Dàn ý cảm nhận về bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão kèm theo bài văn mẫu tinh lọc sẽ là tài liệu có ích để những em học và chuẩn bị sẵn sàng cho tiết học trên lớp .
Mời các em tham khảo dàn ý cảm nhận về bài thơ Tỏ lòng (Phạm Ngũ Lão) của Đọc tài liệu dưới đây để nắm được các ý chính cần triển khai cho bài văn cảm nhận về bài thơ Tỏ lòng và củng cố thêm kiến thức về tác phẩm.
Bạn đang xem bài: Dàn ý cảm nhận về bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão và Top 8 mẫu phân tích bài thơ Tỏ lòng hay nhất
Thư Viện Hỏi Đáp cũng giúp giải đáp những vấn đề sau đây:
- Chuyên đề tỏ lòng
- Giáo án tỏ lòng
- Nhân vật To lòng trong bài thơ là ai
- Bài tập tỏ lòng
- Các biện pháp tu từ trong bài tỏ lòng
- Điển tích điển cố trong bài to lòng
- Cảm nhận to lòng
- Phong cách ngôn ngữ bài to lòng
Bạn đang đọc: Dàn ý cảm nhận về bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão
Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão.
- Tham khảo hướng dẫn soạn bài Tỏ lòng (soạn chi tiết và soạn ngắn nhất)
Nội dung câu trả lời
Dàn ý cảm nhận về bài thơ Tỏ lòng (Phạm Ngũ Lão)
I. Mở bài
– Giới thiệu tác giả và bài thơ : Phạm Ngũ Lão là người văn võ toàn tài, có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên. Ông để lại cho đời hai bài thơ trong đó nổi tiếng hơn cả là bài Tỏ lòng .- Khái quát những tâm lý, cảm nhận về tác phẩm này : Bài thơ với âm điệu tự hào về hào khí Đông A và sự tự ý thức về chí làm trai đời Trần làm dấy lên lòng yêu nước và tự hào về dân tộc bản địa .
II. Thân bài
1. Hoàn cảnh sáng tác
– Bài thơ sinh ra trong không khí quân và dân nhà Trần đang hừng hực, sục sôi khí thế chiến đấu và chiến thắng quân Mông – Nguyên xâm lược lần thứ hai. Bài thơ mang âm hưởng tự hào, ngợi ca, cổ vũ, khuyến khích .
2. Vẻ đẹp hào hùng của con người thời Trần
a. Vẻ đẹp người anh hùng vệ quốc- Tư thế : “ hoành sóc ” – cầm ngang ngọn giáo+ Ngọn giáo : Là vũ khí chiến đấu của quân đội thời trước+ Tay cầm ngang ngọn giáo : bộc lộ sự dữ thế chủ động, tự tin+ Bản dịch thơ là “ múa giáo ” : cách dịch mang tính hình ảnh, hoa mĩ, tương thích với vần nhịp nhưng chỉ bộc lộ được hành vi phô trương, màn biểu diễn bên ngoài, không nói lên được được sức mạnh nội lực bên trong. Cách dịch không thoát ý .→ Tư thế dữ thế chủ động, tự tin, vững trãi đầy kiên cường, hiên ngang, hào hùng, chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu và thắng lợi- Tầm vóc+ Không gian : “ Giang sơn ” – sông nước, tổ quốc, tổ quốc-> Không gian thiên hà to lớn, kì vĩ, rợn ngợp. Nam nhi thuở trước thường nói chí tỏ lòng qua khoảng trống ngoài hành tinh to lớn .+ Thời gian : “ kháp kỉ thu ” : Con số ước lệ tượng trưng cho thời hạn dài, vô tận→ Khẳng định tầm vóc lớn lao, kì vĩ, sánh ngang tầm thiên hà, ép chế cả khoảng trống và thời hạn của người anh hùng nhà Trần. Họ như những dũng tướng uy phong, lẫm liệt .b. Vẻ đẹp sức mạnh của quân đội nhà Trần .- Tiềm lực quân đội : “ Tam quân ” – ba quân tiền quân, trung quân, hậu quân : Ý chỉ quân đội nhà Trần, tiềm lực quân sự chiến lược của cả dân tộc bản địa .→ Tiềm lực quân đội can đảm và mạnh mẽ, vững vàng- Khí thế đội quân : Hình ảnh so sánh tăng tiến với hai Lever
+ Cấp độ một: “Tam quân” được so sánh với “tì hổ”: Cụ thể hóa sức mạnh của đội quân. Hổ báo là loài mãnh thú, chúa rừng là nỗi khiếp đảm của loài vật khác thì tiềm lực sức mạnh dũng mãnh của quân đội nhà Trần là nỗi khiếp đảm của quân thù
+ Cấp độ hai: Tác giả làm rõ sức mạnh ấy bằng hình ảnh “khí thôn ngưu” có hai cách hiểu, cả hai cách đều đúng:
( 1 ) Khí thế ba quân hùng mạnh nuốt trôi trâu( 2 ) Khí thế hào hùng ngút trời làm mờ sao Ngưu→ Khí thế dũng mãnh, hào hùng ngút trời, ý thức “ sát thát ” của quân đội nhà Trần được cụ thể hóa bằng những hình ảnh ước lệ .⇒ Hai câu thơ đầu mang âm hưởng của niềm tự hào can đảm và mạnh mẽ, đó là bộc lộ của lòng yêu nước .⇒ Qua hai câu thơ khiến ta thêm yêu và hiểu hơn về sức mạnh và ý thức chiến đấu, ý chí chiến bại và phẩm chất anh hùng của quân đội nhà Trần. Từ đó có những tâm lý và hành vi đúng đắn xứng danh với cha ông .
3. Vẻ đẹp chí làm trai qua tâm tình tác giả
Xem thêm: Công Thức Và Cách Tính Lãi Suất Vay Ngân Hàng Theo Tháng Từ A
a. Món nợ sự nghiệp- Chí đàn ông : Làm trai phải có ý chí đàn ông, xông pha, gánh vác .- Nợ công danh sự nghiệp : Theo ý niệm Nho gia, đây là món nợ mà một kẻ làm trai sinh ra đã phải có nghĩa vụ và trách nhiệm trả. Nó gồm có hai phương diện lập công và lập danh. Khi triển khai xong hai trách nhiệm này mới được xem là trả xong món nợ .→ Trân trọng sự ý thức, nghĩa vụ và trách nhiệm về việc hoàn trả món nợ sự nghiệp của tác giả .b. Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão .- “ Thẹn ” là trạng thái xấu hổ, ngại ngùng khi thấy chưa bằng người khác- “ Thuyết Vũ Hầu ” : Điển tích Trung Quốc nói về một con người kĩ năng, mưu chước, hết lòng báo đáp công ơn của chủ tướng, lập được công danh sự nghiệp sự nghiệp lớn .- Phạm Ngũ Lão cũng là một trang đàn ông hết lòng vì nước, cả công lao và nổi tiếng đều vang xa. Vậy mà ông vẫn thẹn vì chưa báo đáp được hết ơn chiêu mộ của Trần Quốc Tuấn, chưa tận tâm tận lực trả hết món nợ công danh sự nghiệp .→ Đây là nỗi thẹn của một nhân cách lớn. Thẹn không làm hạ thấp nhân cách mà trái lại làm cho nhân cách hùng vĩ hơn→ Thể hiện ý thức muốn góp sức nhiều hơn nữa cho dân tộc bản địa. Đồng thời thức tỉnh ý thức làm người và chí làm trai cho đàn ông đời Trần .⇒ Trân trọng ngợi ca nhân cách cao đẹp của người anh hùng Phạm Ngũ Lão⇒ Rút ra bài học kinh nghiệm : Sống phải có tham vọng, tham vọng. Phải quyết tâm và nỗ lực rất là để thực thi tham vọng ấy dù phải trải qua những khó khăn vất vả, thử thách .
III. Kết bài
– Khái quát nội dung và nghệ thuật và thẩm mỹ của bài thơ .- Trình bày những cảm nhận chung về bài thơ : Cảm thức chủ yếu là lòng tự hào và niềm kính yêu với cha ông. Nhận thức và hành vi của bản thân trong hiện tại và tương lai .
Tham khảo: Dàn ý phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão
2. Sơ đồ tư duy Phân tích bài Tỏ lòng
3. Phân tích bài Tỏ lòng
Phạm Ngũ Lão là một người tài giỏi, có lòng yêu nước nồng nàn, bản lĩnh phi thường. Ông không chỉ biết đến là một danh tướng thời Trần mà còn là một nhà thơ với nhiều bài thơ về chí trai, lòng yêu nước. Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông là bài thơ Tỏ lòng. Văn bản thể hiện những tâm tư, nỗi niềm của vị tướng tài, đồng thời tái hiện chân thực hào khí Đông A sôi sục, hào hùng của thời đại.
Bằng lối viết trực tiếp, mở đầu hai câu thơ tác giả đã dựng những nét vẽ đầu tiên về chân dung người tráng sĩ Đông A:
Hoàng sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
(Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)
Hình ảnh của con người nhà Trần hiện lên với vẻ đẹp hiên ngang, khí chất được miêu tả qua hai chữ đầu tiên “hoành sóc” với tư thế đầy oai hùng, kiên cường như khắc họa đậm nét những con người anh dũng lẫm liệt với ngọn giáo trong tay đi khắp giang sơn để bảo vệ quê hương, đất nước. Nó sừng sững như một bức tượng đài đầy hiên ngang giữa không gian rộng lớn của “ giang sơn” và dòng thời gian trôi chảy “ kháp kỉ thu”, người ấy mang vẻ đẹp của những đấng anh hùng từng trải, đã được tôi luyện mỗi ngày. Vận mệnh và sự bình yên của đất nước đang được đặt trên đầu ngọn giáo kia, đó là trọng trách lớn lao đặt lên vai người tráng sĩ, nhưng cũng chính ngọn giáo ấy là điểm tựa vững vàng che chắn cho cả dân tộc tồn tại. Câu thơ không có chủ ngữ mang ngụ ý của tác giả: đó không chỉ là một hình ảnh duy nhất của một con người duy nhất, mà là đại diện của biết bao con người thời đại, là không khí sôi sục của đất trời Đông A.
Chưa từng có một thời đại nào trong lịch sử, hình ảnh con người trở nên hùng vĩ đến vậy, một khí thế hùng tráng, lúc nào cũng hừng hực: “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”. Với cách nói ẩn dụ ước lệ kết hợp với phép phóng đại đã tạo cho người đọc một ấn tượng mạnh mẽ về khí thế dũng mãnh, kiên cường. Khí thế hiên ngang của quân đội ta xông pha ra trận phi thường đến mức có thể “nuốt trôi trâu”. Ẩn sau cách nói cường điệu hóa, người đọc cảm nhận được lòng tự tôn, niềm tự hào dân tộc của nhà thơ khi đưa tầm vóc của quân dân nhà Trần sánh ngang với vũ trụ bao la. Đó còn là tình yêu tổ quốc, dân tộc với khát vọng vươn lên để gìn giữ, bảo vệ độc lập, chủ quyền của dân tộc. Vẻ đẹp người tráng sĩ hiên ngang, hùng sảng là kết tinh của vẻ đẹp dân tộc, đây không chỉ là của một vị anh hùng cụ thể nào mà là vẻ đẹp muôn thuở của cả một dân tộc anh hùng.
Hai câu cuối, nhà thơ bộc lộ, thể hiện quan niệm về chí làm trai của mình trong thời buổi lúc bấy giờ
“Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”
(Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe thuyết vũ hầu)
Với người quân tử trong xã hội phong kiến, đã sống trên đời phải được ghi công với núi sông, chí làm trai phải là phẩm chất không thể thiếu. Đó là tuyên ngôn chung, xu hướng chung, quan niệm chung của tất cả các bậc nam nhi có chí thời bấy giờ kể cả Nguyễn Công Trứ hay Phạm Ngũ Lão. và với Phạm Ngũ Lão, công danh vẫn là một thứ mà ông còn vương nợ vì thế mà khi nghe chuyện Vũ Hầu ông cảm thấy hổ thẹn với lòng.Tuy có những cái thẹn khiến người ta trở nên nhỏ bé, có những cái thẹn khiến người ta khinh thường nhưng cũng có nhwungx cái thẹn cho người ta thấy được tầm vóc cao lớn với ý chí quyết tâm mạnh mẽ và cái thẹn của danh tướng thời Trần là cái thẹn đó. Ông so sánh mình với Vũ Hầu để biết bản thân cần phải học hỏi, cần phải cố gắng hơn, đó là một tinh thần cầu tiến của nhà thơ đối với người tài giỏi. Tuy xuất thân từ một người nông dân những tác giả thể hiện được sức mạnh ý chí và trí tuệ của mình làm cho người khác không thể nhìn vào hoàn cảnh xuất thân mà chê trách ông điều gì.
Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, chỉ với một số lượng ngôn từ ít ỏi, song lại đạt được tới sự hàm súc cao độ khi đã dựng lên được những bức chân dung con người và hào khí Đông A với vẻ đẹp hào sảng, khí thế, dũng mãnh.
Bài thơ tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão xứng đáng là khúc tráng ca hào hùng ngợi ca vẻ đẹp con người và thời đại, bài ca sẽ sống mãi theo năm tháng và luôn in hằn trong tâm trí bạn đọc.
4. Phân tích Thuật hoài
Phạm Ngũ Lão là một danh tướng đời Trần. Tuy xuất thân từ tầng lớp bình dân song chí lớn tài cao nên ông nhanh chóng trở thành tùy tướng số một bên cạnh Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Trong cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên xâm lược, Phạm Ngũ Lão cùng những tên tuổi lớn khác của triều đình đã lập nên nhiều chiến công hiển hách, góp phần quan trọng tạo nên hào khí Đông A của thời đại đó:
Ông sáng tác không nhiều nhưng Thuật hoài là một bài thơ nổi tiếng, được lưu truyền rộng rãi vì nó bày tỏ khát vọng mãnh liệt của tuổi trẻ trong xã hội phong kiến đương thời: làm trai phải trả cho xong món nợ công danh, có nghĩa là phải thực hiện đến cùng lí tưởng trung quân, ái quốc.
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu
Dịch thơ tiếng Việt:
Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu
Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.
Bài thơ được sáng tác trong bối cảnh đặc biệt có một không hai của lịch sử nước nhà. Triều đại nhà Trần (1226 – 14001) là một triều đại lẫy lừng với bao nhiêu chiến công vinh quang, mấy lần quét sạch quân xâm lược Mông – Nguyên hung tàn ra khỏi bờ cõi, giữ vững sơn hà xã tắc, nêu cao truyền thống bất khuất của dân tộc Việt.
Phạm Ngũ Lão sinh ra và lớn lên trong thời đại ấy nên ông sớm thấm nhuần lòng yêu nước, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc và nhất là lí tưởng sống của đạo Nho là trung quân, ái quốc. Ông ý thức rất rõ ràng về trách nhiệm công dân trước vận mệnh của đất nước: Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách.
Bài thơ Thuật hoài (Tỏ lòng) được làm bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt luật Đường, niêm luật chặt chẽ, ý tứ hàm súc, hình tượng kì vĩ, âm điệu hào hùng, sảng khoái. Hai câu thơ đầu khắc họa vẻ đẹp gân guốc, lẫm liệt, tràn đầy sức sống của những trang nam nhi – chiến binh quả cảm đang xả thân vì nước, qua đó thể hiện hào khí Đông A ngút trời của quân đội nhà Trần thời ấy.
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu (Dịch nghĩa: cầm ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu); dịch thơ: Múa giáo non sông trải mấy thu. So với nguyên văn chữ Hán thì câu thơ dịch chưa lột tả được hết chất oai phong, kiêu hùng trong tư thế của người lính đang chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Hoành sóc là cầm ngang ngọn giáo, luôn ở tư thế tấn công dũng mãnh, áp đảo quân thù. Tư thế của những người chính nghĩa lồng lộng in hình trong không gian rộng lớn là giang sơn đất nước trong suốt, một thời gian dài (giang sơn kháp kỉ thu). Có thể nói đây là hình tượng chủ đạo, tượng trưng cho dân tộc Việt quật cường, không một kẻ thù nào khuất phục được. Từ hình tượng ấy, ánh hào quang của chủ nghĩa yêu nước ngời tỏa sáng.
Câu thơ thứ hai: Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu. (Dịch nghĩa: khí thế của ba quân mạnh như hổ báo, át cả sao Ngưu trên trời). Dịch thơ: Ba quân hùng khí át sao Ngưu, đặc tả khí thế chiến đấu và chiến thắng không gì ngăn cản nổi của quân dân ta. Tam quân tì hổ là một ẩn dụ so sánh nghệ thuật nêu bật sức mạnh vô địch của quân ta. Khí thôn Ngưu là cách nói thậm xưng để tạo nên một hình tượng thơ kì vĩ mang tầm vũ trụ.
Hai câu tứ tuyệt chỉ mười bốn chữ ngắn gọn, cô đúc nhưng đã tạc vào thời gian một bức tượng đài tuyệt đẹp về người lính quả cảm trong đạo quân Sát Thát nổi tiếng đời Trần.
Là một thành viên của đạo quân anh hùng ấy, Phạm Ngũ Lão từ một chiến binh dày dạn đã trở thành một danh tướng khi tuổi còn rất trẻ. Trong con người ông luôn sôi sục khát vọng công danh của đấng nam nhi thời loạn. Mặt tích cực của khát vọng công danh ấy chính là ý muốn được chiến đấu, cống hiến đời mình cho vua, cho nước. Như bao kẻ sĩ cùng thời, Phạm Ngũ Lão tôn thờ lí tưởng trung quân, ái quốc và quan niệm: Làm trai đứng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông (Chí làm trai – Nguyễn Công Trứ). Bởi thế cho nên khi chưa trả hết nợ công danh thì tự lấy làm hổ thẹn:
“Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu
(Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu).
Vũ Hầu tức Khổng Minh, một quân sư tài ba của Lưu Bị thời Tam Quốc. Nhờ mưu trí cao, Khổng Minh đã lập được công lớn, nhiều phen làm cho đôi phương khốn đốn; vì thế ông rất được Lưu Bị tin yêu.
Lấy gương sáng trong lịch sử cổ kim soi mình vào đó mà so sánh, phấn đấu vươn lên cho bằng người, đó là lòng tự ái, lòng tự trọng đáng quý cần phải có ở một đấng nam nhi. Là một tùy tướng thân cận của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, Phạm Ngũ Lão luôn sát cánh bên cạnh chủ tướng, chấp nhận xông pha nơi làn tên mũi đạn, làm gương cho ba quân tướng sĩ, dồn hết tài năng, tâm huyết để tìm ra cách đánh thần kì nhất nhằm quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi. Suy nghĩ của Phạm Ngũ Lão rất cụ thể và thiết thực; một ngày còn bóng quân thù là nợ công danh của tuổi trẻ với giang sơn xã tắc vẫn còn vương, chưa trả hết. Mà như vậy là phận sự với vua, với nước chưa tròn, khát vọng công danh chưa thỏa. Cách nghĩ, cách sống của Phạm Ngũ Lão rất tích cực, tiến bộ. ông muốn sống xứng đáng với thời đại anh hùng.
Hai câu thơ sau âm hưởng khác hẳn hai câu thơ trước. Cảm xúc hào sảng ban đầu dần chuyển sang trữ tình, sâu lắng, như lời mình nói với mình cho nền âm hưởng trở nên thâm trầm, da diết.
Phạm Ngũ Lão là một võ tướng tài ba nhưng lại có một trái tim nhạy cảm của một thi nhân. Thuật hoài là bài thơ trữ tình bày tỏ được hùng tâm tráng trí và hoài bão lớn lao của tuổi trẻ đương thời. Bài thơ có tác dụng giáo dục rất sâu sắc về nhân sinh quan và lối sống tích cực đối với thanh niên mọi thời đại Thuật hoài đã làm vinh danh vị tướng trẻ văn võ song toàn Phạm Ngũ Lão.
5. Phân tích bài thơ Tỏ lòng – Mẫu 1
Từ ngàn xưa, nhân dân ta đã có truyền thống yêu nước nồng nàn, luôn sẵn sàng đứng lên bảo vệ đất nước mỗi khi đất nước cần. Lòng yêu nước được thể hiện qua nhiều lĩnh vực nhưng có lẽ nổi bật nhất vẫn là ở lĩnh vực văn học. Trong các bài thơ của ông, có một tác phẩm rất đặc biệt “Tỏ lòng” đây chính là tác phẩm đã làm toát lên rất rõ về vẻ đẹp, khí thế của con người nhà Trần. Phạm Ngũ Lão là danh tướng thời Trần, có công rất lớn trong công cuộc chống Nguyên – Mông. “Tỏ lòng” được ông sáng tác khi cuộc chiến lần thứ hai Nguyên – Mông đang đến rất gần, nhằm khơi dậy sức mạnh toàn dân. Lúc đó, tác giả cùng một số vị tướng khác được cử lên biên ải Bắc trấn giữ nước.
Nói đến hào khí Đông A là nói đến hào khí đời Trần. Thời này là một mốc son chói lọi trong lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, quân và dân thời Trần đã kiên cường anh dũng lập nên 3 kì tích: 3 lần đại thắng quân Nguyên – Mông, để có được thắng lợi đó, quân dân thời Trần đã phải vượt qua bao nhiêu khó khăn, gian khổ, căm thù giặc sôi sục cùng lòng quyết tâm chiến thắng. Hào khí dân tộc thể hiện ở sự hòa quyện giữa hình ảnh người anh hùng với hình ảnh “Ba quân” đã tạo nên một bức tranh tượng đài nghệ thuật sừng sững đang hiện ra.
“Hoành sóc giang sơn khắp kỉ thu
Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu“
Câu thơ đầu khắc họa một hình ảnh người anh hùng đang trong tư thế hiên ngang, vững chãi, “Hoành sóc” là việc cầm ngang ngọn giáo, với sứ mệnh trấn giữ giang sơn, giữ yên bờ cõi ròng rã đã mấy năm rồi mà không biết mệt mỏi. Con người đó được đặt trong một không gian kì vĩ: núi sông, đất nước khiến con người trở nên vĩ đại sánh ngang với tầm vóc vũ trụ. Hình ảnh còn mang ý nghĩa biểu tượng cho tinh thần xông pha sẵn sàng chiến đấu, một tư thế hiên ngang làm chủ chiến trường. Tiếc thay, khi ta chuyển dịch thành “múa giáo” thì phần nào đã làm hai chữ “hoành sóc” giảm đi tính biểu tượng và tư thế oai phong lẫm liệt của hình tượng vĩ đại này. Ngày xưa, quân lính chia làm ba tiểu đội: tiền quân, trung quân và hậu quân. Tuy nhiên, khi nói đến “ba quân” thì sức mạnh của cả quân đội nhà Trần, sức mạnh của toàn dân tộc đang sục sôi biết bao. Câu thơ thứ hai sử dụng thủ pháp so sánh để làm toát lên khí thế, “Tam quân tỳ hổ” chính là ví sức mạnh của tam quân giống như hổ như báo, nó vững mạnh và oai hùng. Nhờ đó, tác giả đã bày tỏ niềm tự hào về sự trưởng thành, và lớn mạnh của bậc quân đội. Không chỉ thế, câu thơ còn sử dụng thủ pháp phóng đại “Khí thôn ngưu” – khí thế quân đội mạnh mẽ lấn át cả Sao Ngưu hay là khí thế hào hùng nuốt trôi trâu. Như vậy, hai câu thơ đầu khắc họa vẻ đẹp người anh hùng hòa trong vẻ đẹp của thời đại hào hùng tạo nên những con người anh hùng. Câu thơ gây ấn tượng mạnh bởi sự kết hợp giữa hình ảnh khách quan với cảm nhận chủ quan giữa hiện thực và lãng mạn. Qua đó, tác giả bộc lộ niềm tự hào về sức mạnh của nhà Trần nói riêng cũng như là của toàn dân tộc nói chung.
“Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu“
Qua hai câu thơ trên, lí tưởng của người anh hùng đang được thể hiện rõ qua hai cặp từ “nam nhi và công danh”. Nhắc đến chí là nhắc đến chí làm trai, lập công là để lại công danh, sự nghiệp để lại danh tiếng cho muôn đời, công danh được coi là món nợ phải trả của kẻ làm trai. Một danh tướng có nỗi trăn trở, canh cánh trong lòng là chưa trả xong nợ công danh mặc dù con người ấy đã lập lên bao nhiêu chiến công rồi. Đó chính là khát vọng, lí tưởng lớn lao muốn được phò vua giúp nước, trong không khí sục sôi của thời đại bấy giờ, chí làm trai có tác dụng cỗ vũ cho con người sẵn sàng chiến đấu giành lại hòa bình cho đất nước.
Ở câu cuối của bài thơ, nói lên cái tâm của người anh hùng, điều đáng quý bên cạnh Trí là còn có cái tâm. “Thẹn với Vũ Hầu” – Vũ Hầu chính là Gia Cát Lượng, một tài năng, một nhân cách, một người có tâm, tác giả thẹn vì chưa có tài mưu lược như Gia Cát Lượng chăng? Mặc dù tác giả là người lập nhiều công cho đất nước nhưng vẫn thấy thẹn. Qua nỗi thẹn ấy, người đọc nhận ra thái độ khiêm nhường, một ý nguyện cháy bỏng được giết giặc, lập công đóng góp cho sự nghiệp chung.
Qua bài thơ, hiện lên hình ảnh của đấng nam nhi thời đại Bình Nguyên, với khát vọng có thể phá được cường địch để báo đáp hoàng ân, để non sông được vững vàng. Vẻ đẹp của người anh hùng lồng trong vẻ đẹp của thời đại làm nên hào khí của thời đại nhà Trần, hào khí Đông A. Bài thơ cũng là nỗi lòng riêng của Phạm Ngũ Lão về khát vọng lí tưởng, về nhân cách của con người phải được giữ gìn.
6. Phân tích bài thơ Tỏ lòng – Mẫu 2
Đã từng một thời, văn học Việt Nam được biết tới như những con thuyền chở đầy ý chí và khát vọng cao đẹp của người đương thời, đó là những áng thi ca trung đại đầy hào sảng, hùng tráng. Bởi vậy chăng mà cứ mỗi lần từng tiếng thơ “Thuật hoài” (Tỏ lòng – Phạm Ngũ Lão) vang lên, hiện lên trước mắt ta luôn là hình ảnh người tráng sĩ thời đại Lý – Trần với hùng tâm tráng chí sôi nổi, như những bức tượng đài đẹp nhất đại diện cho cả một thời đại đầy rực rỡ của phong kiến Việt Nam: thời đại Đông A.
Là một vị tướng tài ba từng gắn bó sâu sắc với triều đại nhà Trần, Phạm Ngũ Lão hiểu rõ hơn ai hết tấm lòng thiết tha với non sông và khao khát giữ vững độc lập chủ quyền nước nhà của tướng quân và nhân dân. Trong hoàn cảnh cả dân tộc đang dốc sức thực hiện kháng chiến chống Mông – Nguyên lần hai, cần có một liều thuốc tinh thần tiếp thêm sức mạnh để quân dân từng ngày cố gắng hơn nữa trong sự nghiệp bảo vệ đất nước; “Thuật hoài” ra đời cũng vì lẽ đó. Đặt trong một hoàn cảnh đặc biệt, được viết dưới ngòi bút của con người có tầm vóc lớn lao, bài thơ dù chỉ là một trong hai tác phẩm của Phạm Ngũ Lão còn lưu lại, song cũng đủ để ghi danh tác giả cho tới tận muôn đời.
Hai câu thơ đầu là những nét phác họa đầu tiên về chân dung người tráng sĩ Đông A:
Hoàng sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
(Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)
Bằng lối vào đề trực tiếp, trong câu thơ đầu tiên, tác giả đã dựng lên hình ảnh người tráng sĩ thời Trần mang vẻ đẹp của con người thời đại: cầm ngang ngọn giáo trấn giữ non sông. Chỉ qua một hành động “hoành sóc”, người tráng sĩ hiện lên với tư thế đầy oai hùng và kiên cường, ngay thẳng, vững vàng. Sừng sững như một bức tượng đài đầy hiên ngang giữa không gian rộng lớn của “giang sơn” và dòng thời gian dài trôi chảy “kháp kỉ thu”, người ấy mang vẻ đẹp của những đấng anh hùng từng trải, với kinh nghiệm già dặn đã được tôi luyện mỗi ngày. Vận mệnh và sự bình yên của đất nước đang được đặt trên đầu ngọn giáo kia, đó là trọng trách lớn lao đặt lên vai người tráng sĩ, nhưng cũng chính ngọn giáo ấy là điểm tựa vững vàng che chắn cho cả dân tộc tồn tại. Câu thơ tỉnh lược chủ ngữ ngắn gọn mang ngụ ý của tác giả: đó không chỉ là một hình ảnh duy nhất của một con người duy nhất, mà là tầm vóc hào sảng của biết bao con người thời đại, là không khí sôi sục của đất trời Đông A.
Chưa một thời đại nào trong lịch sử dân tộc, tầm vóc của con người lại trở nên lớn lao đến vậy, với khí thế hùng tráng: “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”. Cách nói ẩn dụ ước lệ quen thuộc trong thi pháp thơ ca trung đại với phép phóng đại “tam quân tì hổ” cho người đọc ấn tượng mạnh mẽ về đội quân “sát thát” của nhà Trần, với khí thế dũng mãnh, kiên cường. Cụm từ “khí thôn ngưu” có thể hiểu là khí thế của đội quân ra trận với sức mạnh phi thường đến mức có thể “nuốt trôi trâu”, cũng có thể hiểu khí thế ấy sôi sục tới độ át cả sao ngưu, sao mai. Trong cách nói cường điệu, ta thấy được tình cảm tự hào của nhà thơ khi đã nâng tầm vóc của quân dân nhà Trần có thể sánh ngang với thiên nhiên, vũ trụ bao la. Đó là niềm tự hào của một con người được sinh ra trong một đất nước, một thời đại hùng mạnh, đầy phấn chấn, tự tin, luôn khao khát vươn lên, giữ vững chủ quyền cho nước nhà. Từ hình ảnh người tráng sĩ hiên ngang tới tầm vóc lớn lao của ba quân thời đại, rõ ràng, vẻ đẹp người tráng sĩ ấy là kết tinh của vẻ đẹp dân tộc, và vẻ đẹp dân tộc càng tôn vinh thêm vẻ đẹp hùng sảng của những tráng sĩ thời Trần. Hai câu thơ đầu tiên vang lên, Phạm Ngũ Lão không chỉ cho ta chiêm ngưỡng vẻ đẹp của một vị anh hùng thời đại, mà là vẻ đẹp muôn thuở của một dân tộc anh hùng.
Từ tư thế hiên ngang dũng mãnh, nhà thơ giúp người đọc đi sâu hơn để khám phá tâm thế vững vàng với hùng tâm tráng chí bên trong những tráng sĩ:
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu
Với người quân tử trong xã hội phong kiến đương thời, chí làm trai là phẩm chất không thể thiếu. Ta từng nhớ đã đọc những câu thơ nhắc đến món nợ công danh của các đấng nam nhi:
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao
(Đoàn Thị Điểm)
Hay:
Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo
(Nguyễn Công Trứ)
Đối với những người tráng sĩ “bình Nguyên” thuở ấy, trong hoàn cảnh đất nước đang bị lăm le xâm chiếm bởi giặc ngoại bang, “nợ công danh” mà họ phải trả, đó là làm sao để bảo vệ trọn vẹn đất nước, để có thể đem lại yên ấm cho muôn dân. Nói khác đi, hùng tâm tráng chí trong lòng người tráng sĩ chính là niềm yêu nước thiết tha sâu nặng, là tiếng nói khát khao đánh giặc cứu lấy non sông. Điều đặc biệt là trong từng câu chữ của “Tỏ lòng”, tinh thần bất khuất ấy không được nêu lên một cách giáo điều, khô cứng, mà nó như được tỏa ra từ chính trái tim, thốt lên từ tâm can của một con người với khát vọng đang sôi cháy, rực lửa.
Để rồi, nợ công danh chưa trả hết, và người đời lại “luống thẹn” khi nghe chuyện Vũ Hầu xưa: “Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”. Câu thơ gợi lại một câu chuyện cổ về bậc anh tài Gia Cát Lượng từng giúp hình thành thế chân vạc Tam Quốc, giúp Thục – Ngô chống Tào… Người tướng sĩ thấy hổ thẹn bởi công lao của mình vẫn chưa đáng bao nhiêu so với Tôn Tử, song đó lại là cái thẹn cao cả, là cái thẹn lớn lao, đáng trân trọng của một bậc đại trượng phu. Ngũ Lão từng là một trong những vị tướng tài ba nhất của nhà Trần, làm tới chức Điện súy thượng tướng quân, vậy còn điều gì khiến người còng hổ thẹn? Rằng, đó không chỉ là nỗi thẹn, mà là niềm khao khát vươn tới những đỉnh cao, vươn tới những tầm vóc rộng lớn hơn nữa. Có những cái thẹn khiến người ta trở nên bé nhỏ, có những cái thẹn khiến cho người ta khinh, nhưng cũng có những cái thẹn cho người ta thấy được cả một tầm vóc lớn lao và ý chí mãnh liệt; cái thẹn của người tráng sĩ thời Trần là cái thẹn như thế.
“Thuật hoài” lấy tiêu đề dựa theo một mô-típ quen thuộc trong văn học trung đại, bên cạnh “Cảm hoài” của Đặng Dung, hay “Tự tình” của Hồ Xuân Hương,… những bài thơ bày tỏ nỗi lòng của người viết. Với “Tỏ lòng”, đây là lời tâm sự bày tỏ tâm tư, ý chí của Phạm Ngũ Lão, cũng là của những tráng sĩ thời Trần mà tâm can đều dành trọn cho dân tộc. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, chỉ với một số lượng ngôn từ ít ỏi, song lại đạt được tới sự hàm súc cao độ khi đã dựng lên được những bức chân dung con người và hào khí Đông A với vẻ đẹp hào sảng, khí thế, dũng mãnh.
Cùng với “Hịch tướng sĩ” – Trần Quốc Tuấn, “Bạch Đằng giang phú” – Trương Hán Siêu,… “Thuật hoài” mãi là khúc tráng ca hào hùng ngợi ca vẻ đẹp con người và thời đại, và sẽ tồn tại mãi cùng với dòng trôi chảy của thời gian…
7. Phân tích Tỏ lòng – Mẫu 3
Phạm Ngũ Lão là một người tài giỏi, có lòng yêu nước nồng nàn, bản lĩnh phi thường, ông là một tướng tài đồng thời cũng là người có tâm hồn văn chương. Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông là bài thơ Tỏ lòng. Văn bản thể hiện những tâm tư, nỗi niềm của vị tướng tài, đồng thời tái hiện chân thực hào khí Đông A sôi sục, hào hùng của thời đại.
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Hai câu thơ đầu đã vẽ nên hình ảnh người tráng sĩ đời Trần với tư thế hiên ngang, dũng mãnh “cầm ngang ngọn giáo”, cho thấy tư thế hiên ngang, chủ động khác với câu thơ dịch là “múa giáo” mang tính chất phô trương, biểu diễn, không thể hiện được tư thế anh hùng, hiên ngang của người tướng sĩ. Đồng thời không gian nhân vật trữ tình đứng cũng vô cùng bao la, rộng lớn: giang sơn. Tưởng rằng đứng trong không gian ấy con người sẽ trở nên bé nhỏ, chìm khuất trong không gian vũ trụ bao la, nhưng ngược lại, con người hiện lên trong tư thế làm chủ, mang tầm vóc lớn lao ôm trọn cả non sông đất nước. Tư thế ấy còn cho thấy tinh thần sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng xả thân để bảo vệ biên cương, lãnh thổ toàn vẹn. Không chỉ vậy, thời gian được nhắc đến ở đây đã trải mấy thu, đó là khoảng thời gian dài, điều ấy còn khẳng định ý chí, quyết tâm bền bỉ của nhân vật trữ tình. Câu thơ thứ nhất vừa cho ta thấy tầm vóc hiên ngang, vừa cho thấy lòng yêu nước nồng nàn của nhân vật trữ tình.
Câu thơ thứ hai tái hiện lại sức mạnh của quân đội nhà Trần. Tác giả sử dụng các hình ảnh “tam quân” “tì hổ” “khí thôn ngưu” để làm rõ vẻ đẹp sức mạnh đó. Tam quân để nói về quân đội nhà Trần bao gồm tiền quân, trung quân và hậu quân. Còn tì hổ để nói về sức mạnh to lớn như hổ báo của quân đội, biện pháp so sánh đã một lần nữa khẳng định sự dũng mạnh, nhanh nhẹn của quân đội nhà Trần. “Khí thôn ngưu” có thể hiểu theo hai cách, cách thứ nhất tức là khí thế nuốt trôi trâu, nhưng cũng có thể hiểu khí thế át sao Ngưu. Dù hiểu theo cách nào cũng đều thấy được khí thế, sức mạnh vô song của quân đội nhà Trần. Với hai câu thơ đầu, tác giả đã tái hiện sinh động, chân thực vẻ đẹp của con người thời đại nhà Trần với sức mạnh vô song. Qua đó ta còn cảm nhận được hào khí oanh liệt của thời đại mà dân tộc bừng bừng khí thế, quyết tâm đánh giặc cứu nước.
8. Phân tích Tỏ lòng – mẫu 4
Phạm Ngũ Lão là một trong những danh tướng nước ta thời nhà Trần. Ông không viết thơ nhiều nhưng tác phẩm của ông đều để lại những dấu ấn riêng. Bài thơ “Thuật hoài” hay còn gọi là “tỏ lòng” là một tác phẩm nổi tiếng của Phạm Ngũ Lão thể hiện tình yêu nước nồng nàn cùng niệm tự hào và khát vọng cống hiến khi tổ quốc bị xâm lăng.
“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”
Bài thơ tỏ lòng được sáng tác bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đường luật, tuy ngắn gọn với bốn câu thơ nhưng lại mang nhiều hàm ý sâu sắc. Mở đầu bài thơ, Phạm Ngũ Lão đã tái hiện hình ảnh quân đội nhà Trần mạnh mẽ, oai phong thời ấy trên con đường đánh đuổi giặc ngoại xâm:
“Hoàng sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”
(Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)
Hình ảnh người tráng sĩ thời Trần hiện lên trong câu thơ thật oai phong, lẫm liệt qua hình ảnh cây “giáo”. Tư thế của người tráng sĩ hiên ngang ấy được đặt trong không gian rộng lớn của “giang sơn” và thời gian dài “kháp kỉ thu”. Câu thơ thể hiện sức mạnh khỏe khoắn, tư thế hiên ngang sẵn sàng chiến đấu của người tráng sĩ xưa. Người tráng sĩ ấy đứng giữa non sông đất nước hùng vĩ, luôn vững vàng bảo vệ tổ quốc đã mấy thu rồi. Hình ảnh con người hiện lên thật đẹp đẽ, oai phong như vẽ lên một bức tượng đài bất tận về tráng sĩ oai hùng thời Trần.
Không chỉ hình ảnh một tráng sĩ hiện lên oai hùng, mà cả “tam quân” thời Trần được khắc họa thật mạnh mẽ phi thường. Hình ảnh ẩn dụ, phóng đại “hổ khí thôn ngưu” là một hình ảnh đẹp, mang tầm vóc lớn. “Hổ khí thôn ngưu” mang ý nghĩa như hổ báo “nuốt trôi trâu” có ý nghĩa lớn trong việc tái hiện khí thế hào hùng của đội quân nhà Trần. Hiện lên trong tâm trí người đọc là ba đội quân hùng hậu, đông đảo với sức mạnh to lớn đang ra quân ào ào và khát vọng chiến đấu hết mình cho giang sơn đất nước.
Khí thế hào hùng này là khí thế của một thời hào khí Đông A , gợi cho ta nhớ đến những câu oai hùng trong bài Hịch tướng sĩ thời Trần “Ta thường tới bữa quên ăn , nửa đêm vỗ gối , ruột đau như cắt , nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng”.
Với hào khí của một thời chiến đấu oai hùng, bảo vệ từng mảnh đất cho giang sơn đất nước, Phạm Ngũ Lão tiếp tục nói lên những suy nghĩ của bản thân về trí làm trai thời ấy:
“Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”
(Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu)
Phạm Ngũ Lão đã nhắc đến món nợ công danh “công danh trái”. Đối với những người nam nhi sống trong thời đại xưa, con đường công danh vô cùng quan trọng. “Nợ công danh” ở đây không phải là công danh tầm thường, ích kỷ cho riêng bản thân mình. Mà nó chính là món nợ lớn với đất nước, là ý trí và tài năng của một người nam tử hán đại trượng phu, đầu đội trời chân đạp đất, dám hi sinh vì nghĩa lớn, vì sự nghiệp chung của toàn dân tộc.
Qua câu thơ, Phạm Ngũ Lão đã thể hiện nỗi lòng, khát khao của bản thân muốn cống hiến nhiều hơn nữa cho giang sơn, đất nước để trả món nợ công danh của trí làm trai. Nhà thơ Nguyễn Công Trứ cũng từng có nhiều vần thơ hay khi nói về “phận sự làm trai”:
“Vũ trụ chức phận nội
Đấng trượng phu một túi kinh luân.
Thượng vị đức, hạ vị dân,
Sắp hai chữ “quân, thân” mà gánh vác”
Phạm Ngũ Lão đã là một danh tướng, có công lớn với đất nước với thời nhà Trần. Vậy mà ông vẫn luôn cảm thấy hổ thẹn khi nghe “thuyết Vũ Hầu”. Ông đã khéo léo khi nhắc đến một người dưng trí đa mưu là Gia Cát Lượng trong thời Tam Quốc để thể hiện nỗi thẹn của mình.
Ông thẹn bởi chưa đủ tài cao, mưu trí như Gia Cát Lượng. Nhưng cái “thẹn” ấy lại càng làm toát lên nhân cách cao đẹp trong con người Phạm Ngũ Lão. Câu thơ thể hiện một khát khao cháy bỏng của bị tướng có tài, muốn cống hiến hết mình trong sự nghiệp chung của đất nước. Đó là trí khí anh hùng của một vị tướng vừa có tâm, vừa có tầm đáng kính trọng.
Chỉ với bốn câu thơ ngắn gọn, lời thơ đanh thép, hào hùng, hình ảnh thơ độc đáo, nhịp thơ khi nhanh mạnh dứt khoát, lúc lại chậm rãi như những dòng suy tư. Bài thơ đã gợi lên một thời hào hùng của cả dân tộc thời đại nhà Trần cùng ý chí sục sôi chiến đấu của người tráng sĩ và mong muốn cống hiến hết mình cho đất nước của danh tướng Phạm Ngũ Lão.
Bài thơ cùng thời đại này có cách xa chúng ta hàng bao nhiêu thế kỷ nhưng vẫn để lại những âm vang lớn trong trái tim triệu triệu người đọc.
9. Phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão
Phạm Ngũ Lão (1255-1320), là một vị tướng tài dưới triều Trần, từng đóng góp rất nhiều công lao trong cả hai cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên xâm lược. Khi còn tại thế ông đã từng giữ đến chức Điện súy, phong tước quan nội hầu, đương thời ông chỉ xếp sau cha vợ mình là Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn – vị tướng vĩ đại nhất lịch sử phong kiến nước ta về danh tiếng. Tuy là con nhà võ, hàng năm quen chuyện binh đao thế nhưng Phạm Ngũ Lão cũng lại là người rất yêu thích thơ ca và được người đời khen tặng là văn võ toàn tài.
Ông từng sáng tác rất nhiều bài thơ hay, thế nhưng theo dòng lịch sử đa số bị thất lạc, đến nay chỉ còn lại hai bài Tỏ lòng và Viếng thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương. Về thi ca, trong văn học trung đại luôn nằm trong một quy phạm chung, làm thơ thì phải bao hàm chữ “chí”, trong “Văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí”. Nghĩa rằng thơ văn thì phải truyền tải một nội dung giáo dục nào đó to lớn, và Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão là một trong số những bài thơ tiêu biểu nhất thể hiện cái tính quy phạm đặc trưng này của nền văn học trung đại – lời là lời giáo huấn về chí nam nhi đầy hào khí của thời Trần.
Cho đến tận ngày hôm nay vẫn chưa có một cứ liệu chính xác nào về hoàn cảnh ra đời của Tỏ lòng (Thuật hoài), nhưng theo một số suy đoán thì bài thơ được sáng tác vào năm 1284, trước khi diễn ra diễn ra cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên lần thứ hai. Lúc này Phạm Ngũ Lão được cử đi trấn giữ biên giới cùng một số tướng lĩnh khác để chuẩn bị cho chiến sự. Ở hai câu thơ đầu Phạm Ngũ Lão đã tái hiện một cách xúc tích và ấn tượng về vẻ đẹp của con người và quân đội thời Trần.
“Hoành sóc giang sơn kháp kỷ thu,
Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu.”
Để khắc họa hình ảnh con người thời Trần, tác giả đã khéo léo dựng lên một bối cảnh không gian và thời gian rất đặc biệt, là một cái phông nền độc đáo để từ đó làm nổi bật lên vẻ đẹp của những con người sống dưới triều Trần, một triều đại nhiều bão táp mưa sa nhất lịch sử phong kiến. Về bối cảnh không gian, Phạm Ngũ Lão chọn hai chữ “giang sơn” vốn là từ ghép hợp nghĩa, ở đây tức là chỉ sông núi, từ đó mở ra trước mắt người đọc một không gian vô cùng bao la, rộng lớn và khoáng đạt, đó là không gian của cả một quốc gia, dân tộc.
Bên cạnh không gian, thì bối cảnh thời gian được gợi mở bằng ba từ “kháp kỷ thu”, ý chỉ đã qua hết mấy thu rồi, trước cái cách đo đếm thời gian ấy đã gợi cho người đọc về một khoảng thời gian dài lâu, có bề dày lịch sử bền vững. Trên cái nền không gian, thời gian dài rộng ấy lại nổi bật lên hình ảnh con người trong tư thế “hoành sóc”, cầm ngang ngọn giáo để trấn giữ non sông đã qua mấy thu.
Tầm vóc của con người nổi bật thông qua hình ảnh ngọn giáo dường như được đo bằng cả chiều rộng của giang sơn, chiều dài của thời gian, vô cùng hiên ngang và hùng tráng. Mang vẻ kỳ vĩ, lớn lao, sánh ngang với tầm vóc vũ trụ, đặc biệt tư thế cầm ngang ngọn giáo gợi ra cho người đọc về phẩm chất kiên cường, bền bỉ, anh dũng luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, trong nhiệm vụ trấn giữ non sông, bảo vệ đất nước như những vị thần.
Điều này gợi nhắc ta về câu chuyện lịch sử, quân Mông – Nguyên mượn cớ mượn đường nước ta để sang đánh Chiêm Thành, nhưng thực tế âm mưu của chúng là hòng thôn tính Đại Việt. Trước sự nghi ngại, quân đội nhà Trần quyết lật đổ âm mưu của giặc, trong sự chuẩn bị bao gồm việc cử Phạm Ngũ Lão và một số tướng lĩnh tài giỏi ra trấn giữ tại biên giới để đề phòng giặc tấn công bất ngờ.
Trước hoàn cảnh ấy, có lẽ ứng với hình ảnh vị tướng cầm ngang ngọn giáo, kiêu hùng canh giữ từng tấc đất của Tổ quốc là hoàn toàn hợp lý và xuất phát từ những sự kiện có thật để tạo nên cảm hứng đầy hào khí hiên ngang, mạnh mẽ trong Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão. Tản mạn một chút về câu thơ dịch “Múa giáo non sông trải mấy thu” của Bùi Văn Nguyên, thì có lẽ rằng ý thơ chưa thực sự đạt, bởi với hai từ “múa giáo” thực tế chỉ cốt thiên về cái “mỹ”, đẹp và có chất thơ, nhưng lại thiếu đi cái chí “hùng” mà tác giả muốn biểu đạt.
Còn trong bản gốc hai từ “hoành sóc” mới thực sự diễn tả đúng cái khí thế hùng tráng, hiên ngang của một vị tướng, thậm chí là biểu đạt vẻ kiên cường, hào khí cho cả một thế hệ những con người dưới thời Trần, trước hai cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên xâm lược.
Đó là hình ảnh con người thời Trần, ở câu thừa đề, tác giả đã sử dụng từ “tam quân” tức là ba quân, là đặc trưng của các tổ chức quân đội thời xưa, của các nước phương Đông bao gồm tiền quân, trung quân và hậu quân. Mà ẩn chứa sau đó là tác giả muốn nói về sức mạnh về cái sự đồng lòng của toàn quân, toàn dân tộc trong công cuộc kháng chiến. Đặc biệt để diễn tả được sức mạnh và hào khí của quân đội trong thời đại này tác giả đã sử dụng phép so sánh “Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu”.
Phép so sánh này đã gợi ra cho người đọc hai cách hiểu chính, thứ nhất có thể diễn giải đơn giản theo ý trên mặt chữ rằng ba quân mạnh như hổ, như báo có thể nuốt trôi cả một con trâu lớn. Một cách hiểu thứ hai có phần văn vẻ và suy diễn nhiều hơn ấy là sức mạnh của ba quân như hổ báo, thậm chí át cả sao Ngưu đang ngự trên trời. Cách hiểu thứ hai vừa mang giá trị hiện thực vừa mang một chút cảm hứng lãng mạn hiếm có trong thi ca trung đại, gợi tạo cảm hứng sử thi anh hùng ca mạnh mẽ. Tổng kết lại sức mạnh của quân đội thời Trần được tóm gọn bằng cụm từ “hào khí Đông A”, gọi là Đông A bởi vốn hai chữ này là hai bộ thủ trong chữ Hán ghép lại thành chữ Trần.
Sau hai câu khai đề và thừa đề diễn đạt hào khí chung của dân tộc, thì đến hai câu chuyển và câu hợp là để giải thích và làm rõ ý của câu đề và của cả bài thơ. Chuyển là chuyển từ khách thể sang chủ thể là tác giả, để bày tỏ nỗi lòng, tâm tư, nguyện vọng của bản thân về chí làm trai, về món nợ công danh phải trả cho đất nước. Đồng thời câu hợp để kết lại, thể hiện sáng rõ vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách lớn lao của Phạm Ngũ Lão. “Nam nhi vị liễu công danh trái” ý chỉ lý tưởng, chí lớn lập công danh, thể hiện qua quan niệm, nhận thức của tác giả về món nợ công danh của kẻ làm trai.
Ở đây món nợ công danh xuất phát từ quan niệm “nhập thế tích cực” của Nho giáo, khác với quan niệm “xuất thế” của Phật giáo, chủ trương lánh đời, ở ẩn, quên đi chuyện thế sự, nhiễu nhương, để tâm hồn thanh tịnh,…. Thì đối với Nho giáo, con người đặc biệt là người nam nhi phải mạnh mẽ đứng giữa cuộc đời sóng gió, dùng hết tài trí sức lực của mình để cống hiến cho đời, giúp dân giúp nước.
Trong đó việc ứng thí khoa cử, tham gia vào chốn quan trường chính là một trong những biểu hiện rõ rõ nét và phổ biến nhất của quan niệm “nhập thế tích cực”, và Phạm Ngũ Lão chính là một trong số những con người chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi quan niệm này. Quan niệm ấy đã tạo dựng nên mục đích sống, lý tưởng sống chung của các đấng nam nhi dưới thời đại này là phải lập được công danh, có sự nghiệp, tiếng thơm lưu truyền đến muôn đời. Trở thành một trong những điều tối cần của chí làm trai, mà trong văn học Việt Nam đã từng có rất nhiều nhà thơ đề cập đến ví như Nguyễn Công Trứ với “Chí làm trai nam bắc đông tây/Cho thỏa sức vẫy vùng trong bốn bể”.
Đặt trong hoàn cảnh đất nước đương thời, quân xâm lược đang ngấp nghé bờ cõi, thì cũng là lúc để cho những kẻ làm trai có cơ hội trả món nợ công danh, ra sức giúp nước, giúp dân lập chí lớn. Người nam nhi phải từ bỏ những lối sống tầm thường, ích kỷ, vui vầy vợ con, ruộng vườn để xông pha trận mạc sẵn sàng hy sinh cho sự nghiệp cứu nước, cứu dân. Có thể nói rằng món nợ công danh trong trong nhận thức của Phạm Ngũ Lão vừa mang tư tưởng tích cực của thời đại vừa mang tinh thần dân tộc sâu sắc. Chính vì thế nó luôn canh cánh, trăn trở trong cõi lòng của tác giả.
Bên cạnh chí lớn làm trai cùng với quan niệm món nợ công danh trước thời cuộc, thì câu thơ cuối chính là câu thơ tỏ rõ vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao thượng của Phạm Ngũ Lão. Nhân cách cao của tác giả thể hiện qua nỗi thẹn của ông khi nghe chuyện Vũ Hầu. Vũ Hầu ở đây chính là chỉ Gia Cát Lượng, một vị quân sư lỗi lạc, một nhân vật lịch sử vĩ đại, là người cộng sự trung thành, đóng góp những công lao to lớn trong công cuộc mở mang bờ cõi của Lưu Bị – vua nước Thục trong bối cảnh tam quốc phân tranh cực gay gắt làm thành thế chân kiềng.
Đứng trước con người mang tầm vóc như vậy Phạm Ngũ Lão dù rằng đã lập được rất nhiều công danh nhưng vẫn cảm thấy bản thân mình quá nhỏ bé, tựa như hạt cát giữa sa mạc mênh mông, đồng nghĩa với việc ông ý thức được rằng món nợ công danh đã trả chẳng thấm tháp vào đâu, mà vẫn còn phải cố gắng trả nhiều hơn nữa thì mới xứng với phận nam nhi, xứng với Tổ quốc.
Từ những biểu hiện trên ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn của Phạm Ngũ Lão trước hết là ở ý chí nỗ lực muốn theo gương người xưa lập công danh cho xứng tầm, thứ hai ấy là lý tưởng, chí lớn mong muốn lập được công danh sánh ngang với nhân vật lịch sử lỗi lạc. Có thể nói rằng nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão là nỗi thẹn của một nhà nho có nhân cách lớn, cũng là nỗi thẹn của một người dân yêu nước khi mà cái họa xâm lăng vẫn đang treo lơ lửng trước mắt.
Thuật hoài đã khắc họa vẻ đẹp của người anh hùng vệ quốc hiên ngang, đồng thời cũng cho thấy sự lẫm liệt, lý tưởng và nhân cách lớn lao của con người thời Trần, từ đó khái quát hóa, ca ngợi hào khí của những con người đương thời – vẻ đẹp của hào khí Đông A. Về nghệ thuật, bài thơ có tính hàm súc, cô đọng “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”, đồng thời bài thơ còn mang tính sử thi với những hình tượng thơ kì vĩ lớn lao đã nâng tầm vóc người anh hùng sánh ngang với tầm vóc của vũ trụ rộng lớn.
10. Cảm nhận bài thơ Tỏ Lòng
Triều đại nhà Trần (1126-1400) là một mốc son chói lọi trong 4000 năm dựng nước và giữ nước của lịch sử dân tộc ta. Ba lần kháng chiến và đánh thắng quân xâm lược Nguyên – Mông, nhà Trần đã ghi vào lịch sử vàng Đại Việt những chiến công Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng… bất tử.
Khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta và tướng sĩ đời Trần được các sử gia ca ngợi là “Hào khí Đông A”. Thơ văn đời Trần là tiếng nói của những anh hùng – thi sĩ dào dạt cảm hứng yêu nước mãnh liệt. “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Toản, “Thuật hoài” (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lão, “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu,… là những kiệt tác chứa chan tình yêu nước và niềm tự hào dân tộc.
Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là một danh tướng đời Trần, trăm trận trăm thắng, văn võ toàn tài. Tác phẩm của ông chỉ còn lại hai bài thơ chữ Hán: “Thuật hoài” và “Vãn Thượng tướng Quốc công Hưng Đạo Đại vương”.
Bài thơ “Tỏ lòng” thể hiện niềm tự hào về chí nam nhi và khát vọng chiến công của người anh hùng khi Tổ quốc bị xâm lăng. Nó là bức chân dung tự họa của danh tướng Phạm Ngũ Lão.
Hoành sóc giang san kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.
Cầm ngang ngọn giáo (hoành sóc) là một tư thế chiến đấu vô cùng hiên ngang dũng mãnh. Câu thơ “Hoành sóc giang san kháp kỉ thu” là một câu thơ có hình tượng kỳ vỹ, tráng lệ, vừa mang tầm vóc không gian (giang san) vừa mang kích thước thời gian chiều dài lịch sử (kháp kỉ thu). Nó thể hiện tư thế người chiến sĩ thuở “bình Nguyên” ra trận hiên ngang, hào hùng như các dũng sĩ trong huyền thoại. Chủ nghĩa yêu nước được biểu hiện qua một vần thơ cổ kính trang nghiêm: cầm ngang ngọn giáo, xông pha trận mạc suốt mấy mùa thu để bảo vệ giang sơn yêu quý.
Đội quân “Sát Thát” ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp (ba quân) với sức mạnh phi thường, mạnh như hổ báo “tỳ hổ” quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Khí thế của đội quân ấy ào ào ra trận. Không một thế lực nào, kẻ thù nào có thể ngăn cản nổi. “Khí thôn Ngưu” nghĩa là khí thế, tráng chí nuốt sao Ngưu, làm át, làm lu mờ sao Ngưu trên bầu trời. Hoặc có thể hiểu: ba quân thế mạnh nuốt trôi trâu. Biện pháp tu từ thậm xưng sáng tạo nên một hình tượng thơ mang tầm vóc hoành tráng, vũ trụ: “Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu”. Hình ảnh ẩn dụ so sánh: “Tam quân tì hổ…” trong thơ Phạm Ngũ Lão rất độc đáo, không chỉ có sức biểu hiện sâu sắc sức mạnh vô địch của đội quân “sát thát” đánh đâu thắng đấy mà nó còn khơi nguồn cảm hứng thơ ca; tồn tại như một điển tích, một thi liệu sáng giá trong nền văn học dân tộc:
“Thuyền bè muôn đội
Tinh kỳ phấp phới
Tỳ hổ ba quân, giáo gươm sáng chói…”
(Bạch Đằng giang phú)
Người chiến sĩ “bình Nguyên” mang theo một ước mơ cháy bỏng: khao khát lập chiến công để đền ơn vua, báo nợ nước. Thời đại anh hùng mới có khát vọng anh hùng! “Phá cường địch, báo hoàng ân” (Trần Quốc Toản) – “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo” (Trần Thủ Độ). “…Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng” (Trần Quốc Tuấn)… Khát vọng ấy là biểu hiện rực rỡ những tấm lòng trung quân ái quốc của tướng sĩ, khi tầng lớp quý tộc đời Trần trong xu thế đi lên gánh vác sứ mệnh lịch sử trọng đại. Họ mơ ước và tự hào về những chiến tích hiển hách, về những võ công oanh liệt của mình có thể sánh ngang tầm sự nghiệp anh hùng của Vũ Hầu Gia Cát Lượng thời Tam Quốc. Hai câu cuối sử dụng một điển tích (Vũ Hầu) để nói về nợ công danh của nam nhi thời loạn lạc, giặc giã:
“Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”.
“Công danh” mà Phạm Ngũ Lão nói đến trong bài thơ là thứ công danh được làm nên bằng máu và tài thao lược, được tinh thần quả cảm và chiến công. Đó không phải là thứ “công danh” tầm thường, đậm màu sắc anh hùng cá nhân. Nợ công danh như một gánh nặng mà kẻ làm trai nguyện trả, nguyện đền bằng xương máu và lòng dũng cảm. Không chỉ “Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”, mà tướng sĩ còn học tập binh thư, rèn luyện cung tên chiến mã, sẵn sàng chiến đấu “Khiến cho người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa Khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai,…” để Tổ quốc Đại Việt được trường tồn bền vững: “Non sông nghìn thuở vững âu vàng” (Trần Nhân Tông).
“Thuật hoài” được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Giọng thơ hùng tráng, mạnh mẽ. Ngôn ngữ thơ hàm súc, hình tượng kì vỹ, tráng lệ, giọng thơ hào hùng, trang nghiêm, mang phong vị anh hùng ca. Nó mãi là khúc tráng ca của các anh hùng tướng sĩ đời Trần, sáng ngời “hào khí Đông A”.
Bài văn mẫu cảm nhận về bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão
Trong kho tàng văn học trung đại Việt Nam, ngoài nội dung lớn là nhân đạo còn có một nội dung luôn đồng hành suốt các chặng đường của văn học dân tộc chính là nội dung yêu nước. Lòng yêu nước được thể hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau: ý chí đánh giặc xâm lược, tình yêu thiên nhiên,… Góp một phần vào chủ đề này là bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão. Bài thơ đã cho thấy vẻ đẹp hào hùng của con người, quân đội nhà Trần và thể hiện vẻ đẹp tâm hồn, lòng yêu nước của tác giả.
Trước hết, bài thơ làm người đọc biết bao xúc động, tự hào về vẻ đẹp hào hùng của con người và quân đội nhà Trần. Con người Open trong tư thế thật kì vĩ lớn lao. Để chuẩn bị sẵn sàng cho sự Open của con người tác giả đã dựng lên toàn cảnh không gian hùng vĩ, to lớn. Không gian : giang sơn, đó là khoảng trống bát ngát, lớn rộng, khoảng trống của vương quốc, dân tộc bản địa. Thời gian : kháp kỉ thu ( đã mấy thu ) cho thấy khoảng chừng thời hạn lâu dài hơn, bền bững. Trên bức phông nền đó hình ảnh con người hiện lên thật điển hình nổi bật với tư thế hoành sóc ( cầm ngang ngọn giáo ). Hình như ở đây chiều dài ngọn giáo sánh ngang với tầm vóc tổ quốc, quốc gia. Con người không nhỏ bé trước khoảng trống vạn vật thiên nhiên to lớn mà tầm vóc con người sánh ngang với ngoài hành tinh. Con người hiên ngang, kiên cường, bền chắc trong trách nhiệm bảo vệ quốc gia, trấn giữ biên cương .Bên cạnh vẻ đẹp của nhân vật trữ tình, ở câu thơ thứ hai tác giả khẳng định chắc chắn vẻ đẹp anh hùng, dũng mãnh của quân đội nhà Trần .Tam quân tì hổ khí thôn ngưuTam quân để nói về phương pháp tổ chức triển khai quân đội thời xưa : toàn quân ( tiền quân, trung quân, hậu quân ). Đồng thời bộc lộ sức mạnh, sự đồng lòng của cả dân tộc bản địa, cả thời đại trước quân địch. Tác giả sử dụng hình ảnh so sánh rực rỡ, mang đến hai cách hiểu : hoàn toàn có thể hiểu ba quân mạnh như hổ báo, nuốt trôi trâu ; nhưng cũng hoàn toàn có thể hiểu ba quân mạnh như hổ báo, khí thế át cả sao Ngưu trên trời. Câu thơ vừa có chất hiện thực vừa có chất lãng mạn và dù hiểu theo cách nào, cũng hoàn toàn có thể thấy được sức mạnh vô địch, lớn lao của hào khí Đông A đời Trần .Không chỉ dừng lại ở hào khí hào hùng của dân tộc bản địa, bài thơ còn bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách và lí tưởng của tác giả. Nhân vật trữ tình biểu lộ chí lớn lập sự nghiệp biểu lộ qua nợ công danh sự nghiệp : Nam nhi vị liễu sự nghiệp trái. Quan niệm nợ sự nghiệp xuất phát từ ý niệm nhập thế tích cực của Nho giáo : phải ở giữa cuộc sống này, dốc hết tâm sức để giúp dân, giúp đời. Xuất phát từ ý thức thời đại, hình thành lí tưởng sống của những trang đàn ông trong xã hội đương thời : phải lập sự nghiệp ( công : sự nghiệp lớn lao, danh : để tiếng thơm của mình lưu truyền muôn đời ). Quan niệm này được nhắc đến nhiều lần trong thơ ca lâu nay :“ Làm trai cho đáng nên traiXuống đông đông tĩnh lên đoài đoài yên ”“ Làm trai cho đáng nên traiPhú Xuân đã trải Đồng Nai đã từng ”Không chỉ có trong văn học dân gian, mà văn học trung đại cũng nói đến chí làm trai :“ Chí làm trai Nam Bắc Tây ĐôngCho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể ”“ Đã mang tiếng ở trong trời đấtPhải có danh gì với núi sông ”Nợ sự nghiệp đặt trong thực trạng đương thời, khi Phạm Ngũ Lão viết bài thơ này : Đất nước đương đầu với giặc ngoại xâm hùng mạnh, đây là lúc những kẻ làm trai biểu lộ chí lớn, để trả món nợ sự nghiệp. Món nợ công danh sự nghiệp càng bị hối thúc hơn khi nào hết. Nhân vật trữ tình tự nhắc nhở mình trả món nợ sự nghiệp, từ bỏ lối sống ích kỉ, xông pha trận mạc để cứu nước, cứu dân. Món nợ sự nghiệp trong nhận thức của Phạm Ngũ Lão vừa mang tư tưởng tích cực của thời đại, vừa mang ý thức dân tộc bản địa. Chính do đó nó luôn luôn canh cánh trong lòng Phạm Ngũ Lão .Ông còn là người có nhân cách vô cùng lớn lao, điều đó được biểu lộ qua nỗi thẹn với Vũ Hầu : Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu. Vũ Hầu tức là Gia Cát Lượng – vị quân sư nổi tiếng, nhân vật lịch sử vẻ vang lỗi lạc, một bề tôi trung thành với chủ giúp Lưu Bị tạo ra sự những chiến công oanh liệt để kiến thiết xây dựng và giữ vững nước Thục. Khi nhắc đến Vũ Hầu đã biểu lộ vẻ đẹp tâm hồn của Phạm Ngũ Lão. Đó là một con người có ý chí, nỗ lực muốn theo gương người xưa để lập công danh sự nghiệp cho xứng tầm. Chí lớn đó còn mong ước mình có những chiến công sánh ngang những nhân vật lịch sử dân tộc lỗi lạc. Qua đó còn cho thấy nhân cách lớn của một con người yêu nước, thương dân, luôn mang trong mình nỗi cánh cánh cứu nước, giúp đời .
Bài thơ vô cùng hàm súc, cô đọng đã khắc họa một cách chân thực và đầy đủ nhất về hình tượng người anh hùng vệ quốc hiên ngang, lẫm liệt với lí tưởng và nhân cách lỗi lạc. Qua đó, tác phẩm còn ca ngợi vẻ đẹp thời đại với sức mạnh và khí thế hào hùng của dân tộc.
Xem thêm: Đồ án Máy ép thủy lực.
Xem thêm : Phân tích bài thơ Tỏ lòng – Phạm Ngũ Lão—————————-
Trên đây là nội dung dàn ý cảm nhận về bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão bao gồm mẫu dàn ý chi tiết và bài văn tham khảo chọn lọc hay nhất. Hy vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích phục vụ việc học tập của các em. Ngoài ra, các em hãy truy cập doctailieu.com để tham khảo những bài văn mẫu 10 phong phú khác mà chúng tôi đã sưu tầm và tổng hợp nhé. Chúc các em luôn học tốt và đạt kết quả cao!
Source: https://camnangbep.com
Category: Học tập
Thư Viện Hỏi Đáp cũng giúp giải đáp những vấn đề sau đây:
- Chuyên đề tỏ lòng
- Giáo án tỏ lòng
- Nhân vật To lòng trong bài thơ là ai
- Bài tập tỏ lòng
- Các biện pháp tu từ trong bài tỏ lòng
- Điển tích điển cố trong bài to lòng
- Cảm nhận to lòng
- Phong cách ngôn ngữ bài to lòng
Xem thêm
Dàn ý cảm nhận về bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão và Top 8 mẫu phân tích bài thơ Tỏ lòng hay nhất
Dàn ý cảm nhận về bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão kèm theo bài văn mẫu tinh lọc sẽ là tài liệu có ích để những em học và chuẩn bị sẵn sàng cho tiết học trên lớp .
Mời các em tham khảo dàn ý cảm nhận về bài thơ Tỏ lòng (Phạm Ngũ Lão) của Đọc tài liệu dưới đây để nắm được các ý chính cần triển khai cho bài văn cảm nhận về bài thơ Tỏ lòng và củng cố thêm kiến thức về tác phẩm.
Thư Viện Hỏi Đáp cũng giúp giải đáp những vấn đề sau đây:
Chuyên đề tỏ lòng
Giáo án tỏ lòng
Nhân vật To lòng trong bài thơ là ai
Bài tập tỏ lòng
Các biện pháp tu từ trong bài tỏ lòng
Điển tích điển cố trong bài to lòng
Cảm nhận to lòng
Phong cách ngôn ngữ bài to lòng
Bạn đang đọc: Dàn ý cảm nhận về bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão
Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão.
Tham khảo hướng dẫn soạn bài Tỏ lòng (soạn chi tiết và soạn ngắn nhất)
Dàn ý cảm nhận về bài thơ Tỏ lòng (Phạm Ngũ Lão)
I. Mở bài
– Giới thiệu tác giả và bài thơ : Phạm Ngũ Lão là người văn võ toàn tài, có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên. Ông để lại cho đời hai bài thơ trong đó nổi tiếng hơn cả là bài Tỏ lòng .- Khái quát những tâm lý, cảm nhận về tác phẩm này : Bài thơ với âm điệu tự hào về hào khí Đông A và sự tự ý thức về chí làm trai đời Trần làm dấy lên lòng yêu nước và tự hào về dân tộc bản địa .
II. Thân bài
1. Hoàn cảnh sáng tác
– Bài thơ sinh ra trong không khí quân và dân nhà Trần đang hừng hực, sục sôi khí thế chiến đấu và chiến thắng quân Mông – Nguyên xâm lược lần thứ hai. Bài thơ mang âm hưởng tự hào, ngợi ca, cổ vũ, khuyến khích .
2. Vẻ đẹp hào hùng của con người thời Trần
a. Vẻ đẹp người anh hùng vệ quốc- Tư thế : “ hoành sóc ” – cầm ngang ngọn giáo+ Ngọn giáo : Là vũ khí chiến đấu của quân đội thời trước+ Tay cầm ngang ngọn giáo : bộc lộ sự dữ thế chủ động, tự tin+ Bản dịch thơ là “ múa giáo ” : cách dịch mang tính hình ảnh, hoa mĩ, tương thích với vần nhịp nhưng chỉ bộc lộ được hành vi phô trương, màn biểu diễn bên ngoài, không nói lên được được sức mạnh nội lực bên trong. Cách dịch không thoát ý .→ Tư thế dữ thế chủ động, tự tin, vững trãi đầy kiên cường, hiên ngang, hào hùng, chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu và thắng lợi- Tầm vóc+ Không gian : “ Giang sơn ” – sông nước, tổ quốc, tổ quốc-> Không gian thiên hà to lớn, kì vĩ, rợn ngợp. Nam nhi thuở trước thường nói chí tỏ lòng qua khoảng trống ngoài hành tinh to lớn .+ Thời gian : “ kháp kỉ thu ” : Con số ước lệ tượng trưng cho thời hạn dài, vô tận→ Khẳng định tầm vóc lớn lao, kì vĩ, sánh ngang tầm thiên hà, ép chế cả khoảng trống và thời hạn của người anh hùng nhà Trần. Họ như những dũng tướng uy phong, lẫm liệt .b. Vẻ đẹp sức mạnh của quân đội nhà Trần .- Tiềm lực quân đội : “ Tam quân ” – ba quân tiền quân, trung quân, hậu quân : Ý chỉ quân đội nhà Trần, tiềm lực quân sự chiến lược của cả dân tộc bản địa .→ Tiềm lực quân đội can đảm và mạnh mẽ, vững vàng- Khí thế đội quân : Hình ảnh so sánh tăng tiến với hai Lever
+ Cấp độ một: “Tam quân” được so sánh với “tì hổ”: Cụ thể hóa sức mạnh của đội quân. Hổ báo là loài mãnh thú, chúa rừng là nỗi khiếp đảm của loài vật khác thì tiềm lực sức mạnh dũng mãnh của quân đội nhà Trần là nỗi khiếp đảm của quân thù
+ Cấp độ hai: Tác giả làm rõ sức mạnh ấy bằng hình ảnh “khí thôn ngưu” có hai cách hiểu, cả hai cách đều đúng:
( 1 ) Khí thế ba quân hùng mạnh nuốt trôi trâu( 2 ) Khí thế hào hùng ngút trời làm mờ sao Ngưu→ Khí thế dũng mãnh, hào hùng ngút trời, ý thức “ sát thát ” của quân đội nhà Trần được cụ thể hóa bằng những hình ảnh ước lệ .⇒ Hai câu thơ đầu mang âm hưởng của niềm tự hào can đảm và mạnh mẽ, đó là bộc lộ của lòng yêu nước .⇒ Qua hai câu thơ khiến ta thêm yêu và hiểu hơn về sức mạnh và ý thức chiến đấu, ý chí chiến bại và phẩm chất anh hùng của quân đội nhà Trần. Từ đó có những tâm lý và hành vi đúng đắn xứng danh với cha ông .
3. Vẻ đẹp chí làm trai qua tâm tình tác giả
Xem thêm: Công Thức Và Cách Tính Lãi Suất Vay Ngân Hàng Theo Tháng Từ A
a. Món nợ sự nghiệp- Chí đàn ông : Làm trai phải có ý chí đàn ông, xông pha, gánh vác .- Nợ công danh sự nghiệp : Theo ý niệm Nho gia, đây là món nợ mà một kẻ làm trai sinh ra đã phải có nghĩa vụ và trách nhiệm trả. Nó gồm có hai phương diện lập công và lập danh. Khi triển khai xong hai trách nhiệm này mới được xem là trả xong món nợ .→ Trân trọng sự ý thức, nghĩa vụ và trách nhiệm về việc hoàn trả món nợ sự nghiệp của tác giả .b. Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão .- “ Thẹn ” là trạng thái xấu hổ, ngại ngùng khi thấy chưa bằng người khác- “ Thuyết Vũ Hầu ” : Điển tích Trung Quốc nói về một con người kĩ năng, mưu chước, hết lòng báo đáp công ơn của chủ tướng, lập được công danh sự nghiệp sự nghiệp lớn .- Phạm Ngũ Lão cũng là một trang đàn ông hết lòng vì nước, cả công lao và nổi tiếng đều vang xa. Vậy mà ông vẫn thẹn vì chưa báo đáp được hết ơn chiêu mộ của Trần Quốc Tuấn, chưa tận tâm tận lực trả hết món nợ công danh sự nghiệp .→ Đây là nỗi thẹn của một nhân cách lớn. Thẹn không làm hạ thấp nhân cách mà trái lại làm cho nhân cách hùng vĩ hơn→ Thể hiện ý thức muốn góp sức nhiều hơn nữa cho dân tộc bản địa. Đồng thời thức tỉnh ý thức làm người và chí làm trai cho đàn ông đời Trần .⇒ Trân trọng ngợi ca nhân cách cao đẹp của người anh hùng Phạm Ngũ Lão⇒ Rút ra bài học kinh nghiệm : Sống phải có tham vọng, tham vọng. Phải quyết tâm và nỗ lực rất là để thực thi tham vọng ấy dù phải trải qua những khó khăn vất vả, thử thách .
III. Kết bài
– Khái quát nội dung và nghệ thuật và thẩm mỹ của bài thơ .- Trình bày những cảm nhận chung về bài thơ : Cảm thức chủ yếu là lòng tự hào và niềm kính yêu với cha ông. Nhận thức và hành vi của bản thân trong hiện tại và tương lai .
Tham khảo: Dàn ý phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão
2. Sơ đồ tư duy Phân tích bài Tỏ lòng
3. Phân tích bài Tỏ lòng
Phạm Ngũ Lão là một người tài giỏi, có lòng yêu nước nồng nàn, bản lĩnh phi thường. Ông không chỉ biết đến là một danh tướng thời Trần mà còn là một nhà thơ với nhiều bài thơ về chí trai, lòng yêu nước. Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông là bài thơ Tỏ lòng. Văn bản thể hiện những tâm tư, nỗi niềm của vị tướng tài, đồng thời tái hiện chân thực hào khí Đông A sôi sục, hào hùng của thời đại.
Bằng lối viết trực tiếp, mở đầu hai câu thơ tác giả đã dựng những nét vẽ đầu tiên về chân dung người tráng sĩ Đông A:
Hoàng sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
(Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)
Hình ảnh của con người nhà Trần hiện lên với vẻ đẹp hiên ngang, khí chất được miêu tả qua hai chữ đầu tiên “hoành sóc” với tư thế đầy oai hùng, kiên cường như khắc họa đậm nét những con người anh dũng lẫm liệt với ngọn giáo trong tay đi khắp giang sơn để bảo vệ quê hương, đất nước. Nó sừng sững như một bức tượng đài đầy hiên ngang giữa không gian rộng lớn của “ giang sơn” và dòng thời gian trôi chảy “ kháp kỉ thu”, người ấy mang vẻ đẹp của những đấng anh hùng từng trải, đã được tôi luyện mỗi ngày. Vận mệnh và sự bình yên của đất nước đang được đặt trên đầu ngọn giáo kia, đó là trọng trách lớn lao đặt lên vai người tráng sĩ, nhưng cũng chính ngọn giáo ấy là điểm tựa vững vàng che chắn cho cả dân tộc tồn tại. Câu thơ không có chủ ngữ mang ngụ ý của tác giả: đó không chỉ là một hình ảnh duy nhất của một con người duy nhất, mà là đại diện của biết bao con người thời đại, là không khí sôi sục của đất trời Đông A.
Chưa từng có một thời đại nào trong lịch sử, hình ảnh con người trở nên hùng vĩ đến vậy, một khí thế hùng tráng, lúc nào cũng hừng hực: “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”. Với cách nói ẩn dụ ước lệ kết hợp với phép phóng đại đã tạo cho người đọc một ấn tượng mạnh mẽ về khí thế dũng mãnh, kiên cường. Khí thế hiên ngang của quân đội ta xông pha ra trận phi thường đến mức có thể “nuốt trôi trâu”. Ẩn sau cách nói cường điệu hóa, người đọc cảm nhận được lòng tự tôn, niềm tự hào dân tộc của nhà thơ khi đưa tầm vóc của quân dân nhà Trần sánh ngang với vũ trụ bao la. Đó còn là tình yêu tổ quốc, dân tộc với khát vọng vươn lên để gìn giữ, bảo vệ độc lập, chủ quyền của dân tộc. Vẻ đẹp người tráng sĩ hiên ngang, hùng sảng là kết tinh của vẻ đẹp dân tộc, đây không chỉ là của một vị anh hùng cụ thể nào mà là vẻ đẹp muôn thuở của cả một dân tộc anh hùng.
Hai câu cuối, nhà thơ bộc lộ, thể hiện quan niệm về chí làm trai của mình trong thời buổi lúc bấy giờ
“Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”
(Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe thuyết vũ hầu)
Với người quân tử trong xã hội phong kiến, đã sống trên đời phải được ghi công với núi sông, chí làm trai phải là phẩm chất không thể thiếu. Đó là tuyên ngôn chung, xu hướng chung, quan niệm chung của tất cả các bậc nam nhi có chí thời bấy giờ kể cả Nguyễn Công Trứ hay Phạm Ngũ Lão. và với Phạm Ngũ Lão, công danh vẫn là một thứ mà ông còn vương nợ vì thế mà khi nghe chuyện Vũ Hầu ông cảm thấy hổ thẹn với lòng.Tuy có những cái thẹn khiến người ta trở nên nhỏ bé, có những cái thẹn khiến người ta khinh thường nhưng cũng có nhwungx cái thẹn cho người ta thấy được tầm vóc cao lớn với ý chí quyết tâm mạnh mẽ và cái thẹn của danh tướng thời Trần là cái thẹn đó. Ông so sánh mình với Vũ Hầu để biết bản thân cần phải học hỏi, cần phải cố gắng hơn, đó là một tinh thần cầu tiến của nhà thơ đối với người tài giỏi. Tuy xuất thân từ một người nông dân những tác giả thể hiện được sức mạnh ý chí và trí tuệ của mình làm cho người khác không thể nhìn vào hoàn cảnh xuất thân mà chê trách ông điều gì.
Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, chỉ với một số lượng ngôn từ ít ỏi, song lại đạt được tới sự hàm súc cao độ khi đã dựng lên được những bức chân dung con người và hào khí Đông A với vẻ đẹp hào sảng, khí thế, dũng mãnh.
Bài thơ tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão xứng đáng là khúc tráng ca hào hùng ngợi ca vẻ đẹp con người và thời đại, bài ca sẽ sống mãi theo năm tháng và luôn in hằn trong tâm trí bạn đọc.
4. Phân tích Thuật hoài
Phạm Ngũ Lão là một danh tướng đời Trần. Tuy xuất thân từ tầng lớp bình dân song chí lớn tài cao nên ông nhanh chóng trở thành tùy tướng số một bên cạnh Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Trong cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên xâm lược, Phạm Ngũ Lão cùng những tên tuổi lớn khác của triều đình đã lập nên nhiều chiến công hiển hách, góp phần quan trọng tạo nên hào khí Đông A của thời đại đó:
Ông sáng tác không nhiều nhưng Thuật hoài là một bài thơ nổi tiếng, được lưu truyền rộng rãi vì nó bày tỏ khát vọng mãnh liệt của tuổi trẻ trong xã hội phong kiến đương thời: làm trai phải trả cho xong món nợ công danh, có nghĩa là phải thực hiện đến cùng lí tưởng trung quân, ái quốc.
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu
Dịch thơ tiếng Việt:
Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu
Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.
Bài thơ được sáng tác trong bối cảnh đặc biệt có một không hai của lịch sử nước nhà. Triều đại nhà Trần (1226 – 14001) là một triều đại lẫy lừng với bao nhiêu chiến công vinh quang, mấy lần quét sạch quân xâm lược Mông – Nguyên hung tàn ra khỏi bờ cõi, giữ vững sơn hà xã tắc, nêu cao truyền thống bất khuất của dân tộc Việt.
Phạm Ngũ Lão sinh ra và lớn lên trong thời đại ấy nên ông sớm thấm nhuần lòng yêu nước, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc và nhất là lí tưởng sống của đạo Nho là trung quân, ái quốc. Ông ý thức rất rõ ràng về trách nhiệm công dân trước vận mệnh của đất nước: Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách.
Bài thơ Thuật hoài (Tỏ lòng) được làm bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt luật Đường, niêm luật chặt chẽ, ý tứ hàm súc, hình tượng kì vĩ, âm điệu hào hùng, sảng khoái. Hai câu thơ đầu khắc họa vẻ đẹp gân guốc, lẫm liệt, tràn đầy sức sống của những trang nam nhi – chiến binh quả cảm đang xả thân vì nước, qua đó thể hiện hào khí Đông A ngút trời của quân đội nhà Trần thời ấy.
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu (Dịch nghĩa: cầm ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu); dịch thơ: Múa giáo non sông trải mấy thu. So với nguyên văn chữ Hán thì câu thơ dịch chưa lột tả được hết chất oai phong, kiêu hùng trong tư thế của người lính đang chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Hoành sóc là cầm ngang ngọn giáo, luôn ở tư thế tấn công dũng mãnh, áp đảo quân thù. Tư thế của những người chính nghĩa lồng lộng in hình trong không gian rộng lớn là giang sơn đất nước trong suốt, một thời gian dài (giang sơn kháp kỉ thu). Có thể nói đây là hình tượng chủ đạo, tượng trưng cho dân tộc Việt quật cường, không một kẻ thù nào khuất phục được. Từ hình tượng ấy, ánh hào quang của chủ nghĩa yêu nước ngời tỏa sáng.
Câu thơ thứ hai: Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu. (Dịch nghĩa: khí thế của ba quân mạnh như hổ báo, át cả sao Ngưu trên trời). Dịch thơ: Ba quân hùng khí át sao Ngưu, đặc tả khí thế chiến đấu và chiến thắng không gì ngăn cản nổi của quân dân ta. Tam quân tì hổ là một ẩn dụ so sánh nghệ thuật nêu bật sức mạnh vô địch của quân ta. Khí thôn Ngưu là cách nói thậm xưng để tạo nên một hình tượng thơ kì vĩ mang tầm vũ trụ.
Hai câu tứ tuyệt chỉ mười bốn chữ ngắn gọn, cô đúc nhưng đã tạc vào thời gian một bức tượng đài tuyệt đẹp về người lính quả cảm trong đạo quân Sát Thát nổi tiếng đời Trần.
Là một thành viên của đạo quân anh hùng ấy, Phạm Ngũ Lão từ một chiến binh dày dạn đã trở thành một danh tướng khi tuổi còn rất trẻ. Trong con người ông luôn sôi sục khát vọng công danh của đấng nam nhi thời loạn. Mặt tích cực của khát vọng công danh ấy chính là ý muốn được chiến đấu, cống hiến đời mình cho vua, cho nước. Như bao kẻ sĩ cùng thời, Phạm Ngũ Lão tôn thờ lí tưởng trung quân, ái quốc và quan niệm: Làm trai đứng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông (Chí làm trai – Nguyễn Công Trứ). Bởi thế cho nên khi chưa trả hết nợ công danh thì tự lấy làm hổ thẹn:
“Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu
(Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu).
Vũ Hầu tức Khổng Minh, một quân sư tài ba của Lưu Bị thời Tam Quốc. Nhờ mưu trí cao, Khổng Minh đã lập được công lớn, nhiều phen làm cho đôi phương khốn đốn; vì thế ông rất được Lưu Bị tin yêu.
Lấy gương sáng trong lịch sử cổ kim soi mình vào đó mà so sánh, phấn đấu vươn lên cho bằng người, đó là lòng tự ái, lòng tự trọng đáng quý cần phải có ở một đấng nam nhi. Là một tùy tướng thân cận của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, Phạm Ngũ Lão luôn sát cánh bên cạnh chủ tướng, chấp nhận xông pha nơi làn tên mũi đạn, làm gương cho ba quân tướng sĩ, dồn hết tài năng, tâm huyết để tìm ra cách đánh thần kì nhất nhằm quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi. Suy nghĩ của Phạm Ngũ Lão rất cụ thể và thiết thực; một ngày còn bóng quân thù là nợ công danh của tuổi trẻ với giang sơn xã tắc vẫn còn vương, chưa trả hết. Mà như vậy là phận sự với vua, với nước chưa tròn, khát vọng công danh chưa thỏa. Cách nghĩ, cách sống của Phạm Ngũ Lão rất tích cực, tiến bộ. ông muốn sống xứng đáng với thời đại anh hùng.
Hai câu thơ sau âm hưởng khác hẳn hai câu thơ trước. Cảm xúc hào sảng ban đầu dần chuyển sang trữ tình, sâu lắng, như lời mình nói với mình cho nền âm hưởng trở nên thâm trầm, da diết.
Phạm Ngũ Lão là một võ tướng tài ba nhưng lại có một trái tim nhạy cảm của một thi nhân. Thuật hoài là bài thơ trữ tình bày tỏ được hùng tâm tráng trí và hoài bão lớn lao của tuổi trẻ đương thời. Bài thơ có tác dụng giáo dục rất sâu sắc về nhân sinh quan và lối sống tích cực đối với thanh niên mọi thời đại Thuật hoài đã làm vinh danh vị tướng trẻ văn võ song toàn Phạm Ngũ Lão.
5. Phân tích bài thơ Tỏ lòng – Mẫu 1
Từ ngàn xưa, nhân dân ta đã có truyền thống yêu nước nồng nàn, luôn sẵn sàng đứng lên bảo vệ đất nước mỗi khi đất nước cần. Lòng yêu nước được thể hiện qua nhiều lĩnh vực nhưng có lẽ nổi bật nhất vẫn là ở lĩnh vực văn học. Trong các bài thơ của ông, có một tác phẩm rất đặc biệt “Tỏ lòng” đây chính là tác phẩm đã làm toát lên rất rõ về vẻ đẹp, khí thế của con người nhà Trần. Phạm Ngũ Lão là danh tướng thời Trần, có công rất lớn trong công cuộc chống Nguyên – Mông. “Tỏ lòng” được ông sáng tác khi cuộc chiến lần thứ hai Nguyên – Mông đang đến rất gần, nhằm khơi dậy sức mạnh toàn dân. Lúc đó, tác giả cùng một số vị tướng khác được cử lên biên ải Bắc trấn giữ nước.
Nói đến hào khí Đông A là nói đến hào khí đời Trần. Thời này là một mốc son chói lọi trong lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, quân và dân thời Trần đã kiên cường anh dũng lập nên 3 kì tích: 3 lần đại thắng quân Nguyên – Mông, để có được thắng lợi đó, quân dân thời Trần đã phải vượt qua bao nhiêu khó khăn, gian khổ, căm thù giặc sôi sục cùng lòng quyết tâm chiến thắng. Hào khí dân tộc thể hiện ở sự hòa quyện giữa hình ảnh người anh hùng với hình ảnh “Ba quân” đã tạo nên một bức tranh tượng đài nghệ thuật sừng sững đang hiện ra.
“Hoành sóc giang sơn khắp kỉ thu
Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu“
Câu thơ đầu khắc họa một hình ảnh người anh hùng đang trong tư thế hiên ngang, vững chãi, “Hoành sóc” là việc cầm ngang ngọn giáo, với sứ mệnh trấn giữ giang sơn, giữ yên bờ cõi ròng rã đã mấy năm rồi mà không biết mệt mỏi. Con người đó được đặt trong một không gian kì vĩ: núi sông, đất nước khiến con người trở nên vĩ đại sánh ngang với tầm vóc vũ trụ. Hình ảnh còn mang ý nghĩa biểu tượng cho tinh thần xông pha sẵn sàng chiến đấu, một tư thế hiên ngang làm chủ chiến trường. Tiếc thay, khi ta chuyển dịch thành “múa giáo” thì phần nào đã làm hai chữ “hoành sóc” giảm đi tính biểu tượng và tư thế oai phong lẫm liệt của hình tượng vĩ đại này. Ngày xưa, quân lính chia làm ba tiểu đội: tiền quân, trung quân và hậu quân. Tuy nhiên, khi nói đến “ba quân” thì sức mạnh của cả quân đội nhà Trần, sức mạnh của toàn dân tộc đang sục sôi biết bao. Câu thơ thứ hai sử dụng thủ pháp so sánh để làm toát lên khí thế, “Tam quân tỳ hổ” chính là ví sức mạnh của tam quân giống như hổ như báo, nó vững mạnh và oai hùng. Nhờ đó, tác giả đã bày tỏ niềm tự hào về sự trưởng thành, và lớn mạnh của bậc quân đội. Không chỉ thế, câu thơ còn sử dụng thủ pháp phóng đại “Khí thôn ngưu” – khí thế quân đội mạnh mẽ lấn át cả Sao Ngưu hay là khí thế hào hùng nuốt trôi trâu. Như vậy, hai câu thơ đầu khắc họa vẻ đẹp người anh hùng hòa trong vẻ đẹp của thời đại hào hùng tạo nên những con người anh hùng. Câu thơ gây ấn tượng mạnh bởi sự kết hợp giữa hình ảnh khách quan với cảm nhận chủ quan giữa hiện thực và lãng mạn. Qua đó, tác giả bộc lộ niềm tự hào về sức mạnh của nhà Trần nói riêng cũng như là của toàn dân tộc nói chung.
“Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu“
Qua hai câu thơ trên, lí tưởng của người anh hùng đang được thể hiện rõ qua hai cặp từ “nam nhi và công danh”. Nhắc đến chí là nhắc đến chí làm trai, lập công là để lại công danh, sự nghiệp để lại danh tiếng cho muôn đời, công danh được coi là món nợ phải trả của kẻ làm trai. Một danh tướng có nỗi trăn trở, canh cánh trong lòng là chưa trả xong nợ công danh mặc dù con người ấy đã lập lên bao nhiêu chiến công rồi. Đó chính là khát vọng, lí tưởng lớn lao muốn được phò vua giúp nước, trong không khí sục sôi của thời đại bấy giờ, chí làm trai có tác dụng cỗ vũ cho con người sẵn sàng chiến đấu giành lại hòa bình cho đất nước.
Ở câu cuối của bài thơ, nói lên cái tâm của người anh hùng, điều đáng quý bên cạnh Trí là còn có cái tâm. “Thẹn với Vũ Hầu” – Vũ Hầu chính là Gia Cát Lượng, một tài năng, một nhân cách, một người có tâm, tác giả thẹn vì chưa có tài mưu lược như Gia Cát Lượng chăng? Mặc dù tác giả là người lập nhiều công cho đất nước nhưng vẫn thấy thẹn. Qua nỗi thẹn ấy, người đọc nhận ra thái độ khiêm nhường, một ý nguyện cháy bỏng được giết giặc, lập công đóng góp cho sự nghiệp chung.
Qua bài thơ, hiện lên hình ảnh của đấng nam nhi thời đại Bình Nguyên, với khát vọng có thể phá được cường địch để báo đáp hoàng ân, để non sông được vững vàng. Vẻ đẹp của người anh hùng lồng trong vẻ đẹp của thời đại làm nên hào khí của thời đại nhà Trần, hào khí Đông A. Bài thơ cũng là nỗi lòng riêng của Phạm Ngũ Lão về khát vọng lí tưởng, về nhân cách của con người phải được giữ gìn.
6. Phân tích bài thơ Tỏ lòng – Mẫu 2
Đã từng một thời, văn học Việt Nam được biết tới như những con thuyền chở đầy ý chí và khát vọng cao đẹp của người đương thời, đó là những áng thi ca trung đại đầy hào sảng, hùng tráng. Bởi vậy chăng mà cứ mỗi lần từng tiếng thơ “Thuật hoài” (Tỏ lòng – Phạm Ngũ Lão) vang lên, hiện lên trước mắt ta luôn là hình ảnh người tráng sĩ thời đại Lý – Trần với hùng tâm tráng chí sôi nổi, như những bức tượng đài đẹp nhất đại diện cho cả một thời đại đầy rực rỡ của phong kiến Việt Nam: thời đại Đông A.
Là một vị tướng tài ba từng gắn bó sâu sắc với triều đại nhà Trần, Phạm Ngũ Lão hiểu rõ hơn ai hết tấm lòng thiết tha với non sông và khao khát giữ vững độc lập chủ quyền nước nhà của tướng quân và nhân dân. Trong hoàn cảnh cả dân tộc đang dốc sức thực hiện kháng chiến chống Mông – Nguyên lần hai, cần có một liều thuốc tinh thần tiếp thêm sức mạnh để quân dân từng ngày cố gắng hơn nữa trong sự nghiệp bảo vệ đất nước; “Thuật hoài” ra đời cũng vì lẽ đó. Đặt trong một hoàn cảnh đặc biệt, được viết dưới ngòi bút của con người có tầm vóc lớn lao, bài thơ dù chỉ là một trong hai tác phẩm của Phạm Ngũ Lão còn lưu lại, song cũng đủ để ghi danh tác giả cho tới tận muôn đời.
Hai câu thơ đầu là những nét phác họa đầu tiên về chân dung người tráng sĩ Đông A:
Hoàng sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
(Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)
Bằng lối vào đề trực tiếp, trong câu thơ đầu tiên, tác giả đã dựng lên hình ảnh người tráng sĩ thời Trần mang vẻ đẹp của con người thời đại: cầm ngang ngọn giáo trấn giữ non sông. Chỉ qua một hành động “hoành sóc”, người tráng sĩ hiện lên với tư thế đầy oai hùng và kiên cường, ngay thẳng, vững vàng. Sừng sững như một bức tượng đài đầy hiên ngang giữa không gian rộng lớn của “giang sơn” và dòng thời gian dài trôi chảy “kháp kỉ thu”, người ấy mang vẻ đẹp của những đấng anh hùng từng trải, với kinh nghiệm già dặn đã được tôi luyện mỗi ngày. Vận mệnh và sự bình yên của đất nước đang được đặt trên đầu ngọn giáo kia, đó là trọng trách lớn lao đặt lên vai người tráng sĩ, nhưng cũng chính ngọn giáo ấy là điểm tựa vững vàng che chắn cho cả dân tộc tồn tại. Câu thơ tỉnh lược chủ ngữ ngắn gọn mang ngụ ý của tác giả: đó không chỉ là một hình ảnh duy nhất của một con người duy nhất, mà là tầm vóc hào sảng của biết bao con người thời đại, là không khí sôi sục của đất trời Đông A.
Chưa một thời đại nào trong lịch sử dân tộc, tầm vóc của con người lại trở nên lớn lao đến vậy, với khí thế hùng tráng: “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”. Cách nói ẩn dụ ước lệ quen thuộc trong thi pháp thơ ca trung đại với phép phóng đại “tam quân tì hổ” cho người đọc ấn tượng mạnh mẽ về đội quân “sát thát” của nhà Trần, với khí thế dũng mãnh, kiên cường. Cụm từ “khí thôn ngưu” có thể hiểu là khí thế của đội quân ra trận với sức mạnh phi thường đến mức có thể “nuốt trôi trâu”, cũng có thể hiểu khí thế ấy sôi sục tới độ át cả sao ngưu, sao mai. Trong cách nói cường điệu, ta thấy được tình cảm tự hào của nhà thơ khi đã nâng tầm vóc của quân dân nhà Trần có thể sánh ngang với thiên nhiên, vũ trụ bao la. Đó là niềm tự hào của một con người được sinh ra trong một đất nước, một thời đại hùng mạnh, đầy phấn chấn, tự tin, luôn khao khát vươn lên, giữ vững chủ quyền cho nước nhà. Từ hình ảnh người tráng sĩ hiên ngang tới tầm vóc lớn lao của ba quân thời đại, rõ ràng, vẻ đẹp người tráng sĩ ấy là kết tinh của vẻ đẹp dân tộc, và vẻ đẹp dân tộc càng tôn vinh thêm vẻ đẹp hùng sảng của những tráng sĩ thời Trần. Hai câu thơ đầu tiên vang lên, Phạm Ngũ Lão không chỉ cho ta chiêm ngưỡng vẻ đẹp của một vị anh hùng thời đại, mà là vẻ đẹp muôn thuở của một dân tộc anh hùng.
Từ tư thế hiên ngang dũng mãnh, nhà thơ giúp người đọc đi sâu hơn để khám phá tâm thế vững vàng với hùng tâm tráng chí bên trong những tráng sĩ:
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu
Với người quân tử trong xã hội phong kiến đương thời, chí làm trai là phẩm chất không thể thiếu. Ta từng nhớ đã đọc những câu thơ nhắc đến món nợ công danh của các đấng nam nhi:
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao
(Đoàn Thị Điểm)
Hay:
Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo
(Nguyễn Công Trứ)
Đối với những người tráng sĩ “bình Nguyên” thuở ấy, trong hoàn cảnh đất nước đang bị lăm le xâm chiếm bởi giặc ngoại bang, “nợ công danh” mà họ phải trả, đó là làm sao để bảo vệ trọn vẹn đất nước, để có thể đem lại yên ấm cho muôn dân. Nói khác đi, hùng tâm tráng chí trong lòng người tráng sĩ chính là niềm yêu nước thiết tha sâu nặng, là tiếng nói khát khao đánh giặc cứu lấy non sông. Điều đặc biệt là trong từng câu chữ của “Tỏ lòng”, tinh thần bất khuất ấy không được nêu lên một cách giáo điều, khô cứng, mà nó như được tỏa ra từ chính trái tim, thốt lên từ tâm can của một con người với khát vọng đang sôi cháy, rực lửa.
Để rồi, nợ công danh chưa trả hết, và người đời lại “luống thẹn” khi nghe chuyện Vũ Hầu xưa: “Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”. Câu thơ gợi lại một câu chuyện cổ về bậc anh tài Gia Cát Lượng từng giúp hình thành thế chân vạc Tam Quốc, giúp Thục – Ngô chống Tào… Người tướng sĩ thấy hổ thẹn bởi công lao của mình vẫn chưa đáng bao nhiêu so với Tôn Tử, song đó lại là cái thẹn cao cả, là cái thẹn lớn lao, đáng trân trọng của một bậc đại trượng phu. Ngũ Lão từng là một trong những vị tướng tài ba nhất của nhà Trần, làm tới chức Điện súy thượng tướng quân, vậy còn điều gì khiến người còng hổ thẹn? Rằng, đó không chỉ là nỗi thẹn, mà là niềm khao khát vươn tới những đỉnh cao, vươn tới những tầm vóc rộng lớn hơn nữa. Có những cái thẹn khiến người ta trở nên bé nhỏ, có những cái thẹn khiến cho người ta khinh, nhưng cũng có những cái thẹn cho người ta thấy được cả một tầm vóc lớn lao và ý chí mãnh liệt; cái thẹn của người tráng sĩ thời Trần là cái thẹn như thế.
“Thuật hoài” lấy tiêu đề dựa theo một mô-típ quen thuộc trong văn học trung đại, bên cạnh “Cảm hoài” của Đặng Dung, hay “Tự tình” của Hồ Xuân Hương,… những bài thơ bày tỏ nỗi lòng của người viết. Với “Tỏ lòng”, đây là lời tâm sự bày tỏ tâm tư, ý chí của Phạm Ngũ Lão, cũng là của những tráng sĩ thời Trần mà tâm can đều dành trọn cho dân tộc. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, chỉ với một số lượng ngôn từ ít ỏi, song lại đạt được tới sự hàm súc cao độ khi đã dựng lên được những bức chân dung con người và hào khí Đông A với vẻ đẹp hào sảng, khí thế, dũng mãnh.
Cùng với “Hịch tướng sĩ” – Trần Quốc Tuấn, “Bạch Đằng giang phú” – Trương Hán Siêu,… “Thuật hoài” mãi là khúc tráng ca hào hùng ngợi ca vẻ đẹp con người và thời đại, và sẽ tồn tại mãi cùng với dòng trôi chảy của thời gian…
7. Phân tích Tỏ lòng – Mẫu 3
Phạm Ngũ Lão là một người tài giỏi, có lòng yêu nước nồng nàn, bản lĩnh phi thường, ông là một tướng tài đồng thời cũng là người có tâm hồn văn chương. Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông là bài thơ Tỏ lòng. Văn bản thể hiện những tâm tư, nỗi niềm của vị tướng tài, đồng thời tái hiện chân thực hào khí Đông A sôi sục, hào hùng của thời đại.
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Hai câu thơ đầu đã vẽ nên hình ảnh người tráng sĩ đời Trần với tư thế hiên ngang, dũng mãnh “cầm ngang ngọn giáo”, cho thấy tư thế hiên ngang, chủ động khác với câu thơ dịch là “múa giáo” mang tính chất phô trương, biểu diễn, không thể hiện được tư thế anh hùng, hiên ngang của người tướng sĩ. Đồng thời không gian nhân vật trữ tình đứng cũng vô cùng bao la, rộng lớn: giang sơn. Tưởng rằng đứng trong không gian ấy con người sẽ trở nên bé nhỏ, chìm khuất trong không gian vũ trụ bao la, nhưng ngược lại, con người hiện lên trong tư thế làm chủ, mang tầm vóc lớn lao ôm trọn cả non sông đất nước. Tư thế ấy còn cho thấy tinh thần sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng xả thân để bảo vệ biên cương, lãnh thổ toàn vẹn. Không chỉ vậy, thời gian được nhắc đến ở đây đã trải mấy thu, đó là khoảng thời gian dài, điều ấy còn khẳng định ý chí, quyết tâm bền bỉ của nhân vật trữ tình. Câu thơ thứ nhất vừa cho ta thấy tầm vóc hiên ngang, vừa cho thấy lòng yêu nước nồng nàn của nhân vật trữ tình.
Câu thơ thứ hai tái hiện lại sức mạnh của quân đội nhà Trần. Tác giả sử dụng các hình ảnh “tam quân” “tì hổ” “khí thôn ngưu” để làm rõ vẻ đẹp sức mạnh đó. Tam quân để nói về quân đội nhà Trần bao gồm tiền quân, trung quân và hậu quân. Còn tì hổ để nói về sức mạnh to lớn như hổ báo của quân đội, biện pháp so sánh đã một lần nữa khẳng định sự dũng mạnh, nhanh nhẹn của quân đội nhà Trần. “Khí thôn ngưu” có thể hiểu theo hai cách, cách thứ nhất tức là khí thế nuốt trôi trâu, nhưng cũng có thể hiểu khí thế át sao Ngưu. Dù hiểu theo cách nào cũng đều thấy được khí thế, sức mạnh vô song của quân đội nhà Trần. Với hai câu thơ đầu, tác giả đã tái hiện sinh động, chân thực vẻ đẹp của con người thời đại nhà Trần với sức mạnh vô song. Qua đó ta còn cảm nhận được hào khí oanh liệt của thời đại mà dân tộc bừng bừng khí thế, quyết tâm đánh giặc cứu nước.
8. Phân tích Tỏ lòng – mẫu 4
Phạm Ngũ Lão là một trong những danh tướng nước ta thời nhà Trần. Ông không viết thơ nhiều nhưng tác phẩm của ông đều để lại những dấu ấn riêng. Bài thơ “Thuật hoài” hay còn gọi là “tỏ lòng” là một tác phẩm nổi tiếng của Phạm Ngũ Lão thể hiện tình yêu nước nồng nàn cùng niệm tự hào và khát vọng cống hiến khi tổ quốc bị xâm lăng.
“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”
Bài thơ tỏ lòng được sáng tác bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đường luật, tuy ngắn gọn với bốn câu thơ nhưng lại mang nhiều hàm ý sâu sắc. Mở đầu bài thơ, Phạm Ngũ Lão đã tái hiện hình ảnh quân đội nhà Trần mạnh mẽ, oai phong thời ấy trên con đường đánh đuổi giặc ngoại xâm:
“Hoàng sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”
(Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)
Hình ảnh người tráng sĩ thời Trần hiện lên trong câu thơ thật oai phong, lẫm liệt qua hình ảnh cây “giáo”. Tư thế của người tráng sĩ hiên ngang ấy được đặt trong không gian rộng lớn của “giang sơn” và thời gian dài “kháp kỉ thu”. Câu thơ thể hiện sức mạnh khỏe khoắn, tư thế hiên ngang sẵn sàng chiến đấu của người tráng sĩ xưa. Người tráng sĩ ấy đứng giữa non sông đất nước hùng vĩ, luôn vững vàng bảo vệ tổ quốc đã mấy thu rồi. Hình ảnh con người hiện lên thật đẹp đẽ, oai phong như vẽ lên một bức tượng đài bất tận về tráng sĩ oai hùng thời Trần.
Không chỉ hình ảnh một tráng sĩ hiện lên oai hùng, mà cả “tam quân” thời Trần được khắc họa thật mạnh mẽ phi thường. Hình ảnh ẩn dụ, phóng đại “hổ khí thôn ngưu” là một hình ảnh đẹp, mang tầm vóc lớn. “Hổ khí thôn ngưu” mang ý nghĩa như hổ báo “nuốt trôi trâu” có ý nghĩa lớn trong việc tái hiện khí thế hào hùng của đội quân nhà Trần. Hiện lên trong tâm trí người đọc là ba đội quân hùng hậu, đông đảo với sức mạnh to lớn đang ra quân ào ào và khát vọng chiến đấu hết mình cho giang sơn đất nước.
Khí thế hào hùng này là khí thế của một thời hào khí Đông A , gợi cho ta nhớ đến những câu oai hùng trong bài Hịch tướng sĩ thời Trần “Ta thường tới bữa quên ăn , nửa đêm vỗ gối , ruột đau như cắt , nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng”.
Với hào khí của một thời chiến đấu oai hùng, bảo vệ từng mảnh đất cho giang sơn đất nước, Phạm Ngũ Lão tiếp tục nói lên những suy nghĩ của bản thân về trí làm trai thời ấy:
“Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”
(Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu)
Phạm Ngũ Lão đã nhắc đến món nợ công danh “công danh trái”. Đối với những người nam nhi sống trong thời đại xưa, con đường công danh vô cùng quan trọng. “Nợ công danh” ở đây không phải là công danh tầm thường, ích kỷ cho riêng bản thân mình. Mà nó chính là món nợ lớn với đất nước, là ý trí và tài năng của một người nam tử hán đại trượng phu, đầu đội trời chân đạp đất, dám hi sinh vì nghĩa lớn, vì sự nghiệp chung của toàn dân tộc.
Qua câu thơ, Phạm Ngũ Lão đã thể hiện nỗi lòng, khát khao của bản thân muốn cống hiến nhiều hơn nữa cho giang sơn, đất nước để trả món nợ công danh của trí làm trai. Nhà thơ Nguyễn Công Trứ cũng từng có nhiều vần thơ hay khi nói về “phận sự làm trai”:
“Vũ trụ chức phận nội
Đấng trượng phu một túi kinh luân.
Thượng vị đức, hạ vị dân,
Sắp hai chữ “quân, thân” mà gánh vác”
Phạm Ngũ Lão đã là một danh tướng, có công lớn với đất nước với thời nhà Trần. Vậy mà ông vẫn luôn cảm thấy hổ thẹn khi nghe “thuyết Vũ Hầu”. Ông đã khéo léo khi nhắc đến một người dưng trí đa mưu là Gia Cát Lượng trong thời Tam Quốc để thể hiện nỗi thẹn của mình.
Ông thẹn bởi chưa đủ tài cao, mưu trí như Gia Cát Lượng. Nhưng cái “thẹn” ấy lại càng làm toát lên nhân cách cao đẹp trong con người Phạm Ngũ Lão. Câu thơ thể hiện một khát khao cháy bỏng của bị tướng có tài, muốn cống hiến hết mình trong sự nghiệp chung của đất nước. Đó là trí khí anh hùng của một vị tướng vừa có tâm, vừa có tầm đáng kính trọng.
Chỉ với bốn câu thơ ngắn gọn, lời thơ đanh thép, hào hùng, hình ảnh thơ độc đáo, nhịp thơ khi nhanh mạnh dứt khoát, lúc lại chậm rãi như những dòng suy tư. Bài thơ đã gợi lên một thời hào hùng của cả dân tộc thời đại nhà Trần cùng ý chí sục sôi chiến đấu của người tráng sĩ và mong muốn cống hiến hết mình cho đất nước của danh tướng Phạm Ngũ Lão.
Bài thơ cùng thời đại này có cách xa chúng ta hàng bao nhiêu thế kỷ nhưng vẫn để lại những âm vang lớn trong trái tim triệu triệu người đọc.
9. Phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão
Phạm Ngũ Lão (1255-1320), là một vị tướng tài dưới triều Trần, từng đóng góp rất nhiều công lao trong cả hai cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên xâm lược. Khi còn tại thế ông đã từng giữ đến chức Điện súy, phong tước quan nội hầu, đương thời ông chỉ xếp sau cha vợ mình là Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn – vị tướng vĩ đại nhất lịch sử phong kiến nước ta về danh tiếng. Tuy là con nhà võ, hàng năm quen chuyện binh đao thế nhưng Phạm Ngũ Lão cũng lại là người rất yêu thích thơ ca và được người đời khen tặng là văn võ toàn tài.
Ông từng sáng tác rất nhiều bài thơ hay, thế nhưng theo dòng lịch sử đa số bị thất lạc, đến nay chỉ còn lại hai bài Tỏ lòng và Viếng thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương. Về thi ca, trong văn học trung đại luôn nằm trong một quy phạm chung, làm thơ thì phải bao hàm chữ “chí”, trong “Văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí”. Nghĩa rằng thơ văn thì phải truyền tải một nội dung giáo dục nào đó to lớn, và Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão là một trong số những bài thơ tiêu biểu nhất thể hiện cái tính quy phạm đặc trưng này của nền văn học trung đại – lời là lời giáo huấn về chí nam nhi đầy hào khí của thời Trần.
Cho đến tận ngày hôm nay vẫn chưa có một cứ liệu chính xác nào về hoàn cảnh ra đời của Tỏ lòng (Thuật hoài), nhưng theo một số suy đoán thì bài thơ được sáng tác vào năm 1284, trước khi diễn ra diễn ra cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên lần thứ hai. Lúc này Phạm Ngũ Lão được cử đi trấn giữ biên giới cùng một số tướng lĩnh khác để chuẩn bị cho chiến sự. Ở hai câu thơ đầu Phạm Ngũ Lão đã tái hiện một cách xúc tích và ấn tượng về vẻ đẹp của con người và quân đội thời Trần.
“Hoành sóc giang sơn kháp kỷ thu,
Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu.”
Để khắc họa hình ảnh con người thời Trần, tác giả đã khéo léo dựng lên một bối cảnh không gian và thời gian rất đặc biệt, là một cái phông nền độc đáo để từ đó làm nổi bật lên vẻ đẹp của những con người sống dưới triều Trần, một triều đại nhiều bão táp mưa sa nhất lịch sử phong kiến. Về bối cảnh không gian, Phạm Ngũ Lão chọn hai chữ “giang sơn” vốn là từ ghép hợp nghĩa, ở đây tức là chỉ sông núi, từ đó mở ra trước mắt người đọc một không gian vô cùng bao la, rộng lớn và khoáng đạt, đó là không gian của cả một quốc gia, dân tộc.
Bên cạnh không gian, thì bối cảnh thời gian được gợi mở bằng ba từ “kháp kỷ thu”, ý chỉ đã qua hết mấy thu rồi, trước cái cách đo đếm thời gian ấy đã gợi cho người đọc về một khoảng thời gian dài lâu, có bề dày lịch sử bền vững. Trên cái nền không gian, thời gian dài rộng ấy lại nổi bật lên hình ảnh con người trong tư thế “hoành sóc”, cầm ngang ngọn giáo để trấn giữ non sông đã qua mấy thu.
Tầm vóc của con người nổi bật thông qua hình ảnh ngọn giáo dường như được đo bằng cả chiều rộng của giang sơn, chiều dài của thời gian, vô cùng hiên ngang và hùng tráng. Mang vẻ kỳ vĩ, lớn lao, sánh ngang với tầm vóc vũ trụ, đặc biệt tư thế cầm ngang ngọn giáo gợi ra cho người đọc về phẩm chất kiên cường, bền bỉ, anh dũng luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, trong nhiệm vụ trấn giữ non sông, bảo vệ đất nước như những vị thần.
Điều này gợi nhắc ta về câu chuyện lịch sử, quân Mông – Nguyên mượn cớ mượn đường nước ta để sang đánh Chiêm Thành, nhưng thực tế âm mưu của chúng là hòng thôn tính Đại Việt. Trước sự nghi ngại, quân đội nhà Trần quyết lật đổ âm mưu của giặc, trong sự chuẩn bị bao gồm việc cử Phạm Ngũ Lão và một số tướng lĩnh tài giỏi ra trấn giữ tại biên giới để đề phòng giặc tấn công bất ngờ.
Trước hoàn cảnh ấy, có lẽ ứng với hình ảnh vị tướng cầm ngang ngọn giáo, kiêu hùng canh giữ từng tấc đất của Tổ quốc là hoàn toàn hợp lý và xuất phát từ những sự kiện có thật để tạo nên cảm hứng đầy hào khí hiên ngang, mạnh mẽ trong Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão. Tản mạn một chút về câu thơ dịch “Múa giáo non sông trải mấy thu” của Bùi Văn Nguyên, thì có lẽ rằng ý thơ chưa thực sự đạt, bởi với hai từ “múa giáo” thực tế chỉ cốt thiên về cái “mỹ”, đẹp và có chất thơ, nhưng lại thiếu đi cái chí “hùng” mà tác giả muốn biểu đạt.
Còn trong bản gốc hai từ “hoành sóc” mới thực sự diễn tả đúng cái khí thế hùng tráng, hiên ngang của một vị tướng, thậm chí là biểu đạt vẻ kiên cường, hào khí cho cả một thế hệ những con người dưới thời Trần, trước hai cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên xâm lược.
Đó là hình ảnh con người thời Trần, ở câu thừa đề, tác giả đã sử dụng từ “tam quân” tức là ba quân, là đặc trưng của các tổ chức quân đội thời xưa, của các nước phương Đông bao gồm tiền quân, trung quân và hậu quân. Mà ẩn chứa sau đó là tác giả muốn nói về sức mạnh về cái sự đồng lòng của toàn quân, toàn dân tộc trong công cuộc kháng chiến. Đặc biệt để diễn tả được sức mạnh và hào khí của quân đội trong thời đại này tác giả đã sử dụng phép so sánh “Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu”.
Phép so sánh này đã gợi ra cho người đọc hai cách hiểu chính, thứ nhất có thể diễn giải đơn giản theo ý trên mặt chữ rằng ba quân mạnh như hổ, như báo có thể nuốt trôi cả một con trâu lớn. Một cách hiểu thứ hai có phần văn vẻ và suy diễn nhiều hơn ấy là sức mạnh của ba quân như hổ báo, thậm chí át cả sao Ngưu đang ngự trên trời. Cách hiểu thứ hai vừa mang giá trị hiện thực vừa mang một chút cảm hứng lãng mạn hiếm có trong thi ca trung đại, gợi tạo cảm hứng sử thi anh hùng ca mạnh mẽ. Tổng kết lại sức mạnh của quân đội thời Trần được tóm gọn bằng cụm từ “hào khí Đông A”, gọi là Đông A bởi vốn hai chữ này là hai bộ thủ trong chữ Hán ghép lại thành chữ Trần.
Sau hai câu khai đề và thừa đề diễn đạt hào khí chung của dân tộc, thì đến hai câu chuyển và câu hợp là để giải thích và làm rõ ý của câu đề và của cả bài thơ. Chuyển là chuyển từ khách thể sang chủ thể là tác giả, để bày tỏ nỗi lòng, tâm tư, nguyện vọng của bản thân về chí làm trai, về món nợ công danh phải trả cho đất nước. Đồng thời câu hợp để kết lại, thể hiện sáng rõ vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách lớn lao của Phạm Ngũ Lão. “Nam nhi vị liễu công danh trái” ý chỉ lý tưởng, chí lớn lập công danh, thể hiện qua quan niệm, nhận thức của tác giả về món nợ công danh của kẻ làm trai.
Ở đây món nợ công danh xuất phát từ quan niệm “nhập thế tích cực” của Nho giáo, khác với quan niệm “xuất thế” của Phật giáo, chủ trương lánh đời, ở ẩn, quên đi chuyện thế sự, nhiễu nhương, để tâm hồn thanh tịnh,…. Thì đối với Nho giáo, con người đặc biệt là người nam nhi phải mạnh mẽ đứng giữa cuộc đời sóng gió, dùng hết tài trí sức lực của mình để cống hiến cho đời, giúp dân giúp nước.
Trong đó việc ứng thí khoa cử, tham gia vào chốn quan trường chính là một trong những biểu hiện rõ rõ nét và phổ biến nhất của quan niệm “nhập thế tích cực”, và Phạm Ngũ Lão chính là một trong số những con người chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi quan niệm này. Quan niệm ấy đã tạo dựng nên mục đích sống, lý tưởng sống chung của các đấng nam nhi dưới thời đại này là phải lập được công danh, có sự nghiệp, tiếng thơm lưu truyền đến muôn đời. Trở thành một trong những điều tối cần của chí làm trai, mà trong văn học Việt Nam đã từng có rất nhiều nhà thơ đề cập đến ví như Nguyễn Công Trứ với “Chí làm trai nam bắc đông tây/Cho thỏa sức vẫy vùng trong bốn bể”.
Đặt trong hoàn cảnh đất nước đương thời, quân xâm lược đang ngấp nghé bờ cõi, thì cũng là lúc để cho những kẻ làm trai có cơ hội trả món nợ công danh, ra sức giúp nước, giúp dân lập chí lớn. Người nam nhi phải từ bỏ những lối sống tầm thường, ích kỷ, vui vầy vợ con, ruộng vườn để xông pha trận mạc sẵn sàng hy sinh cho sự nghiệp cứu nước, cứu dân. Có thể nói rằng món nợ công danh trong trong nhận thức của Phạm Ngũ Lão vừa mang tư tưởng tích cực của thời đại vừa mang tinh thần dân tộc sâu sắc. Chính vì thế nó luôn canh cánh, trăn trở trong cõi lòng của tác giả.
Bên cạnh chí lớn làm trai cùng với quan niệm món nợ công danh trước thời cuộc, thì câu thơ cuối chính là câu thơ tỏ rõ vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao thượng của Phạm Ngũ Lão. Nhân cách cao của tác giả thể hiện qua nỗi thẹn của ông khi nghe chuyện Vũ Hầu. Vũ Hầu ở đây chính là chỉ Gia Cát Lượng, một vị quân sư lỗi lạc, một nhân vật lịch sử vĩ đại, là người cộng sự trung thành, đóng góp những công lao to lớn trong công cuộc mở mang bờ cõi của Lưu Bị – vua nước Thục trong bối cảnh tam quốc phân tranh cực gay gắt làm thành thế chân kiềng.
Đứng trước con người mang tầm vóc như vậy Phạm Ngũ Lão dù rằng đã lập được rất nhiều công danh nhưng vẫn cảm thấy bản thân mình quá nhỏ bé, tựa như hạt cát giữa sa mạc mênh mông, đồng nghĩa với việc ông ý thức được rằng món nợ công danh đã trả chẳng thấm tháp vào đâu, mà vẫn còn phải cố gắng trả nhiều hơn nữa thì mới xứng với phận nam nhi, xứng với Tổ quốc.
Từ những biểu hiện trên ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn của Phạm Ngũ Lão trước hết là ở ý chí nỗ lực muốn theo gương người xưa lập công danh cho xứng tầm, thứ hai ấy là lý tưởng, chí lớn mong muốn lập được công danh sánh ngang với nhân vật lịch sử lỗi lạc. Có thể nói rằng nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão là nỗi thẹn của một nhà nho có nhân cách lớn, cũng là nỗi thẹn của một người dân yêu nước khi mà cái họa xâm lăng vẫn đang treo lơ lửng trước mắt.
Thuật hoài đã khắc họa vẻ đẹp của người anh hùng vệ quốc hiên ngang, đồng thời cũng cho thấy sự lẫm liệt, lý tưởng và nhân cách lớn lao của con người thời Trần, từ đó khái quát hóa, ca ngợi hào khí của những con người đương thời – vẻ đẹp của hào khí Đông A. Về nghệ thuật, bài thơ có tính hàm súc, cô đọng “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”, đồng thời bài thơ còn mang tính sử thi với những hình tượng thơ kì vĩ lớn lao đã nâng tầm vóc người anh hùng sánh ngang với tầm vóc của vũ trụ rộng lớn.
10. Cảm nhận bài thơ Tỏ Lòng
Triều đại nhà Trần (1126-1400) là một mốc son chói lọi trong 4000 năm dựng nước và giữ nước của lịch sử dân tộc ta. Ba lần kháng chiến và đánh thắng quân xâm lược Nguyên – Mông, nhà Trần đã ghi vào lịch sử vàng Đại Việt những chiến công Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng… bất tử.
Khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta và tướng sĩ đời Trần được các sử gia ca ngợi là “Hào khí Đông A”. Thơ văn đời Trần là tiếng nói của những anh hùng – thi sĩ dào dạt cảm hứng yêu nước mãnh liệt. “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Toản, “Thuật hoài” (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lão, “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu,… là những kiệt tác chứa chan tình yêu nước và niềm tự hào dân tộc.
Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là một danh tướng đời Trần, trăm trận trăm thắng, văn võ toàn tài. Tác phẩm của ông chỉ còn lại hai bài thơ chữ Hán: “Thuật hoài” và “Vãn Thượng tướng Quốc công Hưng Đạo Đại vương”.
Bài thơ “Tỏ lòng” thể hiện niềm tự hào về chí nam nhi và khát vọng chiến công của người anh hùng khi Tổ quốc bị xâm lăng. Nó là bức chân dung tự họa của danh tướng Phạm Ngũ Lão.
Hoành sóc giang san kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.
Cầm ngang ngọn giáo (hoành sóc) là một tư thế chiến đấu vô cùng hiên ngang dũng mãnh. Câu thơ “Hoành sóc giang san kháp kỉ thu” là một câu thơ có hình tượng kỳ vỹ, tráng lệ, vừa mang tầm vóc không gian (giang san) vừa mang kích thước thời gian chiều dài lịch sử (kháp kỉ thu). Nó thể hiện tư thế người chiến sĩ thuở “bình Nguyên” ra trận hiên ngang, hào hùng như các dũng sĩ trong huyền thoại. Chủ nghĩa yêu nước được biểu hiện qua một vần thơ cổ kính trang nghiêm: cầm ngang ngọn giáo, xông pha trận mạc suốt mấy mùa thu để bảo vệ giang sơn yêu quý.
Đội quân “Sát Thát” ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp (ba quân) với sức mạnh phi thường, mạnh như hổ báo “tỳ hổ” quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Khí thế của đội quân ấy ào ào ra trận. Không một thế lực nào, kẻ thù nào có thể ngăn cản nổi. “Khí thôn Ngưu” nghĩa là khí thế, tráng chí nuốt sao Ngưu, làm át, làm lu mờ sao Ngưu trên bầu trời. Hoặc có thể hiểu: ba quân thế mạnh nuốt trôi trâu. Biện pháp tu từ thậm xưng sáng tạo nên một hình tượng thơ mang tầm vóc hoành tráng, vũ trụ: “Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu”. Hình ảnh ẩn dụ so sánh: “Tam quân tì hổ…” trong thơ Phạm Ngũ Lão rất độc đáo, không chỉ có sức biểu hiện sâu sắc sức mạnh vô địch của đội quân “sát thát” đánh đâu thắng đấy mà nó còn khơi nguồn cảm hứng thơ ca; tồn tại như một điển tích, một thi liệu sáng giá trong nền văn học dân tộc:
“Thuyền bè muôn đội
Tinh kỳ phấp phới
Tỳ hổ ba quân, giáo gươm sáng chói…”
(Bạch Đằng giang phú)
Người chiến sĩ “bình Nguyên” mang theo một ước mơ cháy bỏng: khao khát lập chiến công để đền ơn vua, báo nợ nước. Thời đại anh hùng mới có khát vọng anh hùng! “Phá cường địch, báo hoàng ân” (Trần Quốc Toản) – “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo” (Trần Thủ Độ). “…Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng” (Trần Quốc Tuấn)… Khát vọng ấy là biểu hiện rực rỡ những tấm lòng trung quân ái quốc của tướng sĩ, khi tầng lớp quý tộc đời Trần trong xu thế đi lên gánh vác sứ mệnh lịch sử trọng đại. Họ mơ ước và tự hào về những chiến tích hiển hách, về những võ công oanh liệt của mình có thể sánh ngang tầm sự nghiệp anh hùng của Vũ Hầu Gia Cát Lượng thời Tam Quốc. Hai câu cuối sử dụng một điển tích (Vũ Hầu) để nói về nợ công danh của nam nhi thời loạn lạc, giặc giã:
“Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”.
“Công danh” mà Phạm Ngũ Lão nói đến trong bài thơ là thứ công danh được làm nên bằng máu và tài thao lược, được tinh thần quả cảm và chiến công. Đó không phải là thứ “công danh” tầm thường, đậm màu sắc anh hùng cá nhân. Nợ công danh như một gánh nặng mà kẻ làm trai nguyện trả, nguyện đền bằng xương máu và lòng dũng cảm. Không chỉ “Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”, mà tướng sĩ còn học tập binh thư, rèn luyện cung tên chiến mã, sẵn sàng chiến đấu “Khiến cho người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa Khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai,…” để Tổ quốc Đại Việt được trường tồn bền vững: “Non sông nghìn thuở vững âu vàng” (Trần Nhân Tông).
“Thuật hoài” được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Giọng thơ hùng tráng, mạnh mẽ. Ngôn ngữ thơ hàm súc, hình tượng kì vỹ, tráng lệ, giọng thơ hào hùng, trang nghiêm, mang phong vị anh hùng ca. Nó mãi là khúc tráng ca của các anh hùng tướng sĩ đời Trần, sáng ngời “hào khí Đông A”.
Bài văn mẫu cảm nhận về bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão
Trong kho tàng văn học trung đại Việt Nam, ngoài nội dung lớn là nhân đạo còn có một nội dung luôn đồng hành suốt các chặng đường của văn học dân tộc chính là nội dung yêu nước. Lòng yêu nước được thể hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau: ý chí đánh giặc xâm lược, tình yêu thiên nhiên,… Góp một phần vào chủ đề này là bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão. Bài thơ đã cho thấy vẻ đẹp hào hùng của con người, quân đội nhà Trần và thể hiện vẻ đẹp tâm hồn, lòng yêu nước của tác giả.
Trước hết, bài thơ làm người đọc biết bao xúc động, tự hào về vẻ đẹp hào hùng của con người và quân đội nhà Trần. Con người Open trong tư thế thật kì vĩ lớn lao. Để chuẩn bị sẵn sàng cho sự Open của con người tác giả đã dựng lên toàn cảnh không gian hùng vĩ, to lớn. Không gian : giang sơn, đó là khoảng trống bát ngát, lớn rộng, khoảng trống của vương quốc, dân tộc bản địa. Thời gian : kháp kỉ thu ( đã mấy thu ) cho thấy khoảng chừng thời hạn lâu dài hơn, bền bững. Trên bức phông nền đó hình ảnh con người hiện lên thật điển hình nổi bật với tư thế hoành sóc ( cầm ngang ngọn giáo ). Hình như ở đây chiều dài ngọn giáo sánh ngang với tầm vóc tổ quốc, quốc gia. Con người không nhỏ bé trước khoảng trống vạn vật thiên nhiên to lớn mà tầm vóc con người sánh ngang với ngoài hành tinh. Con người hiên ngang, kiên cường, bền chắc trong trách nhiệm bảo vệ quốc gia, trấn giữ biên cương .Bên cạnh vẻ đẹp của nhân vật trữ tình, ở câu thơ thứ hai tác giả khẳng định chắc chắn vẻ đẹp anh hùng, dũng mãnh của quân đội nhà Trần .Tam quân tì hổ khí thôn ngưuTam quân để nói về phương pháp tổ chức triển khai quân đội thời xưa : toàn quân ( tiền quân, trung quân, hậu quân ). Đồng thời bộc lộ sức mạnh, sự đồng lòng của cả dân tộc bản địa, cả thời đại trước quân địch. Tác giả sử dụng hình ảnh so sánh rực rỡ, mang đến hai cách hiểu : hoàn toàn có thể hiểu ba quân mạnh như hổ báo, nuốt trôi trâu ; nhưng cũng hoàn toàn có thể hiểu ba quân mạnh như hổ báo, khí thế át cả sao Ngưu trên trời. Câu thơ vừa có chất hiện thực vừa có chất lãng mạn và dù hiểu theo cách nào, cũng hoàn toàn có thể thấy được sức mạnh vô địch, lớn lao của hào khí Đông A đời Trần .Không chỉ dừng lại ở hào khí hào hùng của dân tộc bản địa, bài thơ còn bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách và lí tưởng của tác giả. Nhân vật trữ tình biểu lộ chí lớn lập sự nghiệp biểu lộ qua nợ công danh sự nghiệp : Nam nhi vị liễu sự nghiệp trái. Quan niệm nợ sự nghiệp xuất phát từ ý niệm nhập thế tích cực của Nho giáo : phải ở giữa cuộc sống này, dốc hết tâm sức để giúp dân, giúp đời. Xuất phát từ ý thức thời đại, hình thành lí tưởng sống của những trang đàn ông trong xã hội đương thời : phải lập sự nghiệp ( công : sự nghiệp lớn lao, danh : để tiếng thơm của mình lưu truyền muôn đời ). Quan niệm này được nhắc đến nhiều lần trong thơ ca lâu nay :“ Làm trai cho đáng nên traiXuống đông đông tĩnh lên đoài đoài yên ”“ Làm trai cho đáng nên traiPhú Xuân đã trải Đồng Nai đã từng ”Không chỉ có trong văn học dân gian, mà văn học trung đại cũng nói đến chí làm trai :“ Chí làm trai Nam Bắc Tây ĐôngCho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể ”“ Đã mang tiếng ở trong trời đấtPhải có danh gì với núi sông ”Nợ sự nghiệp đặt trong thực trạng đương thời, khi Phạm Ngũ Lão viết bài thơ này : Đất nước đương đầu với giặc ngoại xâm hùng mạnh, đây là lúc những kẻ làm trai biểu lộ chí lớn, để trả món nợ sự nghiệp. Món nợ công danh sự nghiệp càng bị hối thúc hơn khi nào hết. Nhân vật trữ tình tự nhắc nhở mình trả món nợ sự nghiệp, từ bỏ lối sống ích kỉ, xông pha trận mạc để cứu nước, cứu dân. Món nợ sự nghiệp trong nhận thức của Phạm Ngũ Lão vừa mang tư tưởng tích cực của thời đại, vừa mang ý thức dân tộc bản địa. Chính do đó nó luôn luôn canh cánh trong lòng Phạm Ngũ Lão .Ông còn là người có nhân cách vô cùng lớn lao, điều đó được biểu lộ qua nỗi thẹn với Vũ Hầu : Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu. Vũ Hầu tức là Gia Cát Lượng – vị quân sư nổi tiếng, nhân vật lịch sử vẻ vang lỗi lạc, một bề tôi trung thành với chủ giúp Lưu Bị tạo ra sự những chiến công oanh liệt để kiến thiết xây dựng và giữ vững nước Thục. Khi nhắc đến Vũ Hầu đã biểu lộ vẻ đẹp tâm hồn của Phạm Ngũ Lão. Đó là một con người có ý chí, nỗ lực muốn theo gương người xưa để lập công danh sự nghiệp cho xứng tầm. Chí lớn đó còn mong ước mình có những chiến công sánh ngang những nhân vật lịch sử dân tộc lỗi lạc. Qua đó còn cho thấy nhân cách lớn của một con người yêu nước, thương dân, luôn mang trong mình nỗi cánh cánh cứu nước, giúp đời .
Bài thơ vô cùng hàm súc, cô đọng đã khắc họa một cách chân thực và đầy đủ nhất về hình tượng người anh hùng vệ quốc hiên ngang, lẫm liệt với lí tưởng và nhân cách lỗi lạc. Qua đó, tác phẩm còn ca ngợi vẻ đẹp thời đại với sức mạnh và khí thế hào hùng của dân tộc.
Xem thêm: Đồ án Máy ép thủy lực.
Xem thêm : Phân tích bài thơ Tỏ lòng – Phạm Ngũ Lão—————————-
Trên đây là nội dung dàn ý cảm nhận về bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão bao gồm mẫu dàn ý chi tiết và bài văn tham khảo chọn lọc hay nhất. Hy vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích phục vụ việc học tập của các em. Ngoài ra, các em hãy truy cập doctailieu.com để tham khảo những bài văn mẫu 10 phong phú khác mà chúng tôi đã sưu tầm và tổng hợp nhé. Chúc các em luôn học tốt và đạt kết quả cao!
Source: https://camnangbep.com
Category: Học tập
Thư Viện Hỏi Đáp cũng giúp giải đáp những vấn đề sau đây:
Chuyên đề tỏ lòng
Giáo án tỏ lòng
Nhân vật To lòng trong bài thơ là ai
Bài tập tỏ lòng
Các biện pháp tu từ trong bài tỏ lòng
Điển tích điển cố trong bài to lòng
Cảm nhận to lòng
Phong cách ngôn ngữ bài to lòng
#Dàn #cảm #nhận #về #bài #thơ #Tỏ #lòng #của #Phạm #Ngũ #Lão #và #Top #mẫu #phân #tích #bài #thơ #Tỏ #lòng #hay #nhất
- Tổng hợp: Thư Viện Hỏi Đáp
- #Dàn #cảm #nhận #về #bài #thơ #Tỏ #lòng #của #Phạm #Ngũ #Lão #và #Top #mẫu #phân #tích #bài #thơ #Tỏ #lòng #hay #nhất
Trang chủ: tmdl.edu.vn
Danh mục bài: Phân tích các tác phẩm văn học lớp 9