuân đi, trăm hoa rụng,
Xuân đến, trăm hoa nở.)
(Cáo tật thị chúng – Mãn Giác Thiền sư)
Vậy nên nhiều người vẫn đinh ninh người chết chưa hẳn là hư vô mà có thể cùng với cộng đồng và trời đất tuần hoàn:
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
(Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết.
Đêm qua, một cành mai trước sân.)
(Cáo tật thì chúng – Mãn Giác Thiền sư)
Đến Xuân Diệu và các nhà thơ mới, do có sự thức tỉnh của ý thức cá nhân mà quan niệm về thời gian ở họ đã hoàn toàn đổi khác. Xuân Diệu cho rằng thời gian là tuyến tính, như một dòng chảy xuôi chiều, trôi chảy nhanh chóng, một đi không trở lại, mỗi phút trôi qua là mất đi vĩnh viễn:
Cái bay không đợi cái trôi,
Từ tội phút trước, sang tội phút này.
(Đi thuyền)
Quan niệm này xuất phát từ cái nhìn động, rất biện chứng về vũ trụ, về thời gian
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non, nghĩa là cuốn sẽ già.
Điệp ngữ nghĩa là thu khít, xếp trùng khoảng cách thời gian đương tới với đương qua, còn non và sẽ già. Nó cắt nghĩa về bước đi nhanh chóng, gấp gáp của thời gian. Khác với người xưa, Xuân Diệu lấy sinh mệnh cá thể làm thước đo thời gian. Tức là lấy cái hữu hạn của đời người ra để đo đếm thời gian trong vũ trụ. Thậm chí ông còn lấy quãng ngắn nhất, giàu ý nghĩa nhất của cuộc đời là tuổi trẻ ra để làm thước đo:
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho hoài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,.
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.
Phải vậy chăng mà cảm nhận về thời gian của thi nhân là cảm nhận đầy tính mất mát. Mỗi khoảnh khắc trôi qua là một sự mất mát, một phần đời trong sinh mệnh cá thể đã mất đi vĩnh viễn, thấm thía hơn, là một phần vô cùng quý giá của tuổi trẻ mình đã mãi mãi trôi đi.
Trong cái nhìn của Xuân Diệu, mỗi khoảnh khắc đang lìa bỏ hiện tại để trở thành quá khứ được hình dung như một cuộc chia lìa. Khoảnh khắc nào cũng là một chia lìa, một mất mát:
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phối,
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…
Dòng chảy thời gian được nhà thơ nhìn như một chuỗi vô tận của những mất mát, chia phôi, cho nên thời gian thấm đẫm hương vị của chia lìa. Dậy lên đó đây khắp sông núi là những lời than thở tiễn biệt. Đó là lời thở than của vạn vật. Là không gian đang tiễn biệt thời gian. Là mỗi một sự vật thiên nhiên đang ngậm ngùi tiễn biệt một phần đời của chính nó. Những phần đời của sinh mệnh mình đang ra đi không thể nào cưỡng lại, nó tạo nên sự trôi chảy không ngừng, tạo nên sự phôi pha, phai tàn của từng cá thể:
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi ?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Cách cảm nhận về thời gian như vậy, xét đến cùng xuất phát từ ý thức sâu xa về giá trị của sự sống cá thể, từ sự thức tỉnh sâu sắc về “cái tôi” cá nhân, về sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân trên đời. Mỗi khoảnh khắc trong đời người đều vô cùng quý giá. Nó quý giá chính vì một khi đã mất đi là mất đi vĩnh viễn. Quan niệm ấy khiến cho con người biết quý từng giây phút của đời mình, biết nâng niu, trân trọng từng giây từng phút của cuộc đời, nhất là những năm tháng tuổi trẻ.Hãy sống làm sao để mọi khoảnh khắc của đời mình luôn tràn đầy ý nghĩa, thế mới là biết sống. Đây chính là cơ sở sâu xa của thái độ sống “vội vàng”. Hãy mau lên, vội vàng lên để tận hưởng những giây phút tuổi xuân của mình, tận hưởng những gì mà cuộc đời ban tặng cho mình cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng – Cho no nê thanh sắc của thời tươi. Đó chính là niềm khao khát sống sôi nổi, mãnh liệt của thanh niên, của tuổi trẻ.
Rõ ràng, toàn bộ quan niệm và thái độ ấy đã thể hiện sự tích cực rất đáng trân trọng của tư tưởng Xuân Diệu.
5. Cảm nhận về thời gian trong Vội vàng
I. MỞ BÀI
Xuân Diệu là nhà thơ của tình yêu và tuổi trẻ. Ông được mệnh danh là “ông hoàng của thi ca tình yêu”. Trước cách mạng, với hai tập “Thơ Thơ” và “Gửi hương cho gió”, Xuân Diệu đã chính thức trờ thành “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh). Bài thơ “Vội Vàng” nằm trong tập “Thơ Thơ” là bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách thơ tình yêu của Xuân Diệu viết về mùa xuân, tuổi trẻ. Đoạn thơ ta sắp phân tích sau đây là đoạn thơ thể hiện quan niệm nhân sinh của Xuân Diệu về thời gian và tuổi trẻ và niềm khao khát được sống mãnh liệt, sống có ý nghĩa, sống hết mình với mùa xuân tuổi trẻ, thời gian cuộc đời:
“Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua
…
Mau đi thôi ! mùa chưa ngả chiều hôm”
II. THÂN BÀI
1. Khái quát: Bài thơ “Vội Vàng” nằm trong tập “Thơ Thơ”, xuất bản năm 1938 là bài thơ tiêu biểu của tập thơ nói riêng, của hồn thơ Xuân Diệu nói chung. “Vội vàng” là một trong những bài thơ tiêu biểu của Xuân Diệu. Bài thơ thể hiện tập trung sở trường của Xuân Diệu trong việc bộc lộ cái tôi và cách cảm nhận thiên nhiên, sự sống. Cả bài thơ thể hiện một nhân sinh quan mang ý nghĩa nhân bản sâu sắc. Đoạn thơ ta phân tích nằm ở phần giữa của bài thơ “Vội vàng”. Ở đoạn này thi sĩ tập trung thể hiện quan niệm về thời gian.
Thời gian trong thi ca trung đại là “thời gian tuần hoàn”, nghĩa là thời gian được hình dung như một vòng tròn liên tục tái diễn, hết một vòng lại quay về điểm xuất phát, cứ trở đi rồi trở lại mãi mãi. Mà đã là vòng tuần hoàn thì thời khắc, thời đoạn có ra đi thì cũng quay trở về. Quan niệm “thời gian tuần hoàn” xuất phát từ cái nhìn tĩnh có phần siêu hình, lấy sinh mệnh vũ trụ để làm thước đo thời gian.
Cách thức trình bày của Xuân Diệu là “chống đối”, “tranh cãi” lại quan niệm xưa; đồng thời bộc bạch quan niệm của mình bằng một cảm xúc sôi nổi cuồng nhiệt, nghĩa là một dạng ý thức triết học đã thấm nhuần cảm xúc. Đoạn thơ ( từ câu 14 đến câu 24, có thể đến câu 28 ) với giọng tranh luận, biện bác, nhịp điệu sôi nổi, khẩn trương và những câu thơ đầy mĩ cảm về cảnh sắc thiên nhiên đã chứa đựng cảm nhận về thời gian của thi sĩ. Xuân Diệu đã phủ định trực tiếp quan niệm “thời gian tuần hoàn” bằng một câu thật dứt khoát: “Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn”.
Như vậy, Xuân Diệu lựa chọn cho mình một quan niệm khác “thời gian tuyến tính”. Nghĩa là thời gian được hình dung như một dòng chảy xuôi chiều, một đi không trở lại. Vì thế mỗi khoảnh khắc trôi qua là mất đi vĩnh viễn. Cho nên tâm trạng nhân vật trữ tình mới có thoáng nỗi buồn và nỗi hoài nghi.
2. Nội dung cần phân tích, cảm nhận:
a. Xuân Diệu quan niệm “thời gian tuyến tính” xuất phát từ cái nhìn động:
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”
Con người thời trung đại hình như yên trí với quan niệm thời gian tuần hoàn với cái chu kỳ bốn mùa, cũng như cái chu kì ba vạn sáu ngàn ngày của kiếp người. Xuân Diệu nhìn cuộc đời bằng con mắt xanh non biếc rờn nhưng cũng không tránh khỏi những hoài nghi, mất mát. Điều thi sĩ sợ nhất là tuổi trẻ qua đi, tuổi già mau tới bởi thời gian là tuyến tính nên thời gian như một dòng chảy mà mỗi một khoảnh khắc qua là mất đi vĩnh viễn. Cách dùng cặp từ đối lập trong hai câu thơ “Tới – qua”, “non – già” đã cho người đọc thấy được sự cảm nhận rất đỗi tinh tế của thi nhân về bước đi của thời gian. Thời gian như dòng chảy không ngừng nghỉ. Cái ta đang có cũng là cái ta đang mất, trong hiện tại đã có quá khứ và hé mở tương lai.
b. Xuân Diệu lấy sinh mệnh cá thể của mình làm thước đo thời gian. Tức là lấy quỹ thời gian hữu hạn của cuộc đời mình ( sinh mệnh cá thể ) ra để đo đếm thời gian trong vũ trụ. Thậm chí thi sĩ lấy quãng ngắn nhất, giàu ý nghĩa nhất trong sinh mệnh của con người là tuổi trẻ để làm thước đo:
“Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài tuổi trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời ”
Chữ “Xuân” được điệp đi điệp lại cả năm đến sáu lần (trong ba câu đầu đã có tới năm lần). “Xuân” ấy vừa là xuân của đất trời vừa là “xuân” của cuộc đời, của tuổi trẻ. Mỗi lần nhắc lại là mỗi lần ta bắt gặp cái ngậm ngùi của thi nhân. Xuân của thiên nhiên thì còn mãi mà “xuân” của đời người đã “hết” thì “tôi cũng mất”. Dù lòng yêu có “rộng” đến bao nhiêu thì “lượng trời” vẫn cứ chật. Nên “tuổi trẻ nhân gian” không thể “dài” thêm mãi. Ở đây, hệ thống từ ngữ, hình ảnh được đặt trong thế tương phản đối lập cao độ (tới – qua, non –già, rộng – chật, xuân tuần hoàn, – tuổi trẻ chẳng hai lần, còn – chẳng còn) để làm nổi bật tâm trạng nuối tiếc thời gian, cuộc đời. Vũ trụ có thể vĩnh viễn, mùa xuân rồi cũng tuần hoàn nhưng tuổi xuân của con người chỉ có một lần, đã qua là qua mãi. Cho nên Xuân Diệu đã nồng nhiệt phủ định:
“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại !”
Thước đo thời gian của thi sĩ là tuổi trẻ. Tuổi trẻ một đi không trở lại “chẳng hai lần thắm lại” thì làm chi có sự tuần hoàn ! Trong cái mênh mông của đất trời, cái vô tận của thời gian, sự có mặt của con người thật là ngắn ngủi, hữu hạn. Nghĩ về tính hạn chế của kiếp người, Xuân Diệu đã đem đến một nỗi ngậm ngùi thật mới mẻ:
“Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”
Đọc hai câu thơ, ta cảm nghe rất rõ tiếng thở dài bất lực của thi nhân. Ta nghe rõ cả cái bâng khuâng, nuối tiếc của nhà thơ phả vào đất trời. Dường như trước mắt người đọc là cả một trời tiếc nuối. Tâm trạng ấy của Xuân Diệu ta cũng bắt gặp trong bài thơ “Giục giã”:
“Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn
Vừa xịch gối chăn mộng vàng tan biến
Dung nhan xê động sắc đẹp tan tành
Vàng son đang lộng lẫy buổi chiều xanh
Vừa ngoảnh lại cả lầu chiều đã vỡ”
Phải chăng vì quá yêu mến tuổi trẻ mà từ sự nuối tiếc ấy, thi nhân đã “thức nhọn giác quan” để sống “toàn tâm, toàn ý, sống toàn hồn” mà “say”, “thâu”, “hôn”, “cắn” cho kỳ hết những hương nồng của tuổi trẻ ?
c. Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu là cảm nhận đầy tính mất mát. Mỗi khoảnh khắc trôi qua là một sự mất mát lớn lao. Sự tàn phai không chỉ đến “khắp sông núi” mà còn ở từng cá thể. Và thời gian trôi đi sẽ khiến cho cái nhan sắc thiên nhiên diệu kỳ này bước vào độ tàn phai. Một sự tàn phai không thể nào tránh khỏi:
“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”
Đây là hai câu thơ thể hiển rất rõ cách cảm nhận tinh vi về thời gian của Xuân Diệu. Cảm nhận ấy không chỉ bằng thị giác mà còn cảm nhận bằng cả khứu giác “mùi tháng năm”, cả vị giác “vị chia phôi”. Mỗi khoảnh khắc đang rời bỏ hiện tại để trở thành quá khứ được hình dung như một cuộc chia lìa. Khoảnh khắc nào cũng là một chia lìa, một mất mát. Và dòng thời gian được nhìn như một chuỗi vô tận của những mất mát, chia phôi. Cho nên, thời gian thẫm đẫm hương vị của sự chia lìa. Dậy lên đó đây khắp không gian là lời than thở tiễn biệt “khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”. Nó là lời thở than của vạn vật, là không gian đang tiễn biệt thời gian, mà sâu xa hơn là mỗi sự vật thời gian đang ngậm ngùi tiễn biệt một phần đời của chính nó.
Những phần đời của sinh mệnh cá thể đang ra đi không thể nào cưỡng lại, nó tạo nên sự trôi chảy không ngừng, tạo nên sự phôi pha, phai tàn của từng cá thể:
“Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?”
Gió đùa trong lá không phải là những âm thanh của thiên nhiên tươi vui của mùa xuân, mà là lời “thì thào” về nỗi hờn giận, buồn thương. Gió phải chia tay với cây lá mà bay đi; chim chóc trên cây đang ca hát rộn ràng chào xuân bỗng ngừng bặt, chẳng phải có sự đe dọa nguy hiểm nào, mà chỉ vì chúng buồn tiếc cho mùa xuân sắp trôi qua. Thế là chẳng riêng gì Xuân Diệu mà cả vạn vật trong thiên nhiên cũng thức nhận về cái quy luật nghiệt ngã, cái một đi không bao giờ trở lại của thời gian ấy. Có phải vậy mà Xuân Diệu đưa ra một quyết định hợp lí cho mình và cho tất cả mọi người “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”.
d. Kết thúc đoạn thơ là một tiếng thốt:
“Chẳng bao giờ ôi! chẳng bao giờ nữa
Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm”
Thi sĩ bỗng thốt lên lời than. Tiếc nuối, lo lắng và chợt tỉnh vì “mùa chưa ngả chiều hôm”, nghĩa là vẫn còn trẻ trung, chưa già. Lên đường! Phải vội vàng, phải hối hả “Mau đi thôi”. Câu cảm thán với cách ngắt nhịp biến hóa làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khuâng. Thế đấy, không thể “buộc gió”, không thể “tắt nắng”, cũng không thể cầm giữ được thời gian, thì chỉ có cách thực tế nhất là chạy đua với thời gian, là phải tranh thủ sống. Xưa kia, Nguyễn Trãi viết trong chùm “Thơ tiếc cảnh”:
“Xuân xanh chưa dễ hai phen lại
Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên”.
Những vần thơ của Nguyễn Trãi giúp ta cảm nhận sắc điệu trữ tình trong “Vội vàng” về màu thời gian, về sắc thời gian, về tuổi trẻ. Cũng qua đó để hiểu thêm về lòng ham sống đến nhiệt cuồng của nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới”.
e. Đánh giá chung về quan niệm thời gian:
Cách cảm nhận về thời gian như vậy xét đến cùng là xuất phát từ ý thức sâu xa về giá trị của sự sống cá thể. Mỗi khoảnh khắc trong đời mỗi người đều vô cùng quý giá, chính vì một khi đã mất đi là vĩnh viễn mất đi! Quan niệm ấy khiến cho con người biết quý từng giây phút của đời mình. Và người ta biết làm cho mỗi khoảnh khắc của đời mình cần phải tràn đầy ý nghĩa. Có như thế mới là biết sống. Đây là cơ sở sâu xa của thái độ sống “Vội Vàng”.
Rõ ràng toàn bộ quan niệm, thái độ về “thời gian tuyến tính” phải sống “Vội Vàng” cho cuộc đời tuy ngắn ngủi nhưng tràn đầy ý nghĩa, đã thể hiện rất tích cực, rất đáng trân trọng của tư tưởng Xuân Diệu.
3. Tổng kết nghệ thuật: Sử dụng phép điệp ngữ, điệp cấu trúc; giọng điệu thơ sôi nổi nhưng không tạo được niềm vui vì không che giấu sự nuối tiếc, xót xa, hờn dỗi (nói làm chi, nếu, tiếc…); Hệ thống từ ngữ, hình ảnh được đặt trong thế tương phản đối lập cao độ. Tất cả đã tạo nên một đoạn thơ hay và giàu ý nghĩa mang đậm dấu ấn Xuân Diệu.
III. KẾT BÀI:
Tóm lại, đoạn thơ thể hiện tâm trạng nuối tiếc thời gian và cuộc đời của một nhà thơ vốn khao khát sống, sống mãnh liệt hết mình. Qua đoạn thơ, người đọc thêm trân trọng quan niệm nhân sinh mới mẻ, tích cực, cảm xúc chân thành của một tâm hồn nghệ sĩ luôn cháy bỏng niềm yêu cuộc sống. Nói như Giáo Sư Nguyễn Đăng Mạnh: “Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Nhưng đằng sau những tình cảm ấy, có một quan niệm nhân sinh mới mẻ chưa thấy trong thơ ca truyền thống”.
Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Văn học – Tài liệu của Tmdl.edu.vn.
Bạn có thể tải về tập tin thích hợp cho bạn tại các liên kết dưới đây.
Trang chủ: tmdl.edu.vn
Danh mục bài: Phân tích các tác phẩm văn học lớp 9