Phân tích Sóng khổ 5 6 7
Phân tích Sóng khổ 5 6 7
Phân tích khổ 5, 6 và 7 bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh để thấy được nguồn xúc cảm da diết, đậm sâu trong tình yêu của nhân vật trữ tình. Sau đây là dàn ý phân tích bài thơ Sóng khổ 5 6 7 cùng bài văn mẫu phân tích khổ 5 6 7 bài thơ Sóng hay và chi tiết, mời các bạn cùng tham khảo.
Bạn đang xem bài: Top 7 bài phân tích khổ 5 6 7 bài Sóng hay chọn lọc
1. Dàn ý phân tích khổ 5, 6 và 7 bài thơ Sóng
I. Mở bài
– Bài thơ “Sóng” được Xuân Quỳnh viết vào năm 1967. Tác phẩm đã bộc lộ nguồn xúc cảm da diết, đậm sâu trong tình yêu của nhân vật trữ tình, điều đó được thể hiện rõ nhất của khổ 5, 6, 7 của bài thơ.
II. Thân bài
– Nỗi nhớ người con gái đã vượt cả không gian rộng lớn, biển kia có sâu rộng cũng không đo được bằng nỗi nhớ nơi em.
– Từng nỗi nhớ là từng cơn sóng lòng nơi sâu thẳm trái tim “em”.
– Nỗi nhớ luôn thường trực trong tâm trí, vượt cả sự chảy trôi của thời gian.
– Khoảng cách có xa xôi thì lòng chung thủy càng sâu sắc, nỗi nhớ nơi “em” càng lớn.
– Lời nguyện thề luôn hướng về anh giữ trọn vẹn tình yêu.
– Tình yêu là sức mạnh giúp “em – anh” vượt qua những giông tố, trắc trở cuộc đời.
III. Kết bài
Tiếng thơ Xuân Quỳnh cũng chính là nỗi lòng của bao người đang yêu và được yêu, đặc biệt là những thanh niên trẻ tuổi giàu khát vọng yêu.
2. Phân tích khổ 5, 6 và 7 bài thơ Sóng – Mẫu 1
Từ xưa đến nay, tình yêu luôn là nguồn cảm hứng của biết bao thi nhân. Tuy nhiên mỗi nhà thơ lại có một cách thể hiện khác nhau. Nó có thể đậm chất triết lý như trong thơ Tagore hay tha thiết, cháy bỏng như thơ của Xuân Diệu. Với bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh là một tình yêu đầy những âu lo, trăn trở và khát khao hạnh phúc đời thường của người phụ nữ…
Nếu như tác phẩm tự sự thường phản ánh tư tưởng, tình cảm của tác giả thông qua việc tái hiện khách quan hiện thực đời sống thông qua tình huống truyện, sự kiện, nhân vật, chi tiết… thì thơ ca đi vào phản ánh thế giới tâm hồn con người trước rung cảm tinh tế sâu sắc, trước cuộc sống muôn màu. Vì thế Lê Quý Đôn nói: “thơ ca khởi phát từ lòng người”. Có thể nói, bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh đã thể hiện rõ nét điều đó. Tác phẩm này được viết vào năm 1967, khi tác giả có chuyến đi thực tế tại biển Diêm Điền. Đứng trước những con sóng nối tiếp, vô tận của biển cả, Xuân Quỳnh đã nhận thấy sự đồng điệu giữa những cung bậc, trạng thái của sóng với cung bậc tình cảm, khát vọng trong tâm hồn của người phụ nữ khi yêu. Bài thơ “Sóng” được in trong tập “Hoa dọc chiến hào” – tập thơ tiêu biểu của Xuân Quỳnh trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ. Trong tác phẩm này, nhà thơ đã sử dụng hai hình tượng “sóng” và “em” có khi tách biệt, có khi thống nhất, có khi lại hòa vào làm một để diễn tả vẻ đẹp trong tình yêu của tâm hồn người phụ nữ. Đồng thời, Xuân Quỳnh đã đem đến một quan niệm mới mẻ, nhân văn về tình yêu, về con người trong những năm tháng chống Mỹ đầy khốc liệt.
Khổ thơ thứ năm là khổ thơ có số lượng câu thơ nhiều nhất trong “Sóng”. Sáu câu thơ đứng giữa thi phẩm như một đợt sóng lòng cồn lên cao nhất từ tâm điểm của tác phẩm trong đó bốn câu thơ đầu là nỗi nhớ bờ âm ỉ, tha thiết của con sóng:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”
Tác giả đã sử dụng điệp từ “con sóng” lặp lại liên tiếp nhiều lần. Qua đó không chỉ tạo một giọng thơ sôi nổi phù hợp với mạch cảm xúc mà còn nhấn mạnh hình tượng con sóng đang cuộn chảy, trào dâng trong nỗi nhớ. Dưới ngòi bút tinh tế của nữ thi sĩ, những con sóng ấy trở nên có hồn hơn, chất chứa những suy tư, tình cảm như một con người thực sự. Đó là nỗi nhớ da diết, nỗi nhớ cồn cào về bến đỗ thân thương “bờ”. Bằng biện pháp nhân hóa đặc sắc với động từ “nhớ”, người đọc dường như có thể cảm nhận được một nỗi niềm đau đáu ẩn hiện trong hình hài con sóng biển. Đặc biệt hơn nữa, Xuân Quỳnh còn sử dụng cặp từ đối lập giàu sức gợi “trên mặt nước” – “dưới lòng sâu”, “ngày” – “đêm” vừa tạo nên cấu trúc song hành, đối xứng vừa khiến cho ngôn ngữ thơ cân xứng hài hòa, nhạc điệu thơ nhịp nhàng nhưng trên hết là để nhấn mạnh nỗi “nhớ bờ” khôn nguôi của sóng. Dù ở bất cứ nơi đâu, dù đang ngủ yên dưới lòng biển sâu thẳm hay vận động trên đại dương bao la thì con sóng vẫn luôn “nhớ bờ”, vẫn luôn hướng về nơi phương xa, về nơi dừng chân bình yên của mình. Nỗi nhớ ấy luôn thường trực trong hình tượng con sóng và nó dường như bao trùm lấy cả không gian mênh mông của biển cả, kéo dài miên man không dứt theo thời gian. Dù trong ngày êm ả hay đêm vắng lặng, con sóng vẫn thao thức “không ngủ được”. Nữ thi sĩ tiếp tục sử dụng biện pháp nhân hóa đầy tinh tế, giàu tính biểu cảm. Nỗi “nhớ bờ” ấy phải cồn cào, da diết như thế nào mới có thể khiến con sóng “không ngủ được”? Không còn là thứ vô tri, vô giác nữa mà con sóng ấy từ lâu đã mang trong mình cả một tâm hồn, một tâm hồn biết “nhớ”, biết “không ngủ được” vì nỗi trăn trở. Đọc những câu thơ này, người ta không chỉ cảm nhận được những âm điệu sôi nổi, mãnh liệt của sóng mà còn hình dung được những con sóng đang trào dâng giữa biển cả với nỗi nhớ bao trùm cả không gian, kéo dài theo thời gian.
Từ nỗi nhớ của sóng, Xuân Quỳnh đã bày tỏ nỗi nhớ của “em” một cách đầy tự tin, trực tiếp:
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Nếu người phụ nữ trước khi chỉ dám bày tỏ nỗi nhớ một cách gián tiếp thì người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh đã phá vỡ rào cản mà chủ động, trực tiếp khẳng định tình yêu của mình. Ở đây Xuân Quỳnh đã dùng từ “lòng” thật chính xác để diễn tả tình cảm của người phụ nữ với tình yêu. Lòng là chốn sâu kín nhất của tâm hồn, lòng là kết tinh của tình cảm được chưng cất trong một thời gian dài qua biết bao thử thách. Vì vậy mà tấm lòng ấy không chút hời hợt mà là gan, là ruột của người phụ nữ. “Lòng em nhớ đến anh” là câu nói khẳng định giản dị, chân thành mà nồng nàn, da diết và đầy táo bạo. Điều này chứng tỏ nỗi nhớ và tình yêu của người phụ nữ phải rất cháy bỏng, tha thiết và mãnh liệt mới có thể có đủ can đảm để khẳng định được tấm lòng của mình một cách chủ động như vậy. Đây cũng chính là vẻ đẹp của tình yêu tự do, hiện đại. Để rồi nỗi nhớ ấy không chỉ còn là ở cảm xúc hay ý thức mà nó đã trở thành nỗi nhớ của tiềm thức: “Cả trong mơ còn thức”. Nếu chỉ hiểu theo nhận thức của lí trí thông thường thì khi mơ là đang ngủ mà trạng thái ngủ là hoàn toàn đối lập với trạng thái thức. Cho nên “cả trong mơ còn thức” là điều rất vô lý, trái với nhận thức thông thường. Tuy vậy nhưng câu thơ vẫn được ngợi ca và đón nhận. Tại sao lại như vậy? Có lẽ là bởi nó được lý giải bởi quy luật của tình yêu. Trong tình yêu, mọi thứ vô lý đều có thể trở thành hợp lý và ở đây cũng vậy. Có lẽ chỉ người đã và đang sống trong nỗi nhớ của tình yêu mới có thể cảm nhận trọn vẹn những cung bậc cảm xúc ấy. Có thể nói, Xuân Quỳnh đã đem đến cho người đọc những cảm nhận sâu sắc mà mới mẻ về tình yêu trong tâm hồn người phụ nữ. Đây cũng là trạng thái tình cảm tiêu biểu cho những ai đã, đang và sẽ yêu. Và đằng sau nỗi nhớ “anh” tha thiết ấy là một lời khẳng định đầy mạnh mẽ cho một tình yêu sâu sắc và cao đẹp.
Ở khổ thơ thứ sáu, ta lại bắt gặp một vẻ đẹp của người phụ nữ khi yêu: đó là lòng thủy chung, son sắt. Người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh không chỉ mạnh mẽ vươn ra biển lớn tìm tình yêu mới trọn vẹn hơn, đẹp đẽ hơn mà còn là một người con gái thủy chung với tình cảm của mình, tuy sẵn sàng bỏ lại mọi thứ nhưng khi tìm được bến bờ hạnh phúc lại một lòng một dạ với người mình yêu:
“Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương”
Trước hết ở hai câu thơ đầu, chúng ta thấy cách diễn đạt của Xuân Quỳnh thật thú vị:
“Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam”
Trong cách nói quen thuộc của người Việt Nam, người ta thường chỉ nói “xuôi Nam ngược Bắc”. Thế nhưng Xuân Quỳnh lại viết “xuôi Bắc ngược Nam”. Tại sao tác giả không viết theo quy luật thông thường mà bất ngờ đảo ngược như vậy? Lúc ấy, phương Nam là tiền tuyến, miền Bắc là hậu phương mà ta thường nói xuôi về tiến tuyến, ngược về hậu phương. Điều này khẳng định rõ hơn những gian nan, tất tả, ngược xuôi cách trở éo le mà “em” phải đối diện. Phải chăng, nhà thơ còn muốn khẳng định cho dù vạn vật luôn đổi thay, cuộc đời luôn điên đảo, lòng người dễ thay đen đổi trắng, dễ biến ngược thành xuôi, thì người phụ nữ vẫn luôn thủy chung son sắt trong tình yêu. Nhà thơ còn sử dụng nghệ thuật điệp cấu trúc “dẫu…” nhằm khẳng định sự mạnh mẽ, táo bạo và chân thành của người phụ nữ khi yêu. Dù có phải trải qua tất cả những thay đổi thăng trầm, người phụ nữ vẫn luôn thủy chung với tình yêu và hạnh phúc với sự lựa chọn của mình. Dường như Xuân Quỳnh muốn phủ nhận tất cả những khó khăn, trái ngang để yêu – một tình yêu đích thực mà người phụ nữ khao khát có được.
Khép lại trong lòng người đọc là hai câu thơ:
“Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương”
Lời thơ đọc lên thấy tiếng lòng da diết của người phụ nữ khi yêu. Ta không nghe thấy tiếng lòng của sóng chỉ nghe thấy tiếng lòng của em. Xuân Quỳnh đã khẳng định một cách chân thành, mạnh mẽ: Dù ra Bắc hay vào Nam, dù đi ngược hay về xuôi, dù lên rừng hay xuống biển, dù ở bất cứ nơi đâu, dù có đi tới chân trời góc bể, dù em có phải cách xa đến chừng nào thì em vẫn luôn nghĩ về anh, luôn hướng về anh. Và dù trời đất vũ trụ có bốn phương, tám hướng thì trái tim em chỉ có một phương duy nhất – phương anh. Dấu “-” đặt giữa câu thơ, tách hai chữ “một phương” riêng thành một vế. Chính điều đó đã tạo nên điểm nhấn, sâu lắng, nồng nàn của xúc cảm thơ. Xuân Quỳnh quả thực đã rất tự tin và chân thành bày tỏ tình cảm thủy chung của mình trước anh. Đó là sự tự tin của người phụ nữ bản lĩnh dám yêu và cũng dám đi đến tận cùng để đạt tình yêu của cuộc đời.
Tấm lòng thủy chung trong tình yêu là vẻ đẹp gắn liền với truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Đồng thời đây cũng là phẩm chất quan trọng của tình yêu đích thực, của hạnh phúc đời thường. Ca ngợi về tấm lòng thủy chung của người phụ nữ trong tình yêu đã khẳng định giá trị nhân văn cao đẹp trong thơ Xuân Quỳnh.
Để có được tình yêu vừa sôi nổi thiết tha, mãnh liệt vừa trong sáng thủy chung thì con sóng phải vượt qua đại dương mênh mông để đến với “bờ anh”.
“Ở ngoài kia đại dương
….
Dù muôn vời cách trở”
Người phụ nữ đang yêu tin vào tình yêu sẽ đến bến bờ hạnh phúc dù trải qua bao khó khăn thử thách. Đúng vậy! Một tình yêu chân chính, đích thực, một niềm tin mãnh liệt vào tình yêu sẽ giúp họ vượt qua bao sóng gió cuộc đời cập đến bến bờ tương lai của hạnh phúc. Hãy nhìn vào hiện thực như trở thành quy luật, dù gió có ở thật xa nơi bãi bờ thì nó cũng sẽ tìm đến những bãi cát dài dù trải qua thật nhiều khó khăn. Tình yêu của em dù gặp biết bao trở ngại em vẫn vượt qua để đến bên anh, đến một mái ấm gia đình như Chế Lan Viên từng viết:
“Cây nối đầu cây chạy đến em
Đếm cây hoài lại mọc cây thêm
Tình anh làm cái cây sau chót
Về tới quê em mọc tận thềm”
Ba khổ thơ với nỗi nhớ, sự trăn trở và tấm lòng chung thủy son sắt cùng với phép lặp, nhân hóa, ẩn dụ, sử dụng cách nói ngược với những hình ảnh đối lập đã khẳng định niềm tin mãnh liệt vào tình yêu, tình yêu đẹp sẽ vượt qua mọi thử thách. Tha thiết với tình yêu, khao khát sống mãi trường tồn với tình yêu nhà thơ đã có chút khắc khoải, lo âu về sự tan chảy của thời gian, đời người cũng mong manh và hạnh phúc của trái tim yêu Xuân Quỳnh cũng vậy. Nhưng nhớ da diết, yêu thương nồng nàn luôn đồng hành với nỗi lo âu khắc khoải:
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”
Đời người trăm năm ngỡ dài thăm thẳm nhưng con tàu thời gian cứ vun vút lao đi không chờ đợi chúng ta. Bằng sự chiêm nghiệm của một trái tim đầy nhạy cảm nhà thơ nhận ra vũ trụ mãi vĩnh hằng – cuộc đời con người thì hữu hạn
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua”
Lo lắng tình yêu đổ vỡ, phai nhạt, khi đứng trước sự chảy trôi của thời gian. Nhưng người phụ nữ ấy vẫn luôn tin vào tương lai của tình yêu, vào ý nghĩa đích thực của tình yêu
“Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”
“Sóng” là một tác phẩm thành công vang dội của Xuân Quỳnh. Bài thơ bộc lộ tất cả những cung bậc trong tình yêu, thể hiện tình cảm son sắt, thủy chung, tha thiết, cao thượng cùng bao nỗi nhớ thương, niềm tin yêu vào tình yêu cao cả không chấp nhận một tình yêu tầm thường và nhỏ hẹp. Khát vọng một tình yêu cao đẹp thủy chung. Phải có một tâm hồn thủy chung thì mới có những vần thơ đẹp và lung linh đến vậy. Xuân Quỳnh đã góp một hơi thở đắm say, một tiếng sóng đẹp đẽ làm tươi thắm thêm cho thi đàn hiện đại Việt Nam.
3. Phân tích khổ 5, 6 và 7 bài thơ Sóng – Mẫu 2
Nhắc đến thơ tình không thể không nhắc đến nữ thi sĩ Xuân Quỳnh, một trong những nhà thơ nổi bật của nền thơ hiện đại Việt Nam. Xuân Quỳnh viết về tình yêu rất thực, thơ bà da diết, dạt dào nhưng cũng đầy quyết liệt, mạnh mẽ. Vào những năm 1967, khi mà đất nước ta đang trong những ngày chống giặc cứu nước. Bên cạnh những bản hùng ca chiến trận ca ngợi tinh thần cách mạng của các chiến sĩ thì còn có những bản tình ca của đời sống, Xuân Quỳnh đã viết nên bài thơ “Sóng” mang nét riêng giữa muôn vàn vẻ đẹp của thơ ca vào khoảng thời gian này, “Sóng” đã thể hiện thật sinh động những vẻ đẹp trong tâm hồn của nữ thi sĩ đồng thời cho thấy được tài năng trong ngòi bút của Xuân Quỳnh khi bộc lộ những cảm xúc tình cảm nội tâm đầy tinh tế qua thơ.
Thi phẩm “Sóng” đã đưa độc giả đến với những chân trời của những cảm xúc vui buồn, lắng lo, hạnh phúc và cả chân trời của sự thủy chung trong tình yêu. Những nguồn xúc cảm da diết, đậm sâu trong tình yêu được thể hiện rõ nhất của khổ 5, 6, 7 của bài thơ:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Xuân Quỳnh đã rất tinh tế dùng hình ảnh sóng để chỉ em – người con gái đang yêu. Em cũng như con sóng ngoài biển cả dạt dào, dù là dưới đáy sâu nơi đại dương rộng lớn hay chỉ thoáng qua lênh đênh trên mặt biển thì vẫn luôn nhớ về anh – người mà em yêu. Nỗi nhớ ấy đã vượt cả không gian rộng lớn, biển kia có sâu rộng cũng không đo được bằng nỗi nhớ nơi em. Sóng biển cũng chính là những cơn sóng lòng đang cuộn trào dữ dội trong em, nỗi nhớ về người thương thật mạnh mẽ biết bao. Tiếng “ôi” cất lên nghe thật tha thiết, nỗi nhớ trào dâng nơi sâu thẳm trái tim người con gái. Con sóng ngoài kia vẫn cứ thế theo từng đợt gió, dù êm đềm hay dữ dội ngày đêm vẫn vỗ tới bờ, vẫn tìm đến bờ thì em cũng như thế, cũng nhớ anh ngày đêm, mong được đến bên anh. Nỗi nhớ khôn nguôi ấy luôn thường trực trong tâm trí, khiến “em” không khỏi thao thức, trăn trở “không ngủ được”, ngay cả trong giấc mơ vẫn là bóng hình của người thương trong đó. Nỗi nhớ vượt lên cả sự chảy trôi của thời gian, của ngày đêm yêu, của tháng năm yêu. Tình cảm nơi tâm hồn Xuân Quỳnh thật chân thành, thắm thiết, sâu sắc và mãnh liệt biết bao.
Nỗi nhớ ấy tựa như nỗi nhớ của người con gái xưa:
“Nhớ ai bổi hồi bồi hồi
Như đứng đống lửa, như ngồi đống rơm”
Tình yêu thật nồng cháy, dẫu cho có khoảng cách xa xôi, có mỗi người mỗi hướng thì lòng thủy chung, son sắt vẫn luôn cháy mãi nơi đáy lòng. Dù người tình có ở nơi đâu, có ở chốn phương Bắc lạnh giá hay chốn trời Nam xa xôi thì cũng không làm em nản lòng mà thôi nhớ, thôi nghĩ về anh. Khoảng cách có xá gì đâu khi tim luôn nhìn về một hướng- hướng anh- phương hướng tình yêu chúng mình. Khoảng cách địa lý không thắng nổi sự yêu thương của tình yêu mãnh liệt, khi trái tim hai con người đã gắn kết như sợi tơ hồng đã se duyên, khi người kia đã đặt trọn vẹn niềm tin cho đối phương của mình. Điệp từ “dẫu” kết hợp với hai cụm động từ “ngược về phương Nam” ,” xuôi về phương Bắc” như một cách thể hiện những thách thức, trắc trở trong tình yêu và sự chiến thắng khó khăn ấy bằng tình yêu mãnh liệt. Lời nguyện thề nơi nào em cũng hướng về anh thật đáng quý, đáng trân trọng biết bao. Là một người con gái, nhưng Xuân Quỳnh không hề đứng đó là đợi chờ tình yêu, nhà thơ luôn thể hiện sự chủ động của mình, với nhà thơ, tình yêu luôn phải rõ ràng và bình đẳng, đã yêu là phải sống thật trọn vẹn, hết lòng với tình yêu, bởi thế mà những vần thơ không chỉ mang nét dễ thương, đáng yêu mà còn đầy rắn rỏi, quyết liệt và dứt khoát.
Trong cuộc sống, mỗi công việc đều có những khó khăn và áp lực riêng cũng như trong tình yêu vậy, mỗi mối tình đều có những trắc trở, thử thách nhất định. Song, nếu cùng nhau cố gắng, cùng nhau vun đắp, cùng hiểu và bao dung cho nhau thì rồi tình yêu cũng sẽ kết thành trái ngọt, ngày mà tình yêu được đến đích cuối cùng của bến bờ hạnh phúc:
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”
Sóng biển ngoài đại dương bao la kia cũng vượt qua bao giông tố, gió mưa mới vỗ tới bờ cát bình yên. Cũng như tình yêu anh và em cũng phải cùng nhau cố gắng, nắm tay nhau bước qua những gian truân, cám dỗ và sóng gió của cuộc đời mới tới ngày trọn vẹn. Ca dao xưa có câu:
“Yêu nhau mấy núi cũng trèo
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua”
Tình yêu là sức mạnh hay chính tình yêu đã mang lại sức mạnh lớn lao như thế.
Ba khổ thơ tuy không quá dài nhưng cũng đủ để ta thấy được một tâm hồn yêu hết mình, sống hết mình với tình yêu của nữ sĩ Xuân Quỳnh. Tiếng thơ ấy cũng chính là nỗi lòng của bao người đang yêu và được yêu, đặc biệt là những thanh niên trẻ tuổi giàu khát vọng yêu. “Sóng” đích thực đã chạm đến tất cả trái tim của người đọc bằng những cảm xúc tự nhiên nhất, khiến họ rung cảm và thổn thức với từng thanh âm, giai điệu của bài thơ.
4. Phân tích bài thơ Sóng khổ 5 6 7 – Mẫu 3
Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Thơ Xuân Quỳnh luôn thể hiện một phong cách riêng độc đáo. Đó là tiếng thơ của một trái tim phụ nữ hồn hậu, chân thành và khao khát yêu thương. “Sóng” chính là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Quỳnh. Tâm hồn người phụ nữ nặng tình, thủy chung, mãnh liệt khi yêu ấy được thể hiện sâu sắc nhất qua khổ 5, 6 và 7 trong bài thơ “Sóng”.
Thơ Xuân Quỳnh rất giàu cảm xúc với những cung bậc khác nhau khi hạnh phúc đắm say, lúc đau khổ, suy tư được tạo tác nên từ giọng thơ đằm thắm của một người phụ nữ rất mực hiền hậu. Bài thơ “Sóng” là tâm sự, nỗi lòng sâu kín của nhà thơ trong bộn bề suy nghĩ về tình yêu. Trong khổ thơ, 5, 6 và 7 với những ngôn từ giản dị, hình ảnh đối lập, đa chiều và giàu sức liên tưởng đã thể hiện rõ nhất những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ: nghĩa tình, thủy chung.
Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã từng bày tỏ:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Quả thực, thi sĩ luôn mượn cảnh để bày tỏ nỗi lòng. Nỗi lòng thi nhân luôn nhuốm trong từng động thái tinh vi nhất của cảnh vật. Xuân Quỳnh đã mượn hình ảnh con sóng làm biểu tượng cho tâm hồn người phụ nữ và thay người phụ nữ tuyên ngôn tình yêu.
Tình yêu vốn không có công thức. Trong thơ Xuân Quỳnh cũng vậy, tình yêu là sự bí ẩn ngọt ngào và quyến rũ:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Con sóng tồn tại ở hai không gian là “lòng sâu” và “trên mặt nước” khẳng định tình yêu của người phụ nữ dù tự đáy tâm hồn hay ngoài mặt đều dạt dào và liên tục không ngừng nghỉ.
Thán từ “ôi” vang nên đầy mãnh liệt và diệu kì. Chính tác giả cũng ngạc nhiên mà phải cảm thán rằng: nỗi nhớ bờ của con sóng ám ảnh, vần vũ trong lòng đến mức “ngày đêm không ngủ”. Có bao giờ con sóng trôi dạt dào đâu? Có bao giờ nỗi nhớ của em về anh có thể chấm dứt đâu?
Trong bài thơ “Đêm nay Bác không ngủ”, nhà thơ Minh Huệ đã viết:
“Đêm nay Bác không ngủ
Vì một lẽ thường tình
Bác là Hồ Chí Minh”
Ở đây, sự chủ động “không ngủ” của Bác mà chúng ta đã từng bắt gặp trong thơ Minh Huệ là vì nặng lòng với nước. Còn sự chủ động “ngày đêm không ngủ” trong thơ Xuân Quỳnh chỉ mang tính tình cảm cá nhân. Song ấy là nỗi lòng chung của hàng triệu người phụ nữ chịu cảnh chia xa, là vẻ đẹp ngọt ngào của con người khi yêu nên bài thơ mới có sức thu hút và ý nghĩa tới vậy.
Sự nhớ nhung đẩy nên cao trào khi “cả trong mơ còn thức” để mà nhớ. Nỗi nhớ cũng quần đảo không ngừng trong khoảnh khắc nhân vật thiếp đi. Thế mới thấy tình yêu của tác giả với người thương sâu sắc đến mấy.
Khắc họa vẻ đẹp chung thủy của người phụ nữ khi yêu, Xuân Quỳnh không dùng lời thề nguyền đêm trăng hay chén rượu bôi, kỉ vật duyên mà nhà thơ thể hiện bằng những lời thủ thỉ hết sức tự nhiên, đằm thắm, chân thành:
“Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương”
Hai cặp từ đối lập “nam – bắc” và “xuôi – ngược” và biện pháp điệp cấu trúc đã bao quát toàn bộ không gian đất nước Việt Nam và vũ trụ và nhấn mạnh thêm ý thơ. Từ “nghĩ” không chỉ nhấn mạnh tới suy nghĩ đơn thuần trong đầu óc con người mà nhắc tới cả ý chí, niềm tin và khát vọng.
Trong trời bể sâu rộng ấy, người con gái vẫn giữ nguyên bến đỗ duy nhất, đó là “phương” anh. Tác giả phát hiện ra thêm một phương trời rất độc đáo, mới lạ, ấy là phương anh. Chính điều ấy đã khiến bài thơ thêm nét dễ thương, chân thật, nữ tính hơn. Khổ thơ đã làm rõ nhất vẻ đẹp thủy chung của người phụ nữ trong tình yêu. Nó không chỉ là vẻ đẹp có ở riêng Xuân Quỳnh mà còn là vẻ đẹp chung của con người Việt Nam.
Cuối cùng, sức vượt trùng khơi của con sóng để tìm về bờ đã chiến thắng tất cả:
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”
Sóng ngàn năm vẫn sẽ vỗ bờ. Đại dương rộng thật đấy, lắm bão giông thật đấy nhưng sóng có ngày sẽ đến được đích. Từ chỉ số lượng “trăm nghìn” nhấn mạnh vào tình cảm dào dạt, đong đầy của tình yêu. Người phụ nữ trong thơ thêm một lần nữa nhất mạnh triết lí mà ông cha xưa nhắc tới:
“Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo
Ngũ lục sông cũng lội
Thất bát đèo cũng qua”
Qua đây, Xuân Quỳnh đưa đến chúng ta một chân lý trong tình yêu: Dù có bao nhiêu khó khăn, chỉ cần con người giữ vững trái tim yêu thương, nhất định có ngày sẽ đoàn tụ. Những câu thơ làm ấm lòng biết bao con người phải chịu nỗi đau chia lìa. Tình yêu của Xuân Quỳnh đã vượt qua mọi giới hạn, luôn cháy bỏng và đầy nữ tính. Vì thế, nó vượt lên tình cảm cá nhân cá thể mà trở nên thánh thiện, thuần khiết hơn.
Tuy chỉ là ba khổ thơ năm chữ ngắn, sóng Xuân Quỳnh đã truyền cho người đọc cảm hứng thiết tha về tình yêu đôi lứa. Tình yêu ấy vẫn sống mãi cùng thời gian và trong lòng những con người biết yêu.
5. Phân tích bài thơ Sóng khổ 5 6 7 – Mẫu 4
Tình yêu là đề tài muôn thuở mà nhiều nhà thơ, nhà văn muốn hướng đến. Tuy nhiên, mỗi người đều mang đến một nét đặc sắc riêng cho tác phẩm của mình. Ta biết đến Xuân Diệu với những cảm xúc yêu đương mãnh liệt, nồng cháy; một Anh Thơ với chút e thẹn, ngại ngùng của người con gái khi yêu… Cho dù ở bất kể cảm xúc nào thì tình yêu vẫn đẹp đẽ và chân thật. Ta biết đến Xuân Quỳnh với những sáng tác thấm đượm tâm tư và tình cảm của người phụ nữ. Người ta bắt gặp tình yêu lứa đôi với nhiều cảm xúc thiêng liêng qua “Thuyền và biển”. Tình yêu với những nỗi nhớ, niềm thương, lòng thủy chung một lần nữa lại được thể hiện một cách rõ ràng và có phần mạnh mẽ hơn qua ba khổ thơ giữa của bài thơ “Sóng”:
“Con sóng dưới lòng sâu
…
Dù muôn vời cách trở”
Xuân Quỳnh đã sử dụng một cách tài tình hình ảnh của con sóng vỗ dạt dào để tượng trưng cho tình yêu của người phụ nữ. Sóng có lúc dữ dội lúc dịu êm cũng giống như những xúc cảm của người con gái khi yêu, lúc ngọt ngào, lãng mạn, có lúc lại mãnh liệt và đầy sức hút:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”
Nỗi nhớ trong tình yêu của Xuân Quỳnh không phải nỗi nhớ thoáng qua, nhẹ nhàng mà là một nỗi nhớ mãnh liệt. Nỗi nhớ ấy bao trùm cả không gian “Con sóng dưới lòng sâu/Con sóng trên mặt nước”, thời gian ” Ôi con sóng nhớ bờ/ Ngày đêm không ngủ được”; xâm chiếm tâm hồn con người cả trong cõi vô thức, tiềm thức lẫn ý thức, cả khi tỉnh lẫn khi mơ “Cả trong mơ còn thức”. Đúng là một nỗi nhớ cồn cào, da diết, không thể nào yên, không thể nào nguôi, nó cuồn cuộn, dạt dào như những con sóng biển triền miên vô hồi vô hạn. Trong bốn câu thơ đầu, hình ảnh sóng lặp lại ba lần như một điệp khúc của bản tình ca với những giai điệu da diết, như một ám ảnh thường trực về tình yêu và nỗi nhớ. Ba câu thơ gắn liền với hình ảnh sóng giống như những đợt sóng gối lên nhau, hối hả vươn tới bờ. Đó cũng là một ẩn dụ nghệ thuật về những đợt sóng lòng đang dâng trào trong tâm hồn người phụ nữ đang yêu. Sóng thì bao giờ cũng thức. Sóng không ngủ. Bởi sóng ngủ thì sóng không tồn tại. Vì lý do này người ta đã thấy sóng là nhịp đập của biển, là trái tim của biển, là sự sống của biển. Sóng nhớ bờ không ngủ được cũng giống như nỗi nhớ em đang dành cho anh, tình yêu bao giờ cũng vậy, không thể thiếu những nhớ nhung, mộng mị:
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Mỗi con người đều sống trong hai trạng thái “mơ và thức”, còn nỗi nhớ anh đã xóa nhòa mọi khoảng cách, mọi giới hạn. Nỗi nhớ thao thức trong tâm hồn người con gái đã vượt qua mọi trạng thái. Nỗi nhớ đi từ miền ý thức đến miền vô thức. Nỗi nhớ đã trở thành nhịp sống tình yêu trọn vẹn trong tâm hồn người phụ nữ, nó triền miên da diết như hơi thở. Nỗi nhớ người yêu cứ dai dẳng, đeo bám lấy con tim người phụ nữ đang yêu. Nó tồn tại ở mọi lúc mọi nơi, thường trực trong sâu thẳm trái tim và có thể bất giác trào lên những cảm xúc nghẹn ngào. Ban ngày em nhớ anh vẫn còn chưa đủ, ban đêm nỗi nhớ ấy lại tìm về trong cả những giấc mơ. Trong tâm trí em, bóng dáng anh vẫn luôn hiện hữu, em nhớ dáng, em nhớ hình, nhớ cả những lời dịu ngọt và cả những cái ôm ấm áp.
Dù có phấp phỏng lo âu trước cái vô tận của thời gian nhưng người phụ nữ vẫn vững tin vào sức mạnh của tình yêu:
“Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương”
Nhà thơ sử dụng cách nói giả định mang theo những dự cảm về con đường còn nhiều trắc trở của tình yêu, dự cảm của một trái tim người phụ nữ đa đoan, đa cảm luôn lo âu, khắc khoải về hạnh phúc đời thường. Chọn cách nói ngược “Dẫu xuôi về phương Bắc/Dẫu ngược về phương Nam”, Xuân Quỳnh muốn khẳng định dù cuộc đời có nghịch lý, ngang trái đến mức nào thì em cũng vẫn chỉ hướng về một phương – “phương anh”. Đất trời rộng lớn có bốn phương tám hướng còn tâm hồn người phụ nữ đang yêu chỉ có một phương. Đó là phương hướng của một tình yêu chung thủy, không bao giờ đổi thay như một lời khẳng định cái bất biến giữa vạn biến. Ta thấy được vẻ đẹp của người phụ nữ vừa hiện đại vừa truyền thống, mãnh liệt và luôn có nhu cầu bộc lộ nhưng vẫn thủy chung son sắc.
Chưa thỏa mãn với sự khẳng định ấy, nhà thơ còn nhấn mạnh thêm qua hình ảnh sóng:
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”
Sóng khao khát được tới bờ như em khao khát có anh. Sóng vượt qua mọi trở ngại để tới bờ như em bước qua mọi khó khăn cách trở để cập bến hạnh phúc. Sóng muốn về với bờ sóng phải vượt qua bao giông tố, bão bùng. Em muốn hướng về anh em phải vượt qua những cạm bẫy cuộc đời. Tình yêu gắn liền với đời thường mà cuộc đời là dâu bể đa đoan. Tất cả những thử thách gian nan đang chờ trước mặt và là điều không thể thiếu đối với tình yêu:
“Tình ta như hàng cây
Đã qua mùa bão gió
Tình ta như dòng sông
Đã yên ngày thác lũ”
(Thơ tình cuối mùa thu)
Chẳng có tình yêu nào mà bằng phẳng và trải đầy hoa hồng cả. Để đến được với nhau sẽ phải trải qua biết bao những thử thách. Và với em, tất cả những khó khăn ấy sẽ chẳng là gì. Nó không thể có đủ sức mạnh để ngăn cản em đến bên anh. Bằng tình yêu nồng nhiệt, em sẽ vượt qua tất cả. Trải qua không gian, thời gian, cuối cùng sóng vẫn trở về tới bờ và em cũng lại bên anh. Tình yêu trải qua thử thách là tình yêu đẹp, cao cả nhưng dù có cao đẹp đến đâu cũng rất mong manh trước thời gian vô thủy vô chung.
Qua ba khổ thơ, Xuân Quỳnh đã khắc họa nỗi nhớ mãnh liệt và lòng thủy chung tuyệt đối trong tình yêu. Dù đi đâu về đâu, dù có sóng gió như thế nào đi nữa vẫn hướng về người mình yêu. Đồng thời, tác giả còn thể hiện vẻ đẹp của người phụ nữ trong tình yêu được thể hiện qua hình tượng sóng. Tình yêu tha thiết, nồng nàn đầy khát vọng vượt lên trên giới hạn của cuộc sống đời thường. Ba khổ thơ trên nói riêng và cả bài thơ nói chung đã để lại trong lòng người đọc một ấn tượng sâu sắc, khó phai. Trong biển lớn tình yêu cuộc đời hôm nay đã có biết bao con sóng tìm về bờ. Tình yêu vẫn luôn luôn là đề tài hấp dẫn với mọi lứa tuổi để mọi người đi tìm lời giải đáp cho ẩn số tình yêu trong một hành trình tìm kiếm không mệt mỏi. Sống là được yêu, yêu là sống hết mình với cuộc đời vốn rất nhiều yêu thương này.
6. Phân tích Sóng khổ 5 6 7 – Mẫu 5
Voltaire từng nói “Thơ là âm nhạc của tâm hồn, nhất là tâm hồn cao cả, đa cảm”, khẳng định điệu tâm hồn thấm nhuần trong từng câu thơ. Bởi vậy, ta có dịp gặp gỡ điệu hồn sâu lắng của người con gái trong tình yêu, qua lời thơ “Sóng” của thi sĩ Xuân Quỳnh. Khổ thơ năm, sáu, bảy kết tinh bút lực nhà thơ và tiếng lòng phong phú ấy.
Sau một chuyến đi thực tế ở biển Diêm Điền, nguồn cảm hứng trào dâng trong lòng nhà thơ khi bắt gặp hình ảnh con sóng giữa đại dương. Bài thơ được trích trong tập “Hoa dọc chiến hào” (1967). Khi cả nước hòa trong âm vang của cuộc kháng chiến trường kỳ, các cây bút thường lấy tình yêu đôi lứa – cái tôi mở đường dẫn tới tình yêu tổ quốc- cái ta. Thì tiếng thơ Xuân Quỳnh thuần túy nói về tình cảm lứa đôi, nên “Sóng” trở thành bông hoa lạ giữa vườn hoa nghệ thuật lúc bấy giờ.
Mượn hình tượng con sóng xuyên suốt bài thơ để thể hiện những tâm tư tình cảm của cô gái khi yêu, Xuân Quỳnh không phải người đầu tiên. Nguyễn Thị Hồng Ngát cũng gửi tình yêu nồng nàn vào biển:
“Biển yêu đất đến điên cuồng rộng lượng
Muốn xô bờ nhưng lại sợ bờ đau
…
Anh biết không, biển chính là em đấy”
Nhưng Xuân Quỳnh độc đáo khi sử dụng phép ẩn dụ không hoàn toàn giữa “em” và sóng, tạo sự kết hợp hài hòa giữa sóng biển và sóng lòng. Nếu những khổ thơ trước, con sóng tự thức về tâm hồn mình, suy tư về nguồn cội tình yêu thì đến khổ năm, con sóng và nhân vật trữ tình thức nhận những thuộc tính của tình yêu lứa đôi:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi, con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Biện pháp nhân hóa biến sóng thành chủ thể của nỗi nhớ niềm thương của trái tim yêu tha thiết. Điệp từ “con sóng” gợi hình ảnh những con sóng nhớ thương trào hết lớp này đến lớp khác vừa thể hiện sự dào dạt, sôi trào vừa miên man, lắng sâu của nỗi tương tư. Niềm mong nhớ trải dài, choáng ngợp không, thời gian “lòng sâu, mặt nước”, “đêm, ngày” mang chiều kích vô biên trong tâm tưởng cô gái, không lúc nào yên lặng bởi cuộn trào những con sóng nhớ nhung. Nữ sĩ gửi lòng vào sóng như chưa thỏa, nên “em” trực tiếp xuất hiện nói lên tiếng lòng sâu thẳm: “Lòng em nhớ đến anh”, biên cương khổ thơ nới rộng bởi cảm xúc tràn bờ. Nỗi nhớ mong “anh” không chỉ làm “em” thao thức, mà còn chiếm trọn tiềm thức, vô thức của cô gái. Nhà thơ phá vỡ mọi giới hạn đưa bạn đọc tới thế giới vô cùng của tâm hồn con người.
Sóng cùng “em” suy ngẫm về lòng thủy chung trong tình duyên:
“Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương”
Biện pháp đối lập “ngược, xuôi” tái hiện hình bóng người con gái lấy điểm tựa tình yêu để lo toan trong hành trình khác nhau của cuộc sống. Điệp ngữ “dẫu” nhấn mạnh sự bất biến của trái tim yêu trước dòng đời dài rộng, vạn biến. Nhà thơ đặt khái niệm phương anh cạnh phương bắc, nam tách biệt không gian địa lý và tình yêu. Nếu trong địa lý bốn phương tám hướng con người dễ lạc lối thì trong tình yêu, “em” chỉ hướng về một phương “anh”, đó cũng chính là bản chất của tình yêu chân chính. Lòng sắt son dẫn nhân vật “em” vượt trùng cách trở đổ về bến bờ hạnh phúc như sóng chỉ hướng đến đích cuối cùng là bờ. Tác giả nhìn sâu vào lòng mình để nắm bắt quy luật của sóng.
Con sóng và “em” cũng cất lên niềm tin vào tương lai tình yêu trọn vẹn:
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”
Hình ảnh ước lượng”trăm ngàn” con sóng vượt mọi khoảng cách đến bờ, khơi dậy trong lòng thi sĩ sự tin tưởng vào tình yêu đôi lứa là hành lý, đưa con người đến cái đích cuối cùng của cuộc đời, có thể vượt lên những giới hạn của đời sống. Đó không phải suy nghĩ nông nổi, bồng bột mà là sự nhận thức về quy luật, chân lý của đời sống nên nó trong sáng, trọn vẹn và tha thiết, cháy bỏng.
Tiếng thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh vừa nhẹ nhàng khi sục sôi, vừa suy tư, trầm lắng. Cách xây dựng hình tượng tài tình, kết hợp ngôn từ sống động và thể thơ năm chữ mang giọng điệu linh hoạt, giúp người đọc cảm thấu bản tâm phức tạp của người con gái khi yêu trong hành trình thức nhận những quy luật tình yêu chính đáng, ngợi ca tiếng nói nhân bản của con người.
7. Phân tích khổ 5, 6 và 7 bài thơ Sóng – Mẫu 6
Thơ Xuân Quỳnh có nét rất riêng, trong số các nhà thơ nữ của Việt Nam, đó là: chân thành và đam mê. Trong thơ chị cháy lên cái sắc màu của một thế giới lung linh – thế giới tình yêu. Thơ Xuân Quỳnh là niềm khao khát hạnh phúc. Nói đến cảm xúc đó trong thơ Xuân Quỳnh có nghĩa là nói đến “Sóng”. Trong bài thơ này, nỗi nhớ niềm thương của người đang yêu được Xuân Quỳnh diễn tả thật cảm động và đầy nghệ thuật. Nỗi nhớ như bao trùm cả không gian bao la. Nó chiếm cả tầng sâu, bề mặt của tâm hồn. Và nó khắc khoải da diết được thể hiện trong ba khổ thơ cuối 5, 6, 7 của bài thơ “Sóng”.
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
“Con sóng dưới lòng sâu; con sóng trên mặt nước” là những cung bậc, những biểu hiện phong phú đa dạng nỗi nhớ của “em”. “Sóng trên mặt nước” là biểu hiện nỗi nhớ khi thương. Còn “sóng dưới lòng sâu” là nỗi nhớ âm thầm lắng sâu trong cõi lòng và “cả những lúc giận anh mà lòng em vẫn nhớ”. Nỗi nhớ ấy mới khắc khoải, bồn chồn, thổn thức sâu thẳm biết nhường nào! Hai câu thơ “Lòng em nhớ đến anh; Cả trong mơ còn thức” đã diễn tả được một cách thật xúc động và chân thực cõi lòng của người phụ nữ đang yêu bằng một tình yêu thật trong sáng và mãnh liệt. “Em” nhớ “anh” từ cõi thực đến cõi mơ. Cái thức trong giấc mơ mới là tình cảm thật nhất, sâu sắc nhất của cõi lòng. Bàn chân con người có thể “xuôi về phương Bắc” hay “ngược về phương Nam”, nhưng trái tim chỉ “hướng về anh một phương” như hoa hướng dương hướng về mặt trời vậy… Ở đây, một lần nữa, Xuân Quỳnh đã mượn kết cấu trùng điệp để tăng tiến nỗi nhớ của lòng mình. Với người phụ nữ ấy, không phải phương Bắc hay phương Nam mà chỉ là một phương duy nhất. Đó là phương của tâm trạng, của trái tim – “phương anh”. Thành thật và cháy bỏng đến nhường ấy, da diết đến nhường ấy! Dù hơi táo bạo, nhưng sự đắm say của khát vọng tình yêu đã trở thành điểm tựa để thơ Xuân Quỳnh cất cánh. Đoạn thơ trên của Xuân Quỳnh vừa là tiếng nói tha thiết cháy bỏng của trái tim người phụ nữ trong nỗi nhớ, vừa được viết với thủ pháp nghệ thuật của bàn tay một thi sĩ tài hoa. Nỗi nhớ được thể hiện hằng hình tượng gián tiếp chưa đủ, nó còn được biểu hiện trực tiếp như trái tim không thể kìm nén nổi, tự thốt thành lời:
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Để nhấn mạnh tính đa dạng của nỗi nhớ, tác giả còn sử dụng thủ pháp điệp “con sóng” (ba lần), nhân cách hoá “con sóng nhớ bờ”, biện pháp đối lập “dưới lòng sâu” – “trên mặt nước”. Nỗi nhớ ở đây đã trở thành tình cảm thường trực trong “trái tim bé nhỏ mà không bến bờ” của thi sĩ cứ trào dâng, cứ tầng tầng, lớp lớp tưởng chừng như tới tột độ, cứ nối tiếp nhau hối thúc trào ứ trong tâm hồn. Đã có biết bao câu ca dao, biết bao bài thơ viết rất hay về nỗi nhớ của người phụ nữ trong tình yêu:
“Em nhớ anh không chỉ trong giấc ngủ
Em nhớ anh không chỉ lúc dạo chơi
Em nhớ anh không chỉ khi trăng tỏ
Em nhớ anh không chỉ lúc mưa rơi
Ôi! Cái nhớ sao mà kì diệu
Ôi! Cái thương sao khéo mặn mà
Có phải lúc xa nhau ta mới hiểu
Hết lòng người trong mỗi phút giây qua”
(Hoàng Thị Minh Khanh)
Ở trong bài thơ này, Xuân Quỳnh đã có thêm một tiếng nói mới mẻ về tình cảm đó bằng những vần thơ giản dị mà sâu sắc và không kém phần độc đáo.
Tình yêu chân chính là như vậy: vừa sôi nổi thiết tha, mãnh liệt, vừa trong sáng, thuỷ chung. Vì tình yêu mà thi sĩ suy tư ở đây không phải là một thứ tình cảm phiêu diêu, huyền ảo nào mà là tình yêu trần thế gắn với đời thường. Mà đời thường không hoàn toàn bình yên, phẳng lặng; trái lại, lắm khi gặp giông tố, bão bùng. Vì vậy, trong tình yêu cần phẩm chất thuỷ chung, ý chí, nghị lực, sức mạnh của tình cảm để vượt qua mọi không gian, thời gian, mọi trắc trở để tìm đến bến bờ của hạnh phúc lứa đôi:
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”
Hãy quan sát cái hiện tượng gần như trở thành quy luật có vẻ nghịch lý của đại dương. Dù gió từ bờ thổi ra thì sóng ở ngoài xa vẫn hướng vào bờ. “Em” cũng thế, cho dù gặp biết bao trở ngại, “em” cũng sẽ vượt qua hết để đến với “anh”, đến với một mái ấm hạnh phúc gia đình… (như Chế Lan Viên đã viết):
“Cây nối đầu cây chạy đến em
Đếm cây hoài lại mọc cây thêm
Tình anh làm cái cây sau chót
Về tới quê em mọc tận thềm”
Khi đã yêu thực lòng thì dù muôn vời cách trở, chúng ta vẫn đến được với nhau. Ca dao xưa đã từng viết:
“Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo
Ngũ lục sông cũng lội, thất bát đèo cũng qua”
Tình yêu là như vậy, luôn luôn gắn liền với lòng tin, tin ở cuộc đời, tin ở người mình yêu, tin ở chính sức mạnh của tình yêu. Vì thế mà qua bấy nhiêu năm tháng sống dưới cảnh đạn bom tàn phá những gì quý giá do chính bàn tay mình xây dựng nên, vậy mà trong tâm hồn người con gái bé nhỏ: “Nguyệt vẫn có tình yêu và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống, cái sợi chỉ xanh óng ánh ấy dù cho bao nhiêu bom đạn dội xuống cũng không thể đứt, không thể tàn phá nổi” (Mảnh trăng cuối rừng). Bài thơ “Sóng” thoáng một chút khắc khoải, lo âu về sự chảy trôi của thời gian, cái ngắn ngủi của cuộc đời mình và tình yêu của bản thân. Giữa lúc trái tim đang yêu nồng nàn, yêu hết mình vẫn thấp thoáng một dự cảm day dứt rất chính đáng:
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”
Biển dù rộng tới đâu rồi cũng có bờ, có giới hạn và những đám mây không thể dừng lại mãi mãi trên biển, mà chúng tiếp tục cuộc hành trình trên bầu trời để đi đến cõi vô tận xa xăm. Cũng thế, cuộc đời con người tuy dài nhưng không phải vĩnh hằng, dù con người không mong đợi nhưng năm tháng vẫn bình thản trôi qua đời người theo quy luật tất yếu khắc nghiệt của thời gian. Không gian và thời gian là vô hạn. Ở một chỗ khác, Xuân Quỳnh cũng đã có một câu thơ tương tự “Thời gian như là gió/Mùa đi theo tháng năm/Tuổi theo mùa đi mãi”.
Vì thế, đứng trước biển, con người càng có cảm giác về cái nhỏ nhoi, hữu hạn của kiếp người trước cái vĩnh hằng của vũ trụ. Do đó, con người luôn luôn có khát vọng được sống trọn vẹn trong tình yêu, khát khao được gắn bó mãi mãi với cuộc sống này, hoà nhập với cuộc đời vĩnh hằng bằng tình yêu của mình. Niềm khát khao ấy, Xuân Quỳnh lại gửi vào hình tượng “sóng”: Những con sóng tan ra không phải để biến mất trên đại dương mà là để hóa thân, để tồn tại vĩnh viễn trong vô tận các con sóng khác. Cũng thế, con người sẽ ra đi nhưng tình yêu thì ở lại, một tình yêu vô tận, vĩnh hằng như sóng giữa biển khơi. Đây là một khát vọng rất con người:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
Tình yêu của bản thân thì hữu hạn với đời người. Muốn nó đi vào vĩnh hằng, chỉ còn một cách là hoà tan tình yêu vào những con sóng tình yêu của biển đời để ngàn vạn năm sau, con sóng đó “Vẫn hát mãi bên ghềnh/Một tình chung không hết” (Xuân Diệu). Ở đây, tình yêu dường như đã lớn hơn cả bản thân, dài hơn cả cuộc đời. Trong bài thơ “Tự hát”, nữ thi sĩ Xuân Quỳnh cũng đã khẳng định:
“Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai chẳng có
Vẫn ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi”
Như vậy, bằng trái tim phụ nữ đằm thắm, thiết tha, bằng bút pháp thơ giản dị mà hàm súc, hồn nhiên mà đầy nghệ thuật, Xuân Quỳnh qua bài thơ “Sóng” đã làm nổi bật được vẻ đẹp và sức sống của tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu – một tình yêu giàu nữ tính, rất truyền thống mà cũng rất hiện đại.
Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Văn học – Tài liệu của Tmdl.edu.vn.
Trang chủ: tmdl.edu.vn
Danh mục bài: Văn Học