Văn Học

Top 6 bài phân tích diễn biến tâm trạng của người chinh phụ siêu hay

Cảm nhận của em về tâm trạng của người chinh phụ

Phân tích tâm trạng người chinh phụ

Phân tích diễn biến tâm trạng của người chinh phụ qua đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ để thấy được những cung bậc cảm xúc cô đơn của người phụ nữ khi chồng đi đánh trận.

Bạn đang xem bài: Top 6 bài phân tích diễn biến tâm trạng của người chinh phụ siêu hay

1. Dàn ý phân tích tâm trạng người chinh phụ

I. Mở bài:

– Giới thiệu về tác giả và đoạn trích:

Đặng Trần Côn là con người tài ba học giỏi và có tài văn chương.

Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ là một trong những đoạn hay và xúc động nhất của tác phẩm Chinh phụ ngâm.

Khái quát tâm trạng của người chinh phụ: Tâm trạng chủ đạo buồn sầu cô đơn nhung nhớ.

II. Thân bài:

* Luận điểm 1: Nỗi cô đơn của người chinh phụ (8 câu đầu)

– Cảnh ngộ: Chồng đi đánh trận, người chinh phụ phải ở nhà một mình.

– Hành động:

“Gieo từng bước”: bước chân chậm rãi từng bước một

“Rủ thác đòi phen”: Buông xuống cuốn lên nhiều lần.

=> Hành động lặp đi lặp lại nhiều lần, không có mục đích

=> Tâm trạng bần thần, cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ.

– Hình ảnh:

+ “Chim thước”: Loài chim báo tin lành.

-> Người chinh phụ ngóng trông tin chồng thắng trận trở về, nhưng thước chẳng mách tin

=> Sự ngóng trông đến vô vọng.

+ “Ngọn đèn”, “chẳng biết”: Gợi thời gian đêm khuya

=> Gợi sự cô đơn, khát vọng sum họp, không ai chia sẻ.

+ “Hoa đèn – bóng người”: Gợi sự trằn trọc, thao thức vì nhớ chồng, con người không còn sức sống.

=> Tâm trạng buồn sầu, nhớ nhung, ngóng trông vô vọng.

– Lời độc thoại của nhân vật.

“Lòng thiếp riêng bi thiết”: Nỗi lòng bi thương, thảm thiết không nói lên lời

“Buồn rầu”: Buồn đau, cô đơn

“Khá thương”: Xót xa, đau đớn, bồn chồn

– Nghệ thuật:

Đối: rủ – thác, ngoài – trong

Điệp ngữ bắc cầu: đèn biết chăng – đèn chẳng biết -> Tâm trạng buồn triền miên, kéo dài.

Câu hỏi tu từ: Là lời than thở khắc khoải không yên

Những từ ngữ đặc tả tâm trạng: Bi thiết, buồn rầu, khá thương,… tô đậm tâm trạng nhân vật.

* Luận điểm 2: Nỗi sầu muộn triền miên của người chinh phụ (8 câu tiếp)

– Cảnh vật:

+ “Gà eo óc”, “năm trống”: Gợi âm thanh của sự lẻ loi, cô quạnh và thời gian ban đêm trống vắng

=> Người chinh phụ nhớ chồng thao thức suốt đêm.

+ “Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên”: Bóng cây hòe ngoài sân trong vườn ngắn rồi dài, dài lại ngắn nhàm chán không có sức sống.

=> Cảnh vật gợi sự cô quạnh, hoang vắng đến đáng sợ.

– Thời gian:

+ “Khắc giờ đằng đẵng như niên”: Một giờ xa cách như một năm dài đằng đẵng.

=> Nỗi buồn kéo dài vô tận.

+ “Mối sầu”, “dằng dặc”, “miền biển xa”: Cụ thể hóa nỗi sầu, giúp người đọc cảm nhận được sự dàn trải của nó.

=> Tô đậm nỗi cô quạnh, sầu muộn dàn trải của người chinh phụ

– Hành động:

Động từ “gượng”: gượng gạo, miễn cưỡng

“Hương gượng đốt”, “hồn đà mê mải”: Miễn cưỡng đốt hương tìm sự thanh thản nhưng lại mê man.

“Gương gượng soi”, “lệ lại châu chan”: Gượng gạo soi gương mà òa khóc

“Gượng gảy ngón đàn”: Khát khao hạnh phúc nhưng lại sợ điềm gở.

– Hình ảnh “Sắt cầm, dây duyên, phím loan”: Biểu tượng của hạnh phúc lứa đôi nhưng lại gợi nỗi đau chia lìa.

=> Người chinh phụ càng cố gắng giải tỏa thì tâm trạng càng cô đơn, tuyệt vọng, nỗi sầu muộn càng trở nên ám ảnh.

– Nghệ thuật

Sử dụng các từ láy gợi hình gợi cảm: eo óc, phất phơ, đằng đẵng,…

Sử dụng các hình ảnh so sánh: lấy vật hữu hình để nói vật vô hình để cụ thể hóa nỗi sầu.

Điệp từ “gượng”: Khắc họa tâm trạng gượng gạo một cách ám ảnh

Hình ảnh ước lệ, tả cảnh ngụ tình.

* Luận điểm 3: Niềm thương nhớ chồng của người chinh phụ (8 câu cuối)

– Không gian:

“Gió Đông, non Yên”: Hình ảnh ước lệ gợi hình ảnh người vợ phải mượn ngọn gió Đông mới có thể truyền tải được nỗi nhớ chồng.

“Đường lên bằng trời”: Xa vời dường như không có điểm cuối

=> Nhấn mạnh sự xa cách trùng khơi của người chinh phụ, thể hiện tình yêu và nỗi nhớ da diết của người chinh phụ.

– Tính chất nỗi nhớ:

“Thăm thẳm”: Gợi độ dài của thời gian, độ rộng của không gian, độ sâu của nỗi nhớ.

“Đau đáu”: Trạng thái không yên lòng, quan tâm nhớ nhung, mong đợi, day dứt khôn nguôi.

=> Nỗi nhớ triền miên trong thời gian vô tận được cụ thể hóa bằng không gian xa vời, khắc họa nỗi nhớ khắc khoải dằng dặc.

– Tâm trạng:

“Cảnh buồn, thiết tha lòng”: Tả cảnh ngụ tình, cảnh buồn, lòng người đau xót, quặn thắt.

“Cành cây sương đượm”: Gợi sự buốt giá, lạnh lẽo

“Tiếng trùng mưa phun”: Sự ảo não, hoang vắng, nghe được cả tiếng côn trùng kêu rả rích.

=> Tâm trạng cô đơn, thổn thức, nỗi nhớ thương, khát khao được đồng cảm nhưng vô vọng.

– Nghệ thuật:

Từ láy gợi hình gợi cảm: thăm thẳm, đau đáu, thiết tha

Hình ảnh ước lệ: gió đông, non Yên.

So sánh: “đường lên bằng trời”

Điệp từ: “nhớ”, “gửi”, “thăm thẳm”

Điệp ngữ bắc cầu: “non Yên – non Yên”, “bằng trời – trời thăm thẳm”.

Tả cảnh ngụ tình: “Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”.

* Luận điểm 4: Thái độ của tác giả trước tâm trạng của người chinh phụ.

Thương xót, cảm thông trước tình cảnh cô đơn sầu muộn của người chinh phụ

Ngợi ca tấm lòng thủy chung, khao khát tình yêu, hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ.

Lên án chiến tranh phong kiến đã gây ra cho con người bao đau khổ, mất mát.

* Đặc sắc nghệ thuật

Thể thơ song thất lục bát giàu nhạc tính

Sử dụng từ láy, biện pháp điệp từ, điệp ngữ

Hình ảnh mang tính ước lệ, tượng trưng

Ngôn từ chọn lọc

Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình

Bút pháp miêu tả nội tâm nhân vật tinh tế

III. Kết bài:

Khái quát lại tâm trạng của người chinh phụ

Suy nghĩ của bản thân: Đồng cảm, thương xót cho người phụ nữ, trân trọng những vẻ đẹp phẩm chất của họ.

2. Phân tích tâm trạng người chinh phụ – Mẫu 1

Đặng Trần Côn là người làng Mọc, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Hiện chưa rõ năm sinh, năm mất của ông, chỉ biết ông là một danh sĩ nổi tiếng hiếu học, tài ba sống vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII. Cảm xúc trước hiện thực những cuộc chiến tranh do giai cấp phong kiến đương thời tiến hành chém giết lẫn nhau để tranh giành địa vị hoặc đàn áp những cuộc khởi nghĩa của nông dân, Đặng Trần Côn đã sáng tác “Chinh Phụ Ngâm” để nói lên những khổ đau, mất mát của con người, nhất là tình cảnh người vợ lính trong chiến tranh. Nhiều người đã diễn Nôm Chinh phụ ngâm, song chỉ bản diễn Nôm Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm vượt qua giới hạn của bản dịch để trở thành sự đồng sáng tạo tuyệt vời. Dịch giả đã dùng thể thơ song thất lục bát, một thể thơ do người Việt sáng tạo để miêu tả những diễn biến tâm trạng người chinh phụ có chồng đi chinh chiến. Trong đó đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” đã nói lên tình cảnh và tâm trạng người chinh phụ cô đơn, buồn khổ trong thời gian chồng ngoài chiến trận, không có tin tức, không rõ ngày trở về, đồng thời thể hiện ý nghĩa nhân đạo sâu sắc.

Tám câu thơ đầu diễn tả nỗi bồn chồn của người chinh phụ trong cảnh lẻ loi. Không gian hết sức vắng lặng, hiu hắt, chỉ có bước chân của người lẻ bóng thầm gieo trên hiên vắng. người chinh phụ đứng ngồi không yên, hết rủ rèm rồi lại cuốn rèm, đi đi lại lại như chờ mong tin lành báo chồng trở về, nhưng tin tức về người chồng vẫn bặt vô âm tín. Nỗi thất vọng tràn trề. Ở ngoài hiên hay ở trong phòng, nàng vẫn lẻ loi, cô đơn hết sức. Mong con chim thước cất lên tiếng kêu, nhưng đến cả tiếng chim của sự mong mỏi cũng im vắng. Đêm khuya, một mình một bóng dưới ánh đèn, người chinh phụ khao khát sự đồng cảm, sẻ chia, nàng hi vọng ngọn đèn thấu hiểu và soi tỏ lòng mình. Nhưng đèn vô tri, vô cảm, đèn không thể an ủi, sẻ chia cùng người nỗi buồn đau cô lẻ.

“Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi”

Bốn câu thơ tiếp theo từ nỗi khát khao đồng cảm chuyển sang thời gian chờ đợi dài vô cùng như không gian mênh mông vô tận. Tiếng “gà eo óc gáy sương năm trống” vừa diễn tả sự trôi chảy của thời gian, vừa diễn tả sự giày vò của lòng người. Biết bao đêm một mình một bóng, một ngọn đèn thao thức năm trống canh, nghe tiếng “gà eo óc gáy sương”, lòng thổn thức mong chờ. Tuổi trẻ dần phôi pha theo thời gian. Bóng cây hoè lặng lẽ im lìm trong đêm gợi thêm cảm giác hoang vắng. Thời gian tâm lý được nhân lên gấp bội: “Khắc giờ đằng đẵng như niên”, và mối sầu trong lòng người lẻ loi, cô đơn trải ra trong một không gian vô tận: “Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”. Bốn dòng thơ có bốn từ láy được chia đều, một từ gợi âm thanh, gợi lên sự giày vò trong tâm trạng (eo óc); một từ gợi cảm giác hoang vắng (phất phơ); một từ gợi thời gian tâm lý (đằng đẵng); một từ gợi không gian vô tận, nỗi sầu vô tận (dằng dặc), đồng thời gợi âm điệu sầu não bình yên.

Bốn câu thơ tiếp theo diễn tả những gắng gượng của người chinh phụ để mong thoát khỏi vòng vây của cảm giác lẻ loi, cô đơn, nhưng không thoát nổi. người chinh phụ gượng soi gương để trang điểm, nhưng nhìn thấy gương mặt mình, người chinh phụ lại không cầm nổi nước mắt. Đau đớn nhất là khi:

“Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng”

Đàn cầm, đàn sắt thường hoà âm với nhau ví như cảnh vợ chồng đoàn tụ, hòa thuận, ấm êm. Dây đàn uyên ương gợi lên biểu tượng lứa đôi gắn bó, hòa hợp như đôi chim uyên ương. Những biểu tượng ấy càng khơi sâu nỗi sầu cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ. Ba từ “gượng” diễn tả cảm giác vô duyên, trớ trêu, xót xa trước cảnh ngộ. Dây đàn “đứt” và “chùng” đều là dấu hiệu về điềm gở. Nỗi kinh hãi, ngại ngùng của người chinh phụ khi “gượng gảy ngón đàn” trở thành một mặc cảm về sự lẻ loi, cô đơn trọn kiếp của cô phụ.

Tám câu thơ cuối thể hiện nỗi khao khát gửi tình thương nhớ sâu nặng của người chinh phụ đến chồng, nhưng trong nỗi khao khát ấy đã chứa sẵn mầm tuyệt vọng. Làn gió đông yếu ớt kia không đủ sức mang nỗi lòng thương nhớ “nghìn vàng” của nàng đến tận non Yên xa thẳm. Nỗi nhớ thương càng trở nên thăm thẳm, không thể cân đo đong đếm được. Nỗi niềm ấy chìm vào lạnh lẽo với hình ảnh sương gió, mưa, tiếng côn trùng. Tất cả đều sự gợi cô đơn, buồn nhớ.

Chinh phụ ngâm thể hiện nỗi đau khổ của người chinh phụ phải sống trong cảnh lẻ loi, cô đơn. Đoạn trích có ý nghĩa đề cao hạnh phúc lứa đôi của tuổi trẻ và phản kháng chiến tranh phi nghĩa. Tiếng nói nhân đạo của Chinh phụ ngâm hoà vào với tiếng nói nhân đạo của văn học thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX có ý nghĩa khẳng định truyền thống quý báu của văn học dân tộc.

3. Phân tích tâm trạng người chinh phụ – Mẫu 2

Trong cuộc đời chúng ta sẽ có ít nhất một lần chịu tình cảnh lẻ loi. Không biết lẻ loi vì thiếu bạn, lẻ loi vì chồng hay vì những vấn đề nào đó. Nói chung tình cảnh ấy rất dễ có ở trong con người chúng ta. Cuộc sống không bằng phẳng vì thế cho nên những vấn đề khiến ta lẻ loi sẽ rất dễ xảy ra. Tuy nhiên nổi bật nhất là lẻ loi vì chồng. Trong thơ xưa Đoàn Thị Điểm đã đem đến cho chúng ta một đoạn thơ hay về tình cảnh lẻ loi của người phụ nữ có chồng đi đánh trận nơi xa. Bài thơ đã bật lên những nỗi nhớ nhung sầu muộn của người phụ nữ thiếu vắng bóng chồng.

Trước hết là bốn câu thơ đầu với những tâm trạng cảm xúc của người lẻ loi ấy:

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?”

Dõi theo từng bước chân của người thiếu phụ ấy ta thấy một tâm trạng thẫn thờ của cô. Dường như bàn chân kia không muốn bước nữa chỉ như cố bước đi mà thôi. Có lẽ bàn chân ấy chỉ muốn chôn tại một chỗ để làm cho những cảm xúc kia chìm đắm trong con người ấy. Nói đúng hơn thì cảm xúc kia như níu bước chân lại không muốn cho đi. Ngồi trong rèm thưa mà nàng thấy lòng mình buồn vô tận. Đó là một nỗi buồn thương không thể có ai hiểu được cho nàng. Người nàng thương nhớ cũng không có ở đấy khiến cho một mình nàng như bị cảm xúc kia dìm xuống. Nàng còn buồn rằng con chim thước ngày nào cũng không có để nàng hỏi tin về chàng. Trong rèm kia ngọn đèn dường như chứng kiến mọi hoạt động tâm trạng của nàng nhưng liệu đèn có biết không. Câu hỏi vang lên nghe sao thật chua chát. Đúng là đèn thức cùng nàng thật đấy nhưng đèn cũng chỉ là một vật vô tri vô giác dẫu có biết thì cũng không nói lên được. Cả trong rèm cả ngoài rèm đều không thể cho nàng một chút an ủi nào. Nàng càng buồn lại càng buồn hơn.

Và nàng cũng như biết được sự vô tri của đèn, nàng hỏi như thế rồi nàng lại tự trả lời câu hỏi của mình:

“Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi
Buồn rầu nói chẳng lên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương”

Đúng là có biết cũng không thể nói lên, kể cả cho đèn kia giống như một con người để từ đó cảm nhận được nỗi đau của người thiếu phụ thì cũng không thể nói được hết cái tâm trạng của nàng. Chỉ có mình nàng mới hiểu được cảm xúc ngập tràn trong nàng bây giờ thôi. Nàng buồn không thiết nói lời nào, và hình ảnh hoa đèn lại như an ủi nàng nó trở thành người bạn để cho thức cũng như tương tư của nàng. Phải chăng nàng đang cố tìm đến sự đồng cảm, không có người đồng cảm nàng tìm đến hoa đèn kia. Chứ thực chất thì hoa đèn cũng có biết chi đâu mà thương cho nàng.

Chính cái tâm trạng ấy đã tác động đến cảnh vật. Đôi mắt nhớ thương chồng của nàng nhìn đâu cũng thấy tàn phai, buồn bã:

“Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên
Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa
Hương gượng soi lệ lại châu chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại ngùng”

Tiếng gà báo canh nghe ấm áp như thế mà qua sự cảm nhận của người thiếu phụ lại trở thành sự eo óc buồn lạ thường. Thấy rõ được những tiếng gà gáy như thế chắc hẳn nàng không ngủ được nên mới nghe được những tiếng gà gáy năm canh đó. Cây hòa ngoài kia cũng rủ bóng bốn bên. Nó giống như hàng tóc của người con gái vì nhớ thương lẻ loi không thiết tha gì cúi đầu mặc cho mái tóc rũ xuống. Mỗi giờ trôi qua đối với nàng dài tựa một năm vậy. Người ta thường ví khoảng thời gian mong chờ bao giờ cũng dài như hàng thế kỷ trôi qua vậy nhất là đợi chờ người mình yêu thương. Và ở đây người chinh phụ cũng lẻ loi chờ đợi vì thế cho nên mới thấy một khắc dài tựa một năm. Mối sầu thì dằng dặc như miền biển xa. Có thể nói nỗi buồn sầu kia mang tầm vóc không gian rộng lớn và thời gian dài đằng đẵng. Và chính vì thế mà nàng không thiết tha gì đến bản thân mình nữa. Nếu có soi gương thì cũng chỉ là gượng soi mà thôi. Nếu có đánh đàn thì cũng ngượng ngạo mà sợ dây loan kia đứt. Đàn đứt thì không may mà chồng nàng ở biên cương đối đầu với cái chết. Nàng không muốn thấy một điềm gở nào và hình ảnh dây loan kia chính là dây hồng tình nghĩa của vợ chồng.

Thế rồi nỗi sầu muộn lại được bao trùm trong những câu thơ cuối đoạn trích:

“Lòng này gửi gió đông có tiện
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong
Cảnh buồn người thiết tha lòng
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”

Nàng mượn gió đông để gửi những tâm tư tình cảm và tấm lòng của mình đến người chồng nơi biên cương của ai. Chốn non yên kia không biết chàng có nhận được những tâm sự của nàng không nhưng nàng vẫn mong gửi đi. Có tiện thì mong chàng hãy biết đến tấm lòng của thiếp. Đường đi của những tâm sự ấy phải trải qua biết bao nhiêu núi non hiểm trở và bản thân nàng thì biết rõ điều đó. Nàng bỗng thấy thương nhớ thăm thẳm, dường như nỗi nhớ ngày một xoáy sâu vào trong lòng nàng. Và như không thể kìm được cảm xúc nàng đau lòng bật lên những tiếng khóc hòa vào những hạt mưa ngoài kia.

Như vậy qua đoạn trích này ta thấy Đoàn Thị Điểm đã mang lại cho chúng ta những cung bậc cảm xúc của người chinh phụ mà cảm xúc bao trùm chính là sự lẻ loi đơn chiếc. Người con gái ấy phải sống xa chồng, thân con gái chỉ có một mình vò võ thử hỏi rằng làm sao không nhớ không thương không sầu muộn. Qua đây ta thấy nhà thơ như đồng cảm với số phận của người phụ nữ ấy.

4. Phân tích diễn biến tâm trạng của người chinh phụ – Mẫu 3

Người con gái trong xã hội phong kiến xưa luôn là người gánh chịu nhiều đau khổ thiệt thòi nhất. Nếu không bị vào cung trở thành cung nữ, được sủng ái rồi bị ruồng bỏ không thương tiếc hay lấy chung một chồng để rồi phận má đào bị ghẻ lạnh đơn côi thì cũng phải xa chồng vì chiến tranh. Người con gái trong Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ không phải sống kiếp chồng chung, không bị ruồng bỏ nhưng lại phải lẻ loi đơn chiếc vì chồng ở nơi trận mạc binh đao. Đoạn trích thể hiện rõ tâm trạng cô đơn và nỗi đau khổ của nàng.

Trước hết đoạn trích thể hiện tâm trạng cô đơn của người chinh phụ. Nỗi cô đơn ấy cứ bủa vây lấy nàng, khiến nàng không thể làm gì và cũng chẳng làm được gì, ngày thẫn thờ đêm thức trắng:

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết, dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương!”

Trên từng bậc thềm, xưa kia còn in dấu gót của hai người vậy mà giờ đây chỉ có mỗi một mình nàng gieo từng bước cô quanh. Hiên cũng như vắng đi một con người đứng đó. Nàng thẫn thờ trong nỗi cô đơn độc bước, dạo để khuây khỏa mà lòng vẫn chưa yên. Đứng không xong nàng lại ngồi trong chiếc rèm chờ con chim thước đưa tin từ chiến trận gửi về. Nhưng chờ thì cũng chỉ chờ trong vô vọng, chim thước không thấy đâu mà nỗi cô đơn thì ngày càng nuốt chửng lấy người con gái mềm yếu. Ngày đêm chỉ có chiếc đèn làm bạn, đèn thức cùng nàng nhưng liệu rằng đèn có thấu hiểu cho nỗi lòng cô quạnh của người chinh phụ. Nàng tự hỏi rồi tự trả lời, đèn có biết thì cũng bằng không biết chỉ có riêng nàng chịu đựng với nỗi cô quạnh đó mà thôi.

Nàng không chỉ bị nỗi cô đơn vây lấy mà nỗi đau khổ cũng cứ thể mà chiếm lấy nàng. Nó dằn vặt nàng sống mà hồn “mê mải”:

“Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa.
Hương gượng đốt, hồn đà mê mải,
Gương gượng soi, lệ lại chứa chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.
Lòng này gửi gió đông có tiện,
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun.”

Tiếng con gà gáy sáng trong màn sương ảm đạm càng làm cho nỗi cô đơn trở thành nỗi đau. Nàng đã thức trắng cả một đêm, không phải nàng không muốn ngủ mà nàng không thể nào nhắm mắt được. Trước nguy cơ nàng có thể trở thành phụ nữ góa chồng bất cứ nào khiến cho nàng đau khổ. Nàng lo lắng thương cho chồng và ngẫm cho mình. Cây hòe bên ngoài kia cũng ủ rũ, cành cây ướt đẫm sương đêm. Cái màn sương lạnh giá ấy lại thêm tiếng mưa phùn làm cho người chinh phụ buồn lại càng buồn, nỗi nhớ đau đáu trong tim. Nó thường trực trong lòng chứ không phải phút đến phút lại đi. Mỗi giờ phút qua đi được tính từ cái tích tắc một, thời gian chạy chậm như đè nặng thêm sự đau khổ trong lòng người con gái.

Như vậy qua đây ta có thể thấy, chiến tranh không chỉ cướp đi những người trai tráng hiền lành khỏe mạnh, những người chồng thương yêu vợ mà còn biến những người con gái trẻ thành những bà góa phụ. Người chinh phu ở nơi xa sống chết như thế nào làm sao người chinh phụ có thể biết. Nàng chỉ biết nhớ, biết thương biết lo lắng mà thôi.

5. Phân tích diễn biến tâm trạng của người chinh phụ – Mẫu 4

Đặng Trần Côn là nhà văn tài năng với nhiều tác phẩm để đời. Nổi bật trong số đó phải kể đến bài thơ Chinh phụ ngâm đã khắc họa rõ nét sự cô đơn, lẻ loi của người thiếu phụ khi tiễn chồng ra chiến trận nhưng không hẹn ngày về. Tác phẩm đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc qua cảnh người chinh phụ đơn độc, lẻ bóng nơi phòng the với nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau.

8 câu thơ đầu đã khắc họa hình ảnh người chinh phụ sau khi tiễn chồng ra chiến trận thì tâm trạng lúc nào mong ngóng, bồn chồn, cảnh vật xung quanh cũng trở nên cô quạnh và lạnh lẽo:

Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thừa rủ thác đòi phen

Không gian hiu quạnh chỉ có người chinh phụ đơn độc trước hiên nhà, nàng chẳng thiết tha làm gì, chỉ còn biết gieo từng bước chân nặng nhọc với tâm trạng lo lắng, nỗi chán chường, cô đơn khi không có chồng bên cạnh. Nàng dường như chỉ còn biết làm mọi việc theo thói quen khi “rủ thác đòi phen” một cách vô định, còn tâm trí thì chỉ nghĩ đến chồng ở phương xa.

Tác giả đã khắc họa hình ảnh người thiếu phụ đơn độc trong căn nhà trống, thiếu vắng sự yêu thương, lòng thì lúc nào cũng lo sợ, mong ngóng ngày người thương trở về. Ngày ngày nàng chỉ biết mong tin lành từ chim thước nhưng đợi mãi cũng chẳng thấy chim báo tin. Đêm về nàng lại lẻ bóng giữa không gian bao la, tịch mịch, không tiếng nói, không ai tâm tình, tâm tư đơn độc, lẻ loi.

Nàng chỉ còn biết tâm sự với chính bản thân mình “đèn có biết dường bằng chẳng biết/ Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi”. Cùng với hình ảnh hoa đèn như càng tô đậm thêm nỗi cô đơn, khao khát hạnh phúc đang tràn ngập và đè nặng nỗi lòng của người chinh phụ.

Tác giả đã khéo léo sử dụng những từ ngữ đối lập nhau như “ rủ- thác”, “ngoài- trong” để nhấn mạnh sự lặp đi lặp lại những hành động của người chinh phụ một cách nhàm chán, chỉ làm qua loa như một thói quen hằng ngày chứ không hề có hứng thú.

Bên cạnh đó là những từ ngữ miêu tả đặc sắc tâm trạng nặng nề của người chinh phụ như: Bi thiết, buồn rầu, khá thương,…gợi lên nỗi buồn vời vợi, sự chung thủy và khao khát tình yêu nhưng bị chiến tranh ngăn cách đang trỗi dậy trong lòng nàng.

8 câu thơ tiếp theo gợi lên sự chờ đợi đến mỏi mòn của người chinh phụ ngày qua ngày với hy vọng chồng trở về bình an:

Gà eo óc gáy sương năm trống
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên
Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa

Người chinh phụ từ tâm trạng bồn chồn, muộn phiền chuyển thành sự chờ đợi dằng dẵng từng ngày. Đối với nàng “Khắc giờ đằng đẵng như niên”, sự mong ngóng từng giây trôi qua dài như một năm, chờ từng ngày, từng đêm ăn ngủ không yên, cảnh vật xung quanh đối với nàng cũng trở nên buồn rười rượi khi “gà eo óc gáy”, “hòe phất phơ rủ” chẳng có lấy một chút động lực, chẳng thể có lấy một ngày vui.

Nàng luôn chờ đợi một ngày sum họp, tình yêu hạnh phúc sẽ trở về nhưng chờ mãi đến mức trong lòng cũng dâng lên “Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”, nỗi lòng không ai thấu, nỗi niềm không người kề bên, sẻ chia, tình yêu không trọn vẹn.

Từng từ ngữ vừa diễn tả âm thanh vừa diễn tả cảnh vật một cách lẻ loi, heo hút của Đặng Trần Côn đã khiến không gian trở nên buồn bã hơn, tô đậm sự đơn côi, cô quạnh thăm thẳm từ sâu trong lòng của người chinh phụ.

Nàng cố tìm một chút động lực để an ủi bản thân bằng cách làm những việc khác, nhưng dường như sự cô đơn vẫn bủa vây chặt lấy nàng. Tác giả đã sử dụng từ “gượng” để diễn tả cho sự gượng gạo, miễn cưỡng của người chinh phụ. Nàng muốn lạc quan nhưng không thể vui nỗi, nàng muốn phấn chấn hơn để tô điểm cho bản thân cũng không thể làm nỗi. Người thiếu phụ ấy buồn phiền đến mức “hương gượng đốt”, “gương gượng soi”, “gượng gảy ngón đàn”.

Bởi có lẽ nàng nghĩ “Dây uyên kinh đứt phím loan ngại ngùng”, soi gương trang điểm mà không ai xem, gảy đàn mà không ai thưởng thức, chỉ có đơn độc mình nàng thì có làm những việc này cũng vô nghĩa.

6. Cảm nhận của em về tâm trạng của người chinh phụ

Mở bài Nỗi buồn chinh phụ trong đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

Trong xã hội phong kiến, không số phận nào khổ bằng số phận người phụ nữ. Có những người may mắn được vào cung làm phi tần, cung nữ sống trong cảnh nhà lầu gác tía, cung quế, thẩm khuê nhưng vui hay không thì chỉ có họ mới hiểu, nhất là khi vua chúa ruồng bỏ. Hay cũng có những người không phải sống kiếp chồng chung, họ được sống với người mình yêu thương, một vợ một chồng nhưng thời buổi binh đao loạn lạc, chồng bị bắt đi lính thì họ cũng đâu có hạnh phúc gì. Tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc tiêu biểu là đoạn trích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ là minh chứng cho những nỗi buồn, nỗi nhớ nhung sầu muộn của người phụ nữ có chồng đi lính.

Thân bài Cảm nhận về nỗi buồn chinh phụ trong đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

Mười sáu câu thơ đầu thể hiện tâm trạng buồn bã, tủi hờn của người chinh phu. Khi người yêu thương của mình phải đi đánh trận vì một những cuộc chiến tranh vô nghĩa, người vợ ở nhà không thể ngừng lo lắng cho số phận của chồng mình, buồn rồi nhớ, nhớ rồi thương người con gái không thiết làm gì nữa:

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,

Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.

Ngoài rèm thước chẳng mách tin,

Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?

Đèn có biết, dường bằng chẳng biết,

Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.

Buồn rầu nói chẳng nên lời,

Hoa đèn kia với bóng người khá thương!”

Qua từng câu thơ ta có thể cảm nhận được hình bóng của người chinh phu đang chậm rãi thả từng bước chân trên hiên vắng, thả như gieo xuống, buông thõng mình mà buồn bã. Hết dạo lại ngồi trong rèm thưa mong con chim thước mách tin về chồng mình. Nhưng ngóng trông vô ích nào có biết được tin tức phu quân nơi trận mạc. Trong ngôi nhà nhỏ, trong bức rèm thưa chỉ có một mình nàng với cây đèn. Nó thức cùng nàng đấy nhưng nó có hiểu được lòng nàng không. Câu hỏi tu từ vang lên nghe sao buồn đau đáu. Chỉ có một mình nàng một niềm bi thiết mà thôi. Hoa đèn kia như thức cùng bóng người.

“Gà eo óc gáy sương năm trống,

Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.

Khắc giờ đằng đẵng như niên,

Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa.

Hương gượng đốt, hồn đà mê mải,

Gương gượng soi, lệ lại chứa chan.

Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,

Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.”

Nàng thức cả năm canh, gà “eo óc” gát báo canh năm, những bông hòe phất phơ nhưng cũng rủ bóng. Cảnh vật nhuốm màu tâm trạng của người chinh phụ. Trước nỗi nhớ chồng mỗi khắc trôi qua mà tựa như một năm, thời gian trôi càng chậm thì mối sầu trong lòng nàng lại càng dày đặc hướng về phía biển xa. Nàng buồn nàng gượng đốt hương, gương cầm lên cũng chỉ gượng soi, nhìn mình trông gương tủi phận mà mắt lại lệ chan. Buồn rồi nàng lại gảy đàn nhưng lại sợ dây đứt báo điềm gở.

Người chinh phu nhớ chồng không buồn làm gì, ngay cả đến việc soi gương cũng chỉ gượng gạo cho xong. Lòng nàng chỉ một mối tơ vương hướng đến người chồng của mình nơi trận mạc:

“Lòng này gửi gió đông có tiện,

Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.

Non Yên dù chẳng tới miền,

Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.

Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,

Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.

Cảnh buồn người thiết tha lòng,

Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun”

Nàng muốn gửi tấm lòng vàng của mình cho gió đông để mang tới chàng. Dẫu biết Non Yên cũng chẳng tới miền nhưng nàng vẫn muốn gửi. Nỗi nhớ chồng thăm thẳm như trời cao vậy. Nỗi nhớ ấy luôn đau đáu trong lòng người chinh phụ. Người buồn cảnh cũng buồn cành cây ướt sương đêm tiếng mưa phùn rơi như người chinh phụ đêm qua với giọt nước mắt tràn mi.

Kết luận Cảm nhận về nỗi buồn chinh phụ trong đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

Qua đoạn trích ta có thể cảm nhận được nỗi lòng của người chinh phụ. Đó là nỗi buồn thương người chồng nơi trận mạc không biết sống chết thế nào. Một mình nàng lẻ bóng, chăn đơn gối chiếc mà cô đơn một thì lo lắng nhớ thương chàng tới mười. Đồng thời qua đây nhà thơ cũng muốn phản ánh hiện thực xã hội với những cuộc chiến tranh vô nghĩa đã chia lìa những đôi vợ chồng.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Văn học – Tài liệu của Tmdl.edu.vn.

Trang chủ: tmdl.edu.vn
Danh mục bài: Văn Học

Lương Sinh

Lương Sinh là một tác giả đầy nhiệt huyết trong lĩnh vực giáo dục, ngoại ngữ và kiến thức. Với hơn 10 năm kinh nghiệm làm việc trong ngành, cô đã tích lũy được rất nhiều kiến thức và kỹ năng quan trọng. Với tình yêu với ngôn ngữ và mong muốn chia sẻ kiến thức, Lương Sinh đã quyết định sáng lập blog tmdl.edu.vn. Trang web này không chỉ là nơi chia sẻ những kinh nghiệm và kiến thức cá nhân của cô, mà còn là một nguồn thông tin hữu ích cho những người quan tâm đến giáo dục, kiến thức và ngoại ngữ. Đặc biệt là tiếng Anh và tiếng Trung Quốc.
Back to top button