Vẻ đẹp sông Hương trong lòng thành phố Huế trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông đã được tác giả mô tả bằng những hình ảnh thật dịu dàng lãng mạn. Sau đây là cảm nhận vẻ đẹp sông Hương trong lòng thành thị Huế hay nhất đã được tmdl.edu.vn tổng hợp, mời các bạn cùng tham khảo.
Tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một bài bút kí ca tụng vẻ đẹp của sông Hương gắn liền với xứ Huế mộng mơ đã đi vào lòng biết bao thế hệ người đọc. Tác phẩm chính là bức tranh toàn cảnh mô tả vẻ đẹp của dòng sông Hương lúc ở thương nguồn thì mạnh mẽ hoang dại, lúc về đồng bằng thì lại thơ mộng đắm say lòng người. Trong bài viết này tmdl.edu.vn xin chia sẻ tổng hợp các bài văn phân tích, cảm nhận vẻ đẹp sông Hương ở trong lòng thành thị Huế giúp các bạn học trò có thêm tri thức và vốn từ lúc làm bài.
Bạn đang xem bài: Vẻ đẹp sông Hương trong lòng thành phố Huế (5 mẫu)
Dàn ý phân tích vẻ đẹp sông Hương trong lòng thành phố Huế
Dưới đây là dàn ý phân tích vẻ đẹp sông Hương trong lòng thành phố Huế chi tiết và đầy đủ nhất !
A. Mở bài
Tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường: là nhà văn của xứ Huế, ông có sức liên tưởng tưởng tượng dồi dào, lối hành văn mê đắm, ông chuyên viết về bút kí.
Tác phẩm là tùy bút tiêu biểu cho phong cách văn học của tác giả: sự liên kết thuần thục giữa chất trí tuệ và trữ tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều.
Hình tượng trung tâm của tác phẩm là hình tượng con sông Hương.
B. Thân bài
Dòng sông tự nhiên
Ở thượng nguồn:
Là “bản trường ca của rừng già” “rần rộ dưới bóng cây đại nghìn”, “mãnh liệt qua những ghềnh thác”; lúc lại dịu dàng say đắm dưới dặm dài chói lọi hoa đỗ vũ …”
“Cô gái Di – gan”: phóng khoáng, man dại, tâm hồn tự do, trong sáng, bản tính gan góc, có sức mạnh bản năng
Sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”.
Sông Hương từ thượng nguồn tới Huế:
Sông Hương “như một người gái đẹp nằm ngủ mơ mòng…” được đánh thức bởi tiếng gọi của tình yêu, mở đầu hành trình gian truân, “tìm kiếm có ý thức” tới với Huế, lần đầu tới với tình yêu một mặt rất nhát gan, một mặt táo tợn chủ động “vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”.
Sông Hương có nhịp chảy chậm rãi, “mềm như tấm lụa” (liên hệ hình ảnh sông Đà như “áng tóc trữ tình”),
Từ ngã ba Tuần tới chân đồi Thiên Mụ: mang dáng vẻ trầm ngâm lúc chảy qua những lăng tẩm, đổi dòng chuyển hướng liên tục.
Từ chân đồi Thiên Mụ tới lúc gặp Huế: “vui hẳn lên”, “kéo một nét thẳng” vì tìm đúng đường về
Giáp mặt Huế, sông Hương không gặp Huế ngay nhưng mà “uốn một cánh cung …tình yêu” như một người con gái bẽn lẹn, ngại ngùng.
Trong lòng Huế
Tác giả so sánh sông Hương với những dòng sông nổi tiếng trên toàn cầu, sông Hương chỉ thuộc về một thành thị duy nhất, giống như người con gái thủy chung.
Sông Hương mang tới cho Huế một vẻ đẹp thượng cổ dân dã: “ánh lửa thuyền chài … xưa cũ”, trôi đi chậm như một mặt hồ.
Người con gái đắm say tình tứ lúc bên người mình yêu, người con gái tài hoa “tài nữ đánh đàn trong đêm khuya”.
Từ biệt Huế ra biển:
Như một người con gái lưu luyến, thủy chung từ biệt người yêu.
Tác giả chủ yếu cảm nhận vẻ đẹp sông Hương từ góc độ tình yêu khiến sông Hương hiện lên như một người con gái chung tình hết lòng vì tình yêu.
Dòng sông lịch sử
Sông Hương là một nhân chứng lịch sử của Huế, của quốc gia: “soi bóng kinh thành Phú Xuân của người người hùng Nguyễn Huệ”, chứng kiến những mất mát đau thương của các cuộc khởi nghĩa thế kỉ XIX, …
Sông Hương như một công dân có ý thức trách nhiệm thâm thúy với quốc gia: “biết hiến đời mình để làm nên chiến công”,…
Là một người con gái người hùng: cùng gắn bó với Huế qua nhiều trận đánh đấu người hùng trong thời kì trung đại, tới cách mệnh tháng Tám,…
Dòng sông văn hóa
Sông Hương là “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”: toàn thể âm nhạc cổ điển Huế, những bản đàn theo suốt cuộc đời Kiều và bản Tứ đại cảnh đều được sinh thành trên sông nước sông Hương.
Là người tài nữ đánh đàn trong đêm khuya: không bao giờ lặp lại trong cảm hứng của các thi nhân
C. Kết bài
Nêu cảm nhận về hình tượng dòng sông Hương
Thẩm định nghệ thuật nổi trội: liên tưởng lạ mắt, sử dụng từ ngữ rực rỡ, văn phong tao nhã, thành công trong nghệ thuật xây dựng hình tượng sông Hương.
Qua tác phẩm ta cảm thu được niềm tự hào tha thiết của tác giả với vẻ đẹp tự nhiên xứ Huế cũng như quốc gia.
Sơ đồ tư duy phân tích sông Hương trong lòng thành phố Huế
Sau đây là Sơ đồ tư duy phân tích sông Hương trong lòng thành phố Huế dễ nhớ nhất giúp các bạn làm bài tốt hơn !
Tổng hợp một số bài văn mẫu về vẻ đẹp sông Hương trong lòng thành phố Huế
Sau đây là Tổng hợp một số bài văn mẫu về vẻ đẹp sông Hương trong lòng thành phố Huế của học sinh giỏi, mời các bạn cùng tham khảo !
Cảm nhận vẻ đẹp sông Hương trong lòng thành phố Huế
Cuối cùng sông Hương đã tới được với thành thị của mình, con sông mang một vẻ đẹp độc. sông Hương như một điệu slow tình cảm của Huế. Lưu tốc của con sông khác hẳn với dòng sông khác. Phcửa ải chăng vì quá yêu thành thị của mình, con sông Hương muốn nhìn ngắm thành thị của mình lâu hơn trước lúc rời xa nó. Đó là tình cảm của dòng sông Hương với Huế hay chính là tình cảm đặc thù nhưng mà Hoàng Phủ Ngọc Tường dành cho sông Hương và xứ Huế. sông Hương như người tài nữ đánh đàn trong đêm khuya.
Viết về sông Hương giữa lòng thành thị Huế tác giả không quên những nét đẹp văn hóa gắn liền với dòng sông thơ mộng. Ở góc độ âm nhạc tác giả gọi sông Hương là người tài nữ đánh đàn. sông Hương được ví như người yêu dịu dàng và thủy chung. Ngòi bút của tác giả đã thực sự thăng hoa lúc vẽ nên những hình ảnh đầy ấn tượng, những cảm nhận tinh tế, những liên tưởng, so sánh đẹp tới bất thần, lí thú, trình bày tình yêu say đắm với con sông.
Đó là những nét bút thật “dịu dàng, tình tứ, say đắm”: “chiếc cầu trắng ở thành thị in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như một vầng trăng non”, sông Hương “uốn một cánh cung rất nhẹ sang cồn Hến”, đường cung đấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu, “nghìn cánh hoa đăng bồng bềnh” làm dòng sông thêm lộng lẫy, con sông ngập ngừng như có “những vương vấn của một nỗi lòng, không nỡ rời xa thành thị…”. Quả đúng như câu thơ Thu Bồn: “Con sông dùng dằng, con sông không chảy Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”.
Phân tích sông Hương trong lòng thành phố Huế
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một tác giả sáng tác có nhiều thành công ở nhiều thể loại. Tuy nhiên, thành công chủ yếu của ông là ở thể kí. Nguyễn Tuân – một bậc thầy về thể kí đã cho rằng kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường có rất nhiều ánh lửa. Nét rực rỡ trong sáng tác của ông là ở sự liên kết thuần thục giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với tư duy đa chiều được tổng hợp từ vốn tri thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí,… Tất cả được trình bày qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa. Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông ? của ông viết tại Huế năm 1981 là một trong những tác phẩm rực rỡ vừa trình bày những nét đẹp lạ mắt của sông Hương vừa trình bày nét tài hoa, uyên bác của cái tôi Hoàng Phủ Ngọc Tường nhạy cảm, tinh tế, nhất mực say mê cái đẹp của quê hương, quốc gia.
Ai đã đặt tên cho dòng sông? là một bài bút kí viết hết sức tự do và phóng khoáng. Xét tới cùng, sức thu hút của tác phẩm này chính là cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường- một cái tôi tài hoa với vốn văn hóa sâu rộng, tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, ông đã đem lại cho người đọc được chiêm ngưỡng một thực thể thẩm mĩ tuyệt vời của tạo hóa tặng thưởng – đó là dòng sông Hương của xứ Huế với một vẻ đẹp phong phú, lung linh, huyền ảo, nhất là đoạn chảy về đồng bằng tới ngoại vi thành thị Huế.
Đoạn tả sông Hương chảy xuôi về đồng bằng tới ngoại vi thành thị Huế đã bộc lộ nét tài hoa, lịch lãm trong lối viết của tác giả. Người đọc khó có thể cưỡng lại sức thu hút toát ra từ thủ pháp nhân hóa, từ cách dùng hàng loạt các động từ diễn tả cái dòng chảy thật sống động qua các địa danh không giống nhau của xứ Huế.
Dễ nhận thấy sông Hương từ chân núi Kim Phụng liên tục chuyển dòng: có lúc là hướng Nam Bắc, có lúc lại là hướng Tây Bắc,… nhưng những khúc quanh, sự chuyển dòng đột ngột của dòng sông đã được tác giả trình bày qua những cảm nhận rất lạ mắt, qua một cái nhìn thật tình tứ lúc Hoàng Phủ Ngọc Tường tưởng như đó là những đường cong thật mềm của người con gái. Nói cách khác, thủy trình của Hương Giang không thẳng tắp, không đơn điệu. Ta không quên tác giả luôn ví sông Hương với hình ảnh của người thiếu nữ, một thiếu nữ đang tới với xứ Huế, tới nơi hứa hẹn gặp thành thị tương lai. Như thế, những đoạn gấp khúc uốn quanh không chỉ cho ta thấy những đường cong thật mềm của thiếu nữ nhưng mà còn thoáng chút gì như nhát gan, một tẹo dùng dắng lúc tới nơi hứa hẹn với người yêu thủy chung. Đấy là nơi sông Hương sẽ gắn bó mãi với kinh thành.
Từ Bến Tuần, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở thành xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thấy những con thuyền trên sông Hương chỉ nhỏ vừa bằng con thoi, còn sông Hương lại như tấm lụa khổng lồ. Đấy là những tấm lụa rực rỡ những sắc màu và những sắc màu đấy lại chuyển đổi theo thời kì: sớm xanh, trưa vàng, chiều tím. Thật ra, đó chỉ phản quang theo thời kì trong ngày nhưng cũng đủ cho ta thấy vẻ đẹp kì ảo của tự nhiên một miền đất. Những sắc màu đấy không cùng đồng hiện, nếu thế thì không còn là rực rỡ nhưng mà chỉ là sặc sỡ. sắc màu đấy đã chuyển đổi theo thời kì, theo quy luật, trở thành cách nói thân thuộc của người dân xứ Huế. Như thế, cảnh sắc càng trở thành diễm lệ và mơ mòng. Đấy là những sắc màu phản quang chuyển đổi theo thời kì của một ngày hay đấy là nỗi niềm của con người đồng hành với những sắc màu của một miền đất ? Cảnh sắc đấy càng khiến người ta bâng khuâng:
Sớm trông mặt đất thương xanh núi
Chiều vọng chân trời nhớ tím trời
(Xuân Diệu)
Nói tới Huế còn phải nói tới những lăng tẩm – dường như đây là điều không thể tách rời. Tác giả nói tới một đoạn sông Hương trôi chảy giữa quần sơn lô xô, nơi đấy chỉ có những rừng thông u tịch, như cảm thu được niềm tự hào âm u của những lăng tẩm, bao nhiêu lăng của vua chúa làm cho một đoạn sông Hương như chìm trong núi phủ mây phong cùng với bóng tùng:
Bốn bề núi phủ mây phong
Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng vạn niên
Đoạn sông Hương này dòng chảy không cuộn xoáy, không rần rộ nhưng mà dường như mây phong núi phủ đã khiến nó trở thành trầm ngâm, tức là gợi ra những cảm nhận về suy nghĩ, về những gì là thâm nghiêm. Nét trầm ngâm này được tác giả ví như triết lí, như cổ thi – tác giả đã không so sánh với những gì cụ thể, dễ nhận mặt nhưng mà lại so sánh với những thứ xa xôi, trừu tượng, mơ hồ để con người như càng thêm trầm tư, mặc tưởng trước vẻ đẹp đặc thù của một đoạn sông Hương.
sông Hương lúc chảy vào thành thị Huế thân yêu – có nhẽ đây là đoạn tác giả nói về vẻ đẹp của dòng sông đẹp nhất, duyên dáng, trữ tình nhất. Từ chùa Thiên Mụ trở đi, sông Hương lại mang một vẻ đẹp khác. Tác giả đã thấy sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh lè. Chi tiết này làm ta nhớ tới những câu thơ trong bài thơ Bên kia sông Đuống của Hoàng cầm nói về dòng sông ra đi giữa đôi bờ xanh bãi mía bờ dâu. Có nhẽ đó cũng là nét đẹp thường thấy ở nhiều dòng sông khác. Nhưng nếu như Hoàng cầm chỉ gửi gắm nỗi niềm kín đáo thì Hoàng Phủ Ngọc Tường lại nói rõ sông Hương vui tươi hẳn lên vì .nó đã tìm đúng đường về. Cái vui tươi của dòng sông lại cho ta liên tưởng tới cái vui tươi của con người, tới cuộc sống yên bình của người dân một miền đất với những bờ bãi xanh lè, phì nhiêu ,…
sông Hương đã gặp cầu Tràng Tiền trên đường về. Tác giả thấy nhịp cầu với hình bán nguyệt in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non. Có thể nói liên tưởng, so sánh đấy thật hợp pháp và bất thần và cũng thật nên thơ bởi so sánh đấy đã nói được hình dáng, màu sắc của cây cầu và dường như nhịp cầu có phản chiếu một ít ánh sáng. Hình bán nguyệt bừng sáng ở phía xa đấy như vành trăng non để liên tưởng có tiếp ở người đọc là ánh mắt của người thiếu nữ. Có nhẽ lúc đi tới những liên tưởng, những so sánh này thi Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nghĩ tới câu kiều: Mày người nào trăng mới in ngần (bài kí hơn một lần cho thấy những liên tưởng về Truyện Kiều của Nguyễn Du).
Niềm vui của dòng sông lúc gặp cầu Tràng Tiền không ồn ĩ nhưng mà có gì đó sâu thẳm, lặng lẽ. sông Hương tới gần với xứ Huế chỗ cồn Giã Viên thì tác giả thấy nó có những nét cong thật mềm mại và đã được so sánh, nhìn nhận: dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. So sánh này thật là lạ mắt, tài hoa và tinh tế. Tác giả đã so sánh với những cái khá mơ hồ nhưng lại gợi được những liên tưởng: cô gái đấy thuận tình nhưng lại không nói ra vì nhát gan. Điều này làm ta liên tưởng tới nét đẹp của cô gái xứ Huế tình tứ, duyên dáng nhưng mà vẫn nhát gan, vẫn kín đáo – Hàn Mặc Tử cũng đã có câu thơ nói về điều này: Sao anh không về chơi thôn Vĩ ? (Đây thôn Vĩ Dạ).
sông Hương giữa lòng thành thị Huế có gì đó gợi nhắc tới sông Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét,…. nhưng những dòng sông đấy vừa giống lại vừa khác với Hương Giang. Đó đều là những dòng sông gắn liền với thủ đô, kinh đô nhưng sông Hương vẫn khác với hai con sông đó ở chỗ sông Hương không hoàn toàn gắn với những gì hiện đại nhưng mà còn gắn với những xóm thuyền, với nhưng ánh lửa thuyền chài. sông Hương chảy giữa lòng thành thị ở đây ta như thấy có sự đan cài giữa quá khứ với hiện đại. Sự kề cận và đan xen đấy tạo nên nét đặc thù cho xứ Huế và sông Hương.Hương Giang phía hạ nguồn đã chảy chậm hơn. Đây cũng là một nét khác lạ nữa của dòng sông với sông Nê-va. Sông Nê-va chảy quá nhanh, quá xiết, còn dòng sông Hương chảy giữa lòng thành thị lại lặng lờ, êm đềm. Nó không còn vũ điệu cuồng nhiệt của cô gái Di-gan, chẳng còn nữa những gì là rần rộ, là mãnh liệt. Điệu chảy khác thường đấy của sông Hương đã được tác giả gọi là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế. Nét êm đềm, lững lờ chảy của dòng sông chính là khuôn mặt kinh thành đã in dấu trong thơ của nhiều người:
Con sông dùng dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng Huế nên rất thơ
(Thu Bồn)
Hương Giang ơi, dòng sông êm
Qua tim ta vẫn ngày đêm tự tình
(Tố Hữu)
Gió theo lối phong vân đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
(Hàn Mặc Tử)
sông Hương qua cảm nhận của tác giả chủ yếu được nhìn nhận theo chiều không gian, theo dòng chảy của con sông. Nhưng sẽ thật là thiếu sót nếu không nói tới vẻ đẹp của Hương Giang từ phương diện thời kì nhưng mà vẫn gắn với kinh thành, với đêm khuya trên dòng sông. Trong bài kí, tác giả đã nhắc tới tiếng đàn, tiếng cổ nhạc đêm khuya trên sông Hương. Dòng sông lúc đấy đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Nhà văn thật hợp lí lúc cho rằng không thể nghe tiếng nhạc Huế ban ngày, nghe ở rạp hát nhưng mà dứt khoát phải nghe lúc đêm khuya ở một khoang thuyền. Khi đấy, tiếng đàn sẽ hòa điệu với tiếng nước rơi trên mái-chèo để tạo nên một sự cộng hưởng lạ lùng. Từ đây, tác giả mới có liên tưởng tới Nguyễn Du. Thi hào có nhẽ đã sống với những phiến trăng sầu, những đêm trên sông Hương với bao nỗi niềm, nghe tiếng đàn để có được câu thơ: Trong như tiếng hạc bay qua – Đục như tiếng suối mới xa nửa vời nhưng mà một nghệ nhân gắn bó với cổ nhạc xứ Huế nửa thế kỉ qua đã quyết đoán đó chính là Tứ đại cảnh (một bản nhạc cổ Huế, tương truyền do vua Tự Đức sáng tác). Dòng sông Hương là nơi sinh thành cổ nhạc Huế với những điệu nam người nào, nam bình không thể nào quên. Đó là môi trường diễn xướng để tiếng nước rơi trên mái chèo làm tôn thêm tiếng đàn. Môi trường đấy đã nuôi dưỡng hồn thơ của một thi hào để từ đó có những câu thơ tuyệt diệu về tiếng đàn đi suốt cuộc đời nàng Kiều.
Khi chảy qua thành thị Huế, sông Hương dường như không vội vã nhưng mà muốn vòng lại lưu luyến. Hơn một lần Hoàng Phủ Ngọc Tường nói tới khúc quanh của dòng sông: có lúc là đường cong thật mềm, có lúc như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu, còn ở đây tác giả lại thấy dòng sông vương vấn và có một tẹo gì lẳng lơ kín đáo của tình yêu. sông Hương đã là một cô gái thật đáng yêu, là Thúy Kiều trong đêm tự tình. Dòng sông đấy đã vòng lại, chảy lại để nói lời từ giã với Kim Trọng và khẳng định một lời thề trước lúc ra đại dương rộng lớn: còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ… Chia tay là một điều không thể khác, ra biển với những dòng sông là lẽ tự nhiên nhưng chỗ vòng lại khúc quanh đấy lại bộc lộ tất cả những quyến luyến, ước hứa hẹn: Nước đi ra bể lại mưa về nguồn (Thề non sông, Tản Đà). Dòng nước có trôi đi thì rồi giọt nước lại rơi về. Biết bao nhiêu nỗi vương vấn bâng khuâng tạo ra những liên tưởng về sự hóa thân, về những gì vang vọng trong câu hò dân gian về nét đẹp trung tình của con người một miền đất.
Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường là bài văn xuôi rực rỡ đầy chất thơ về dòng sông Hương. Với tình yêu say đắm, thiết tha và với vốn hiểu biết sâu rộng về văn hóa, lịch sử, địa lí,… nhà văn đã hiến dâng cho người đọc một ấn tượng sâu đậm về vẻ đẹp của dòng sông xứ Huế mộng mơ, nhất là đoạn chảy ở đồng bằng tới ngoại vi thành thị Huế. Hương Giang vốn đã đẹp ở ngoài nhưng trong những trang viết của mình, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khiến dòng sông đẹp hơn như một bức họa đồ, nhẹ nhõm êm ái như điệu slow tình cảm, hay dịu dàng cuốn hút như người yêu trong mộng. Tất cả những điều đó làm dấy lên trong lòng người đọc nhưng khát khao được tới với sông Hương của xứ Huế thơ mộng. Dòng sông đúng là một công trình nghệ thuật nhưng mà tạo hóa đã tặng thưởng cho con người.
Cảm nhận sông Hương trong lòng thành phố Huế
sông Hương ở hạ nguồn khác với sông Hương lúc còn ở trên đại nghìn. Vẻ đẹp của sông Hương trước lúc vào thành thị Huế là cái đẹp mềm mại của một người con gái đang phô khoe những đường cong tuyệt mĩ. Bằng nghệ thuật so sánh, nhà văn đã ví sông Hương như “người gái đẹp đang ngủ mơ mòng thì được người bạn tình mong đợi tới đánh thức”. Với lối so sánh đấy, dòng chảy uốn lượn của con sông, những khúc quanh của nó hiện lên như những đường cong trên thân thể của một người thiếu nữ đương thì xuân sắc: “sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa những khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”.
Về mặt địa lý, hành trình tới với “người yêu mong đợi” của “người gái đẹp” này khá gian truân và nhiều thử thách lúc nó phải vượt qua Hòn Chén, Ngọc Trản, Nguyệt Biều, Lương Quán. Nhưng chính trong quá trình đấy, con sông lại như có dịp phô khoe tất cả vẻ đẹp của mình – vẻ đẹp gợi cảm của người thiếu nữ đi ra từ “cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” : “qua điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ xuôi dần về Huế. Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở thành xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”.
Có thể thấy, bằng một lối hành văn uyển chuyển, tiếng nói nhiều chủng loại và giàu hình ảnh, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã diễn tả một cách sinh động và thu hút những khúc quanh, ngã rẽ của con sông. Mỗi đường đi nước bước của sông Hương gắn liền với những địa danh không giống nhau của xứ Huế được nhà văn dành cho một cách diễn tả riêng. Nhờ đó nhưng mà hành trình về xuôi của dòng sông không đơn điệu, nhàm chán nhưng mà trái lại nó xoành xoạch biến hóa khiến người đọc đi từ ngạc nhiên, thú vị này tới bất thần, khoái cảm khác. Có những câu văn giàu chất họa tới mức cứ ngỡ như đường cọ của người họa sĩ đang đưa những nét vẽ về sông Hương trên bức tranh tự nhiên xứ Huế (“vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán… vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc”). Lại có câu văn gợi một nét mơ hồ với nhiều liên tưởng và xúc cảm rất thích : “sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”.
Thủ pháp nhân hóa và so sánh được sử dụng liên kết với hệ thống ngôn từ giàu xúc cảm và hình ảnh cũng góp phần đáng kể vào việc khắc họa một dòng sông thơ mộng, trữ tình. Nó làm cho cảm nhận về con sông như người con gái đẹp càng trở thành rõ nét và gợi cảm : sông Hương “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ” trước lúc “xuôi dần về Huế”; sông Hương như con người biết tự làm mới mình, trang điểm cho mình đẹp hơn trước lúc gặp người yêu nhưng mà nó mong đợi : “vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở thành xanh thẳm”; sông Hương như “tấm lụa” mềm mại trên thân thể người thiếu nữ…
Tóm lại, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã “vẽ” lên bằng chất liệu ngôn từ cái dáng điệu yêu kiều và rất tạo hình của sông Hương lúc nó ở ngoại vi thành thị Huế. Nhà văn không chỉ tái tạo lại một cách chân thực dòng chảy địa lý tự nhiên của con sông nhưng mà quan trọng hơn biến cái thủy trình đấy thành “hành trình đi tìm người yêu” của một người con gái đẹp, duyên dáng và tình tứ. Đây cũng chính là cảm nhận riêng, lạ mắt và rất rực rỡ của nhà văn về sông Hương trước lúc nó chảy vào lòng thành thị thân yêu.
Đi giữa tự nhiên, sông Hương cũng chuyển mình ngày đêm bên những lăng tẩm, thành quách của vua chúa thời Nguyễn. Con sông hiền hòa ở ngoại vi thành thị Huế, tới đây, như đang nép mình bên “giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch”. Chảy bên những di sản văn hóa đấy, con sông như bổng trở thành nghiêm trang hơn, nó như khoác lên mình tấm áo “trầm ngâm” mang cái “triết lí cổ thi” của cổ nhân. Dòng sông hay chính là dòng chảy của lịch sử vẫn dẻo dai chảy qua năm tháng và đang vọng về trong ngày hôm nay.
Trên hành trình của một con sông mềm mại như lụa, nhà văn đã “hướng ống kính máy quay” ra không gian xung quanh hai bên bờ sông. Hình ảnh thu được là không gian văn hóa Huế trình bày ở cảnh sắc tự nhiên và những lăng tẩm đền đài của vua chúa thời Nguyễn : “sông Hương trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách… Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời Tây Nam thành thị : sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”.
Vậy là, sông Hương đi trong vẻ đẹp của cảnh sắc tự nhiên Huế và chính nó lại là tấm gương phản chiếu nét đẹp của phong cảnh đất trời hai bên bờ sông. Không có sông Hương, những ngọn đồi ở ngoại vi Huế vẫn có vẻ đẹp riêng nhưng vẻ đẹp đấy sẽ mất đi cái long lanh, cái đa sắc màu và không còn những “điểm cao đột khởi” xuất hiện như một điểm nhìn văn hoá, thưởng thức. sông Hương chính là “trung tâm trạng”, là vong hồn của tự nhiên cảnh vật.
Cuối cùng, sông Hương cũng tới nơi nhưng mà nó cần tới, cũng gặp được “thành thị tương lai” nhưng mà nó mong đợi: thành thị Huế. Có nhẽ vì thế nhưng mà con sông “tươi vui hẳn lên”. Như đã tìm đúng đường đi, sông Hương cập bến thành thị thân yêu giữa những “thuyền bãi xanh lè của vùng ngoại thành Kim Long” để rồi “giáp mặt thành thị ở cồn Giã Viên”. Tới đây, con sông giống như một cô gái đẹp nhát gan, dịu dàng nghiêng mình “chào” Huế : “…sông Hương đã uốn một cánh cung rất nhẹ sang tới cồn Hến”, “như một tiếng vang không nói ra của tình yêu”. Giống như sông Xen ở Pari, sông Đa- nuýp ở Bu- đa- pét, “sông Hương nằm ngay giữa lòng thành thị yêu quý của mình”.
Miêu tả dòng sông giữa lòng thành thị, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã chọn kênh tiếp cận là âm nhạc. Ở góc độ này, sông Hương chính là “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Trong tiếng Anh, “slow” tức là chậm và sông Hương như một nhạc điệu trữ tình chậm rãi chỉ dành riêng cho Huế nhưng mà thôi. Có thể thấy, nhà văn đã tinh tế lúc nhìn ra một đặc trưng của Hương giang. So với các dòng sông khác ở Việt Nam và toàn cầu, lưu tốc của sông Hương không nhanh. Điều này đã được nhà văn lý giải từ đặc điểm địa lý : “những chi lưu đấy cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước làm cho sông Hương lúc đi qua thành thị đã trôi đi chậm, thực chậm cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”.
Để làm nổi trội hơn cái đặc trưng này, nhà văn đã liên tưởng, so sánh sông Hương với sông Nêva – con sông chảy băng băng lướt qua trước cung điện Petecbua cũ để ra bể Ban-tích. Lưu tốc của con sông này nhanh tới mức “không kịp cho lũ hải âu nói một điều gì với người bạn của chúng đang ngơ ngẩn trông theo”.
Tuy nhiên, tất cả sự lý giải và so sánh nêu trên chưa lột tả được hết ý nghĩa của cái mệnh đề nhưng mà nhà văn đã nói chung về sông Hương lúc nó chảy giữa lòng thành thị : “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Mượn câu nói của Hêraclít – nhà triết học Hi Lạp, trong một cách nói thật hình ảnh “khóc suốt đời vì những dòng sông trôi quá nhanh”, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem lại một kiến giải khác, hết sức thú vị và lạ mắt về lưu tốc của dòng sông nhưng mà ông yêu quý. Đó là cách lý giải từ “trái tim” : sông Hương chảy chậm, điệu chảy lững lờ là vì nó quá yêu thành thị của mình, nó muốn được nhìn ngắm nhiều hơn nữa thành thị thân yêu trước lúc phải dời xa. Đó là tình cảm của sông Hương với Huế hay chính là tình cảm của nhà văn với sông Hương, với xứ Huế mộng mơ ? Có nhẽ là cả hai !
Viết về sông Hương giữa lòng thành thị, Hoàng Phủ Ngọc Tường không quên một nét đẹp văn hoá đặc trưng gắn liền với dòng sông thơ mộng này. Đó là những đêm trình diễn âm nhạc cổ điển Huế trên dòng sông Hương. Ở góc nhìn âm nhạc này, tác giả gọi sông Hương là “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Ai đã từng có dịp tới Huế thưởng thức nền âm nhạc Huế, được xem các nghệ sĩ trình diễn âm nhạc trên sông vào những đêm khuya mới thấy hết vẻ đẹp của âm nhạc và màu sắc văn hoá đặc trưng ở nơi đây. Toàn bộ nền âm nhạc đấy, trong cảm nhận của tác giả, chỉ thực sự là chính nó lúc “sinh thành trên mặt nước” của Hương Giang “trong một khoang thuyền nào đó, giữa những tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”. Ở đây có cái thú vị, cái sắc điệu riêng trong cách trình diễn âm nhạc của người Huế nhưng cũng có quy luật của nghệ thuật trình diễn trên không gian sông nước.
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã một lần nữa khẳng định mối quan hệ gắn bó không thể tách rời giữa sông Hương và nền âm nhạc cổ điển Huế. Đây chính là văn hoá Huế nói chung và vẻ đẹp của sông Hương nói riêng, vẻ đẹp hiếm thấy ở bất kì một dòng sông nào ở trong nước cũng như trên toàn cầu.
Khi dời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc. Tuy nhiên, do đặc điểm địa lý ở quốc gia ta (hồ hết mọi dòng sông đều chảy về hướng đông để đổ ra biển) nên thủy trình của con sông đã phải thay đổi. Nó phải chuyển dòng sang hướng đông và tương tự sẽ lại đi qua một góc của thành thị Huế ở thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Đó là đặc điểm địa lý tự nhiên của dòng sông. Nhưng trong con mắt của người nghệ sĩ tài hoa, khúc ngoặt đấy lại là bộc lộ của nỗi “vương vấn”, thậm chí có chút “lẳng lơ kín đáo” của người yêu thủy chung và chí tình. Nhà văn tưởng tượng, tưởng tượng sông Hương như nàng Kiều trở lại tìm Kim Trọng để nói một lời thề trước lúc đi xa. Đây đúng là một phát hiện, một liên tưởng thú vị, lạ mắt và đậm màu sắc văn học của tác giả về dòng sông thân yêu của xứ Huế. Hương giang vốn đã đẹp, nay lại càng đẹp hơn, trọn vẹn hơn trong cảm nhận của người đọc. Một vẻ đẹp hài hòa giữa hình dáng bên ngoài với phần tâm hồn, tâm linh sâu thẳm bên trong.
Qua những cảm nhận về vẻ đẹp của dòng sông Hương lúc chảy vào thành thị Huế, có thể nhận thấy Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tiếp cận và mô tả dòng sông từ nhiều không gian, thời kì không giống nhau. Ở mỗi điểm nhìn, mỗi góc độ, nhà văn đều trình bày một cảm tưởng thâm thúy và khá mới mẻ về con sông đã trở thành biểu tượng của xứ Huế. Từ trong những cái nhìn đấy và qua giọng điệu của các đoạn văn, ta thấy bàng bạc một tình cảm yêu quý, gắn bó tha thiết, một niềm tự hào và một thái độ trân trọng, giữ gìn của nhà văn đối với những vẻ đẹp tự nhiên và đậm màu sắc văn hóa của dòng sông quê hương.
Cảm nhận của anh chị về vẻ đẹp của sông Hương khi vào thành phố Huế
Ngay từ lúc đọc nhan đề, ở người đọc đã vang lên câu hỏi: “Ai đã đặt tên cho dòng sông” – câu hỏi có dáng dấp ngửng ngơ rất thi sĩ. Từ thoáng ngơ ngẩn này, bao nhiêu ấn tượng về cái đẹp của sông Hương sẽ ùa về trong tâ, trí, khơi lên mạch viết dạt dào xúc cảm về “nhan sắc” thiên phú của dòng nước êm đềm chảy qua Huế cố đô. Vang lên những lần khác trong tác phẩm, câu hỏi trở thành một nỗi suy tư trầm lặng, đánh động bao vốn liếng văn hóa tích tụ trong người viết và cũng dòi hỏi nó phải được hiện diện trên trang giấy. Vậy đó, ta đang nói tới những mạch cảm hứng lớn đã dẫn dắt nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường tới và đi với sông Hương, để rồi tiếp nữa, làm một cuộc viễn du vào lòng muôn dộc giả, nhập vai người truyền cảm hứng cho họ bộc lộ tình yêu xứ sở hết sức thiết tha của mình.
Sau lúc làm “bản trường ca của rừng già” và “rần rộ giữa những bóng cây đại nghìn” ở khúc thượng nguồn, thành “người gái đẹp nằm ngủ mơ mòng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” ở ngoại vi thành thị Huế, sông Hương chính thức chảy vào trong thành thị Huế.
Dưới góc nhìn địa lí, sông Hương giáp mặt với Huế ở Cồn Giã Viên, uốn mình một đường cong chảy vào thành thị Huế. Lưu tốc của sông giảm hẳn do có sự hiện diện hai hòn đảo nhỏ và những chi lưu mang nước đi khắp thành thị. Vì thế sông trôi thật chậm như một mặt hồ yên tĩnh.
Dưới góc nhìn tài hoa và mê đắm của Hoàng Phủ Ngọc Tưởng, sông Hương hiện lên với gương mặt riêng. Sông chảy theo hướng tây nam – đông bắc, “kéo một nét thẳng thực yên tâm” “như tìm đúng đường về”, như người con gái đã tìm thấy bến đỗ của tình yêu, vui tươi và yên tâm. Dáng người con gái đấy “mềm mại như dáng lụa”, mềm như “tiếng vâng không nói ra của tình yêu” vừa duyên dáng và ý nhị. Cái nhìn đấy của Hoàng Phủ không chỉ đơn giản là cái nhìn quan sát, khám phá nhưng mà là cái nhìn mê đắm của chàng trai dành cho người con gái. Hai bên bờ sông có đủ những cảnh đẹp: xa – gần, cổ truyền – bình dị, sang trọng – mộc mạc của cuộc sống cần lao: “những cây đa, cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những nơi đấy, vẫn lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một vong hồn mô tê xưa cũ nhưng mà không một thành thị hiện đại nào còn nhìn thấy được”. Tiếp theo đó là dáng nước. Trong cái nhìn của Hàn Mặc Tử, nhịp độ của sông nước là nhịp buồn:
“Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Trong cái nhìn Tố Hữu là nhịp của những tình nghĩa:
“Hương giang ơi, dòng sông êm
Quả tim ta, vẫn ngày đêm tự tình”
Với Thu Bồn lại là nhịp lắng đọng:
“Con sông dùng dằng, con sông không chảy”
So với con sông ở Lê-nin-grát, sông Nê- va, tác giả lại càng thấy nhớ, thấy quý điệu chảy lặng lờ. Bởi điệu chảy của sông Hương là điệu tâm hồn, là nhịp sống chậm, là những khoảnh khắc vừa sống vừa cảm nhận, vừa lắng tai. Nhìn con sông xứ người nhưng mà thêm yêu con sông xứ mình. Tác giả đã thực sự trở thành một tri kỉ của sông Hương, hiểu ngọn ngành khí chất của nó.Theo tác giả, sông Hương đã thật “tâm lí” lúc “trôi chậm, thực chậm” qua kinh thành Huế, như để xoa dịu người ta đừng quá sầu muộn về sự chuyển đổi vô thường của cuộc đời, về sự vèo qua chóng mặt của thời kì. Dòng nước sông đã lặng tờ một cách cố tình để muốn những ánh hoa đăng trong đêm hội rằm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về qua Huế “bồng ngập ngừng như muốn đi muốn ở” . Bằng cách trôi rất riêng đó của mình, sông Hương như muốn nhắc người ta rằng cuộc đời này có rất nhiều cái đáng vương vấn. Rồi nữa, nếu không nhờ sự phát hiện đầy tính chất đồng điệu của tác giả đối với sông Hương, mấy người nào biết rằng việc sông Hương đột ngột đổi dòng ngay lúc vừa chia tay Huế là thuận theo một lí do rất tình cảm, rất “người”: chẳng qua nó muốn gặp lại Huế “để nói một lời thề trước lúc về đại dương”. Ở đây có tới ba tháu độ chí tình cùng “hợp lưu” với nhau: chí tình của sông Hương đối với Huế, chí tình của con người Huế trong tình yêu và chí tình của chính tác giả dành cho sông Hương, dành cho cả mảnh đất xưa gọi là Châu hóa. Suy cho cùng nếu không có cái chí tình của tác giả thì cái chí tình của sông Hương không thể trở thành một “khách thể ý thức” gay ấn tượng sâu đậm tới vậy!
Nếu biết cất tiếng người, hẳn sông Hương sẽ nói rằng nó đã thực sự yên tâm lúc chọn trang viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường để hóa thân. Có nhẽ chính nhà văn cũng nhận thấy, cũng hiểu niềm tin tưởng đó, nên từng câu văn của ông bay bổng, diễm ảo lạ thường. Nhiều lúc độc giả có cảm tưởng ngôn từ trong bài bút kí không phải là của tác giả dùng để mô tả sông Hương nhưng mà chính là ngon từ của sông Hương đang hát lên bài ca cho mình. Ngôn từ đấy trôi chảy hết sức tự nhiên, nếu có “luyến láy” thì cũng “luyến láy” một cách tự nhiên bởi chất hào hoa, đa tình vốn đã là cái gì thuộc về căn cốt của người viết rồi. Thiên bút kí đưa tới rất nhiều thông tin nhưng mà đọc lên vẫn thấy thanh thoát là nhờ thế. Rất nhiều trải nghiệm của một đời viết luôn gắn bó với con người, dân tộc và quốc gia đã được đưa vào đây. Yêu sông Hương nhưng tình yêu đấy không ngăn cản ta yêu những dòng sông khác có trên trái đất. Và trái lại, niềm thích thú được quan sát dáng nét lạ mắt của những dòng sông thuộc các vùng không giống nhau lại làm tươi mười trong ta nỗi rung động bổi hồi rất đặc thù trước dòng sông quê hương đã nuôi lớn cuộc đời mình.
Phân tích sông Hương khi chảy vào thành phố Huế
“Ai đặt tên cho dòng sông?” là một bài bút ký nổi tiếng của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Trong bài kí này, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ca tụng vẻ đẹp của con sông Hương và cũng chính là ca tụng vẻ đẹp của con người Huế. Nhà văn mô tả vẻ đẹp của con sông Hương bằng tất cả tình cảm đắm say tha thiết và đầy tự hào của mình, nhất là lúc nhà văn mô tả hình ảnh của con sông Hương lúc chảy vào kinh thành Huế.
sông Hương lúc chảy vào thành thị được tác giả mô tả bằng một lối văn trữ tình, hướng nội, lạ mắt và tài hoa. Với cái nhìn tinh tế, đầy xúc cảm và đầy thông minh của nhà văn, dòng sông Hương lúc chảy vào thành thị Huế hiện lên với những đặc trưng riêng của nó nhưng mà không có dòng sông nào có được. Khi chảy vào thành thị thân yêu, sông Hương như tìm thấy chính mình, nên “vui hẳn lên giữa những biền bãi xanh lè của vùng ngoại thành Kim Long”. Từ đó, dòng sông “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc”, rồi sông Hương được nhà văn nhân hóa, “sông Hương nhìn về phía đó và nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành thị in ngần lên nền trời, nhỏ nhắn như những vầng trăng non”. Và tới lúc “giáp mặt thành thị ở cồn Giá Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ nhõm sang tới cồn Hến; đường cong đấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”.
Với sự so sánh lạ mắt này, nhà văn đã làm nổi bậc tính dịu dàng, trầm ngâm của con sông Hương lúc chảy vào thành thị”. Và hơn nữa để làm nổi trội tính chất này, nhà văn đã so sánh sông Hương cũng “‘giống như sông Xen của Pari, sông Đa- nuýp của Budapest; sông Hương nằm ngay giữa lòng thành thị yêu quý của mình; Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông”. Nhưng sông Hương đã tạo cho thành thị Huế một nét lạ mắt riêng nhưng mà không có thành thị hiện đại nào trên toàn cầu có được: “Đầu và cuối ngõ thành thị, những nhánh sông máng mang nước sông Hương tỏa đi khắp phố thị, với những cây đa, cây cừ cổ thụ tỏa lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những nơi đấy, vẫn lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một vong hồn mô tê xưa cũ nhưng mà không một thành thị hiện đại nào còn nhìn thấy được. Những chi lưu đấy, cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước, làm cho sông Hương lúc qua thành thị đã trôi đi chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”.
sông Hương lúc chảy qua thành thị được tác giả cảm nhận dưới nhiều góc độ: có lúc nhà văn nhìn sông Hương dưới góc độ hội họa: sông Hương và những chi lưu của nó tạo nên những đường nét tinh tế làm nên vẻ đẹp của cố đô; có lúc nhà văn cảm nhận sông Hương bằng âm nhạc: sông Hương đẹp như điệu slow chậm rãi, sâu lắng, trữ tình; có lúc nhà văn cảm nhận sông Hương bằng cái nhìn đắm say của một trái tim đa tình đầy lãng mạn: “sông Hương là người yêu dịu dàng và thủy chung”. Điều này được tác giả diễn tả trong một đoạn văn thật thú vị, đầy thông minh, với một giác quan nghệ thuật lạ mắt: “Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về phía chính bắc, ôm lấy đảo cồn Hến quanh năm mơ mòng trong sương khói, đang xa dần thành thị để lưu luyến ra đi giữa màu xanh lè của tre trúc và của những vườn cau vàng ngoại thành Vĩ Dạ. Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt theo hướng đông tây để gặp lại thành thị lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Đối với Huế, nơi đây chính là chỗ chia tay dõi xa ngoài mười dặm trường đình”. Và cũng bằng giác quan nghệ thuật, tác giả đã có phép so sánh và nhân hóa tuyệt vời: “Riêng với sông Hương” vốn đang xuôi chảy giữa cánh đồng phù sa êm ái của nó, khúc quanh này thật bất thần biết bao. Có một cái gì đó rất lạ với tự nhiên và rất giống con người ở đây; và để tư cách hóa nó lên, tôi gọi đó là nỗi vương vấn. Cả một chúi lẳng lơ kín đáo của tình yêu. Và giống như nàng Kiều trong đêm tự tình, ở ngã rẽ này, sông Hương đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để có một lời thề trước lúc về đại dương…”.
Như vậy, dưới cái nhìn và sự cảm nhận đầy tinh tế, đầy nghệ thuật, dòng sông Hương hiện lên qua đôi mắt và tâm hồn của nhà văn, nó không còn là một dòng sông phổ biến nữa nhưng mà nó là một cô gái dịu dàng đi tìm người yêu thủy chung của mình với một tình yêu sâu lắng, đắm say, tha thiết.
Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết.
Trang chủ: tmdl.edu.vn
Danh mục bài: Văn Mẫu